Thiết bị “ngửi” được mùi người mắc Covid-19 chính xác 100% có gì đặc biệt?

Hãng Robo Scientific đang tiến hành thử nghiệm một thiết bị có khả năng phát hiện người mắc Covid-19 chính xác 100% sau 15 phút thông qua mùi.

Với độ chính xác được tuyên bố là 98-100%, model này được kỳ vọng giúp việc phát hiện bệnh nhân Covid-19 tại các phòng kín như cabin máy bay, lớp học, văn phòng trở nên nhanh chóng hơn.

Theo New York Post, mùi được tạo ra từ quá trình trao đổi chất của người nhiễm virus SARS-CoV-2 sẽ được máy ghi nhận. Dấu vết mùi được nhận biết ngay cả với những người không có triệu chứng, do đó hệ thống sàng lọc này có thể phát hiện bệnh nhân sớm hơn, tránh virus lây lan rộng.


Thiết bị có thể ngửi mùi người mắc Covid-19 chính xác 100%. Ảnh: Zing News

Thiết bị sẽ lấy mẫu không khí theo định kỳ, tự động kiểm tra những người trong phòng có nhiễm Covid-19 hay không. Việc lấy mẫu không khí diễn ra trong phòng kín từ 15-30 phút. Nếu phát hiện dấu vết kỹ thuật số liên quan đến virus, thiết bị sẽ tự động cảnh báo với người phụ trách qua SMS hoặc Wi-Fi.

Robo Scientific cũng đang nghiên cứu thiết bị xét nghiệm cá nhân có công nghệ tương tự, giúp phát hiện Covid-19 qua hơi thở. Việc xét nghiệm cũng diễn ra tự động chỉ trong vòng vài phút từ lúc lấy mẫu hơi thở đến khi cho ra kết quả. Giống khứu giác của loài chó, Robo Scientific Monitor có độ nhạy cao và nhận ra sự hiện diện của dấu vết mùi kỹ thuật số dựa vào các cảm biến của hãng.

Thử nghiệm bởi các nhà nghiên cứu từ Trường Y học Nhiệt đới Vệ sinh Dịch tễ London (LSHTM) và Đại học Durham trên quần áo cho thấy cảm biến có thể phân biệt trang phục được mặc bởi người nhiễm bệnh và khỏe mạnh. Điều đó cho thấy cơ thể bệnh nhân nhiễm virus SARS-CoV-2 tạo ra mùi hương đặc trưng.

Sản phẩm của Robo Scientific được dự đoán có giá khoảng 5.000 USD. Trong ngày thử nghiệm đầu tiên, độ đặc hiệu trung bình của thiết bị là 98%. Đồng nghĩa tỷ lệ kết quả dương tính giả của cách xét nghiệm này thấp. Trong khi đó, độ nhạy trung bình là 99%, tương đương nguy cơ thiết bị cho kết quả âm tính giả thấp.

Vào ngày thử nghiệm thứ hai, các cảm biến đã đạt độ nhạy và độ đặc hiệu 100%. Điều này cho thấy thiết bị có thể phát hiện người nhiễm Covid-19 chính xác hơn các phương pháp xét nghiệm hiện nay.

Trong diễn biễn liên quan tới những nghiên cứu về các thiết bị trong việc phát hiện Covid-19, trước đó Singapore cũng đã nghiên cứu thành công máy xét nghiệm Covid-19 trong một phút.

Để xét nghiệm Covid-19 với thiết bị này, người dùng chỉ cần thở vào van một chiều ở phía ngoài. Hơi thở này sẽ đi vào một bộ phổ kế bên trong máy, để tìm kiếm những hạt hữu cơ dễ bay hơi (VOC).

Theo các nhà phát triển, máy xét nghiệm này sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), phát hiện những thay đổi sinh hóa trong hơi thở để phát hiện Covid-19, cho ra kết quả trong vòng chưa đầy một phút, với độ chính xác hơn 90%.

Tại Singapore, những người được phát hiện dương tính khi dùng máy hơi thở sẽ được xét nghiệm thêm một lần bằng phương pháp xét nghiệm kháng thể để khẳng định dương tính với Covid-19.

Phương pháp xét nghiệm COVID-19 qua hơi thở có ưu điểm đặc biệt nổi bật là nhanh chóng, độ chính xác cao và không cần phải lấy dịch tỵ hầu, họng. Xét nghiệm RT-PRC cho kết quả sau vài giờ, trong khi xét nghiệm kháng thể cũng mất khoảng 20-30 phút.

Ngoài ra, chi phí mỗi lần xét nghiệm bằng hơi thở tại Singapore vào khoảng 25 dollar (hơn 430.000 đồng), cao hơn xét nghiệm kháng thể nhưng thấp hơn nhiều so với hình thức RT-PCR.

An Dương (T/h)
http://vietq.vn/thiet-bi-ngui-duoc-mui-nguoi-mac-covid-19-chinh-xac-100-co-gi-dac-biet-d188088.html

Xử lý rác thải bằng công nghệ vi sinh không gây ô nhiễm môi trường

Hiện mô hình xử lý rác bằng công nghệ vi sinh có thể xử lý được rác ô nhiễm với quy mô 50-100 tấn/ngày, chi phí thực hiện thấp, tổng mức đầu tư một mô hình gồm bãi, dây truyền, men khoảng 3 tỷ đồng.

Trước thực trạng rác thải đang làm nguy hại đến môi trường, Công ty cổ phần môi trường Lam Sơn phối hợp với Ủy ban Nhân dân huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa thực hiện đề tài khoa học “Ứng dụng công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt bằng công nghệ sinh học (từ năm 2019 đến nay)” với tổng kinh phí là 2 tỷ.

Đến nay, các đơn vị đã nghiên cứu ra mô hình xử lý rác thải sinh hoạt bằng công nghệ vi sinh không gây ô nhiễm môi trường, đây là mô hình chế xuất rác thải sinh hoạt thành hạt nhựa làm nguyên liệu sản xuất đồ nhựa dân dụng và mùn hữu cơ để bón cho cây trồng nông nghiệp, giảm chi phí xử lý rác thải từ ngân sách địa phương.

Mô hình xử lý rác thải bằng công nghệ vi sinh không gây ô nhiễm môi trường. (Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN)

Thường Xuân là huyện miền núi khó khăn, mỗi ngày huyện có khoảng 50 tấn rác thải sinh hoạt được tập kết về bãi rác làm cho bãi rác trung tâm thị trấn ngày càng tăng về số lượng.

Do đó, việc thực hiện đề tài trên đã tìm ra mô hình xử lý rác thải sinh hoạt bằng công nghệ vi sinh để giảm thiểu khối lượng chôn lấp, cũng như chất đốt, tái tạo nguồn tài nguyên, góp phần giảm ô nhiễm môi trường, tăng thêm hiệu quả kinh tế cho địa phương.

Ông Nguyễn Duy Bình, Giám đốc Công ty cổ phần môi trường Lam Sơn cho biết: Đơn vị và Ủy ban Nhân dân huyện Thường Xuân đã phối hợp nghiên cứu ra chủng men mới, sau đó đầu tư dây truyền đưa tách lọc rác bằng công nghệ cơ khí kết hợp men vi sinh.

Qua đó, tách lọc được nylon túi bóng, từ đó chế xuất ra hạt nhựa làm nguyên liệu sản xuất ra đồ gia dụng; lọc ra mùn hữu cơ để dùng bón cho cây trồng, giảm thiểu được ô nhiễm môi trường.

Anh Phan Văn Dũng, thôn Xuân Quang, xã Xuân Cẩm, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa cho hay trước đây, bãi rác huyện Thường Xuân bị ô nhiễm nặng, sau khi có công nghệ xử lý rác thải mới, môi trường đã trong sạch hơn, vấn đề ruồi, muỗi ô nhiễm được khắc phục rõ rệt. Người dân quanh vùng đã không còn lo nguồn nước bị ô nhiễm.

Theo thông tin từ Ủy ban Nhân dân huyện Thường Xuân, huyện đã phối hợp với Công ty cổ phần môi trường Lam Sơn nghiên cứu ra chủng men mới, nguồn gốc của chủng men này là sự kết hợp của các chủng men được nhà nước công nhận sau thí nghiệm, sau đó pha trộn ra chủng men mới, chủng men này có tác dụng ủ và đưa rác lên 80 độ C, từ đó rác đã không còn ô nhiễm.

Hiện mô hình xử lý rác bằng công nghệ vi sinh có thể xử lý được rác ô nhiễm với quy mô 50-100 tấn/ngày, chi phí thực hiện thấp, tổng mức đầu tư một mô hình gồm bãi, dây truyền, men khoảng 3 tỷ đồng nên bất cứ địa phương nào cũng có thể áp dụng mô hình này.

Theo ông Nguyễn Ngọc Dũng, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thường Xuân cho biết: “Ưu điểm của công nghệ xử lý rác thải bằng chế phẩm sinh học men vi sinh này là không cần nhiều diện tích, đảm bảo môi trường cho công nhân sản xuất rác cũng như, vấn đề tập kết rác thành đống không còn. Sau khi rác từ các hộ gia đình, xã, thị trấn được đưa về bãi, chúng tôi đã phun men trong 1-2 tiếng và xử lý đến khi không còn ruồi, mùi hôi. Sau khi phun men 30 ngày, rác được đem vào tách lọc ra các sản phẩm hạt nhựa, mùn và các sản phẩm khác.”

Bên cạnh đó, mô hình này có kết hợp với việc nuôi giun quế sống trong rác làm mùn hữu cơ, hiện đã cung cấp ra thị trường 2 sản phẩm đó là mùn dùng bón cho các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, cây lâm nghiệp và giun quế chiết xuất ra tinh dịch giun để xuất khẩu ra Ấn Độ. Hiện nay, mô hình này đã được Sở Tài nguyên và Môi tường, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thanh Hóa đánh giá cao.

Thời gian tới, Ủy ban Nhân dân huyện Thường Xuân sẽ nhân rộng mô hình xử lý rác thải bằng công nghệ vi sinh, giải quyết triệt để vấn đề rác thải cho các huyện của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung./.

Nguyễn Nam (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/xu-ly-rac-thai-bang-cong-nghe-vi-sinh-khong-gay-o-nhiem-moi-truong/719742.vnp

Phát triển thành công vải làm từ tảo

Bằng cách sử dụng công nghệ in 3D, các nhà nghiên cứu tại Ðại học Delft (Hà Lan) vừa sáng chế thành công một loại vải “lai” từ tảo, có khả năng quang hợp như thực vật nhưng cũng rất bền chắc.

Loại vải in 3D thân thiện với môi trường này hứa hẹn giúp các ngành công nghiệp – đặc biệt là ngành dệt may – giảm sử dụng hóa chất độc hại và lượng khí thải carbon tạo ra trong quá trình sản xuất.

Ðầu tiên, các chuyên gia thu lấy cellulose – hợp chất hữu cơ được vi khuẩn sản xuất và bài tiết. Cellulose có nhiều đặc tính độc đáo như mềm dẻo, bền chắc và có khả năng giữ nguyên hình dạng ngay cả khi bị xoắn, vắt hoặc nhàu nát. Kế đến, họ dùng một máy in 3D để đặt tảo sống lên trên phần cellulose, giống như cách mà máy in thông thường phun ra mực lên trang giấy. Sự kết hợp giữa hai thành phần cuối cùng giúp tạo ra một loại vải độc đáo, sở hữu khả năng quang hợp của tảo và sự bền chắc của cellulose. Ðiều này đồng nghĩa vải mới có thể sử dụng ánh nắng để tự “nuôi lớn” sau nhiều tuần và có thể tái sinh bằng cách trồng lại một mẩu nhỏ khác.

Nhóm sáng chế nhận định vải mới có thể được ứng dụng để tạo ra nhiều vật dụng hữu ích, bao gồm lá nhân tạo có thể chuyển đổi nước và CO2 thành khí ôxy và năng lượng hoặc một loại da ghép quang hợp giúp vết thương mau lành.

HƯƠNG THẢO (Theo Study Finds)

https://baocantho.com.vn/phat-trien-thanh-cong-vai-lam-tu-tao-a134140.html

Lợi và hại của việc sử dụng AI trong tuyển dụng nhân sự

Nghiên cứu sinh chuyên ngành ứng dụng AI trong tuyển dụng nhân sự thuộc Viện Brookings, cho biết những chương trình và nền tảng này ngày càng phổ biến nhờ tốc độ xử lý hồ sơ nhanh và chi phí thấp.

Bốn năm sau khi tốt nghiệp đại học ở Mỹ, Kevin Carballo đã không ít lần thất bại khi gửi hồ sơ đi xin việc và lần nào cũng là những lá thư từ chối hồi đáp tự động, có khi chỉ vài giờ sau khi hồ sơ được gửi đi.

Không chỉ Carballo, hiện nay, rất nhiều người đi xin việc cũng rơi vào cảnh ngộ tương tự mà nguyên nhân chủ yếu là do nhà tuyển dụng dùng thuật toán, các hệ thống có công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để tự động sàng lọc những ứng viên phù hợp với yêu cầu.

Carballo, một sinh viên 27 tuổi gốc Latinh, cho biết hầu như tất cả các nhà tuyển dụng thời nay đều đã sử dụng các hệ thống tự động sàng lọc kiểu này. Anh gần như không có cơ hội để thể hiện trực tiếp với nhà tuyển dụng khi hồ sơ bị loại ngay từ khâu đánh giá tự động do một chiếc máy thực hiện.

Trên thực tế, ngành phát triển công cụ hỗ trợ tuyển dụng có yếu tố AI hiện có giá trị ước tính hơn 500 triệu USD, với nhiều sản phẩm đã đưa vào ứng dụng như các chương trình nhận diện khuôn mặt và đánh giá biểu cảm ứng viên trong phỏng vấn video hay các nền tảng sàng lọc hồ sơ để lựa chọn những ứng viên phù hợp với mô tả công việc.

Alex Enger, nghiên cứu sinh chuyên ngành ứng dụng AI trong tuyển dụng nhân sự thuộc Viện Brookings, cho biết những chương trình và nền tảng này ngày càng phổ biến nhờ tốc độ xử lý hồ sơ nhanh và chi phí thấp.

Chuyên gia khoa học máy tính Manish Raghavan, Đại học Cornell, cho rằng việc sử dụng các hệ thống AI sẽ giúp tránh được những tình huống thiên vị xuất phát từ cảm tính của người tuyển dụng với ứng viên, các thuật toán sẽ chấm điểm mà không bị chi phối bởi giới tính hay màu da của các ứng viên.

Theo hãng khảo sát Mercer, hơn 55% các nhà quản trị nhân sự (HR) tại Mỹ dựa vào các thuật toán để đưa ra quyết định tuyển dụng. AI được sử dụng ngay từ những khâu đầu tiên trong quy trình tuyển dụng, từ khâu quảng cáo tuyển dụng.

Đại dịch COVID-19 cũng góp phần đẩy nhanh tốc độ đưa những công cụ này vào ứng dụng. HireVue, một công ty chuyên phát triển các công cụ AI trong tuyển dụng để phân tích và chấm điểm các câu trả lời của ứng viên trong những lần tham gia phỏng vấn video, cho biết tỷ lệ sử dụng các công cụ do công ty phát triển đã tăng 46% so với năm ngoái.

Tuy nhiên, hiện chưa có nhiều đơn vị phát triển chú trọng đảm bảo các chương trình này hoạt động một cách hoàn toàn khách quan. Theo chuyên gia Raghavan, vấn đề nằm ở chỗ rất khó phát hiện khi nào thì yếu tố thiên vị vô tình xuất hiện trong khi phát triển một thuật toán dựa theo cơ chế học máy.

Ví dụ, các hệ thống xử lý ngôn ngữ tự động thường được làm quen nhiều hơn với những tên gọi của nhóm người chiếm đa số trong một xã hội, dẫn tới nguy cơ thiệt thòi cho những người đến từ nhóm thiểu số, với những tên gọi hiếm. Hay trường hợp của Carbello, một cái tên Latinh hiếm gặp, có nguy cơ bị loại cao khi các hệ thống máy học chưa được cung cấp dữ liệu đầu vào với những tên gọi như vậy.

Ngoài ra, một trong những điều mà những ứng viên Carballo lo ngại nhất là quy trình nhận diện khuôn mặt không khách quan, khiến các hệ thống đều tự động loại bỏ tất cả những người có nhận diện khuôn mặt như anh, những người thuộc nhóm thiểu số.

Trên thực tế, năm 2017, tập đoàn thương mại điện tử hàng đầu thế giới Amazon đã phải dỡ bỏ hệ thống sàng lọc hồ sơ tuyển dụng có sự hỗ trợ của công nghệ AI sau một thời gian đưa vào sử dụng vì phát hiện lỗi phân biệt đối xử với nữ giới.

Một điều đáng lo ngại khác nữa là việc nhận được những lá thư từ chối tự động khiến các ứng viên không thể hiểu rõ hồ sơ của họ có gì không đáp ứng và luôn thắc mắc rằng liệu họ có bị phân biệt đối xử.

Cũng theo giới chuyên gia, dù nhiều công ty lớn đã thể hiện quyết tâm loại bỏ những yếu tố thiên vị, nhưng khi các nhà chức trách chưa thực sự đưa ra những quy định cụ thể thì những quyết tâm trên cũng mới chỉ dừng lại ở cam kết bằng lời nói.

Theo chuyên gia Enger, một trong những nguyên nhân khiến các đơn vị phát triển hầu như đều bỏ qua khâu thử nghiệm tính khách quan của các hệ thống là chi phí cao và thời gian kéo dài. Họ sẽ chỉ thực hiện những quy trình này nếu như có yêu cầu từ giới chức quản lý.

Nguy cơ phân biệt đối xử cũng là điều gây nhiều tranh cãi nhất khi các nghị sĩ thảo luận về các điều luật để quản lý việc sử dụng công nghệ AI trong các lĩnh vực, đặc biệt là trong quản trị nhân lực. Trên thực tế, các nhà quản lý của Liên minh châu Âu (EU) đã nhiều lần thảo luận về vấn đề này và chuẩn bị đưa ra các quy định về sử dụng AI trong tuyển dụng.

Giới chức quản lý đã đề xuất nghị viện châu Âu đưa các công ty bán các hệ thống hỗ trợ tuyển dụng bằng công nghệ AI vào nhóm “nguy cơ cao”, đồng nghĩa mọi công ty trong lĩnh vực này phải tham gia một cơ sở dữ liệu công khai, đảm bảo các dữ liệu khách quan, có tính đại diện cao, hoàn chỉnh và không có lỗi.

Trong khi đó, các nghị sĩ Mỹ đã cân nhắc các điều luật liên bang để loại bỏ nguy cơ thiên vị khi dùng các thuật toán trong lĩnh vực này./.

Lê Ánh (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/loi-va-hai-cua-viec-su-dung-ai-trong-tuyen-dung-nhan-su/718327.vnp

Cuộc cách mạng hydro: Những trở ngại lớn

Hydro đóng một vai trò không thể thiếu trong một hệ thống năng lượng tương lai không có carbon. Nhưng các kịch bản cho thấy tỷ trọng của nó trong năng lượng vào năm 2050 khác nhau đáng kể.

Cho dù kết quả cuối cùng có thể là gì, những người theo dõi ngành công nghiệp hiện nay phần lớn đồng ý rằng có 2 lĩnh vực mà chi phí phải giảm xuống để tăng trưởng hydro không có carbon.

Hai lĩnh vực đó là: Chi phí năng lượng tái tạo, vốn là đối tượng giảm đáng kể trong thập kỷ qua, phải tiếp tục giảm. Và chi phí điện phân nước để sản xuất hydro, bao gồm phần cứng cơ bản của hydro xanh, máy điện phân phải đi theo một con đường tương tự cho phí thấp xuống.

Nhiều người thấy cả hai đã sẵn sàng xảy ra. Nhưng trên thực tế, đó là hai mảng có liên quan không thể tách rời, với chi phí vận hành và chi phí vốn được tính vào tổng chi phí vận hành máy điện phân.

Sự sụt giảm của giá điện tái tạo dự kiến ​​sẽ tiếp tục, với việc tăng tốc triển khai năng lượng tái tạo vào lưới điện. Nhưng chi phí vốn cũng phải giảm, với thiết bị điện phân được sản xuất nhanh hơn và ít tốn kém hơn.

Trong khi giá điện mặt trời đã giảm khoảng 90% trong 10 năm qua, nó cần phải giảm thêm nữa và các chính phủ tỏ ra quyết tâm giúp đỡ. Ví dụ, vào tháng 3, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE) đã công bố mục tiêu của mình rằng chi phí năng lượng mặt trời quy mô tiện ích giảm hơn một nửa trong 10 năm, từ mức giá hiện tại là 4,6 cent cho mỗi kilowatt-giờ (kWh) xuống còn 3 cent/kWh vào năm 2025 và 2 cent/kWh vào năm 2030.

DOE đã công bố một loạt các dự án R&D và vốn hạt giống cho quang điện cải tiến (perovskites, màng mỏng) và điện mặt trời tập trung (CSP) để đạt được hiệu suất cao hơn và chi phí thấp hơn.

Chi phí của công nghệ điện phân cũng đang giảm, với những cải tiến về thiết kế để đạt hiệu quả cao hơn. Các đơn vị kiềm cải tiến đang được triển khai ngay cả khi người mua đang ngày càng chuyển sang sử dụng các máy điện phân màng trao đổi proton (PEM) hiệu quả cao hơn. Trong khi đó, công nghệ đang tiến bộ cho các tế bào điện phân oxit rắn (SOEC), hứa hẹn sẽ đạt được hiệu suất rất cao từ nhiệt đầu vào cao, từ các nguồn nhiệt công nghiệp và có khả năng từ các lò phản ứng hạt nhân.

Câu hỏi đặt ra bây giờ là liệu điện phân nước để sản xuất hydro có thể tuân theo đường cong chi phí giảm ngẫu nhiên mà điện mặt trời đã tuân theo trong 10 năm qua hay không?

Điều quan trọng là phải tiếp tục giảm chi phí, vì hydro điện phân sẽ phải cạnh tranh với “hydro xanh” được sản xuất bằng khí tự nhiên và thu giữ carbon, hiện đã ít tốn kém hơn. Thành công sẽ dẫn đến việc người ta hy vọng sẽ áp dụng rộng rãi thứ mà những người ủng hộ gọi là “Chén thánh” của hydro, là hydro điện phân được sản xuất bằng điện tái tạo (tức là hydro “xanh”).

Bảo Vy
https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/cuoc-cach-mang-hydro-nhung-tro-ngai-lon-612770.html

Nhiều nghiên cứu cảnh báo hiểm họa nghiêm trọng từ nhựa

Theo các chuyên gia y tế cảnh báo, hầu hết mọi người không hiểu rằng các sản phẩm bằng nhựa đều không an toàn vì tiềm ẩn nhiều hóa chất độc hại.

Hầu hết các sản phẩm nhựa chứa hóa chất độc hại

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Environmental Science and Technology, hầu hết các loại nhựa mà người tiêu dùng gặp phải trong cuộc sống hàng ngày – bao gồm màng bọc nhựa, thảm tắm, hộp đựng sữa chua và nắp cốc cà phê – chứa những hóa chất có khả năng gây độc.​

Các nhà nghiên cứu đã phân tích 34 sản phẩm nhựa hàng ngày được làm từ 8 loại nhựa để xem mức độ độc phổ biến. 74% sản phẩm được thử nghiệm là độc theo một cách nào đó.

Nhóm nghiên cứu hy vọng có thể nói cho mọi người biết loại nhựa nào có thể sử dụng và loại nào không. Tuy nhiên, mọi chuyện phức tạp hơn thế. Thay vì chỉ ra một vài loại nhựa có vấn đề cần tránh, thử nghiệm lại cho thấy các vấn đề về độc tính là rất rộng và có thể tìm thấy ở gần như tất cả mọi loại nhựa. Kết quả giúp chỉ rõ việc chúng ta đang biết rất ít về nhiều loại hóa chất trong nhựa thường được sử dụng.

Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm các hóa chất theo những cách rất khác so với cách mà hầu hết chúng ta tiếp xúc với chúng. Chiết xuất các hợp chất từ nhựa và cho chúng tiếp xúc trực tiếp với các tế bào khác nhau không giống với tiếp xúc mà bạn nhận được khi uống nước, ví dụ, từ chai nước bằng nhựa dùng lại. Nhưng kết quả đặt ra nghi ngờ về giả định rằng các sản phẩm nhựa là an toàn, cho đến khi được chứng minh khác.


Tất cả các sản phẩm bằng nhựa đều tiềm ẩn nguy cơ gây hại sức khỏe. Ảnh minh họa

Hóa chất nhựa thông thường tăng nguy cơ ung thư vú

Nghiên cứu mới cho thấy một chất hóa học gây rối loạn nội tiết thường có trong nhựa cứng polycarbonate, hóa đơn có thể ảnh hưởng đến nội tiết tố của cơ thể, tăng nguy cơ ung thư vú.

Bisphenol S (BPS), một chất thay thế cho hóa chất bisphenol A (BPA) trong ngành công nghiệp nhựa, hoạt động như estrogen trong việc nhân tế bào ung thư vú.

Phần lớn ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen và theo Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, 55-65% phụ nữ được thừa kế một loại đột biến gây hại trong gien BRCA1 sẽ gây ung thư vú. Trợ lý giáo sư Sumi Dinda, ĐH Oakland, Michigan cho biết: “Nếu một phụ nữ bị đột biến gien BRAC1 và sử dụng các sản phẩm chứa BPS sẽ bị tăng nguy cơ ung thư vú”. “Mặc dù có hi vọng về những lựa chọn thay thế BPA, các nghiên cứu chỉ ra rằng BPS cho thấy hành vi bắt chước tương tự estrogen với BPA”.

Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng hai dòng tế bào ung thư vú thu thập được từ những phụ nữ bị ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen để cho các tế bào ung thư tiếp xúc với BPS các mức độ khác nhau hoặc với những chất bất hoạt để đối chứng. So với nhóm chứng, BPS tăng cường biểu hiện protein ở thụ thể estrogen và BRCA1 sau 24 giờ như estrogen. Sau 6 ngày tiếp xúc với BPS, các tế bào ung thư vú ở cả hai dòng tế bào được báo cáo tăng 12% số lượng ở liều thấp nhất (4 micromolars) và 60% ở liều 8 micromolars.

Hóa chất nhựa có thể gây ảnh hưởng đến sự phát triển thần kinh ở trẻ

Các nhà nghiên cứu tại các trường đại học Uppsala và Karlstad, Thụy Điển khám phá ra hóa chất bisphenol F (BPF) được tìm thấy trong nhựa có thể gây ra những thay đổi trong một gen có vai trò quan trọng đối với sự phát triển thần kinh.

Theo các nhà khoa học, các yếu tố bên ngoài có thể gây ra những thay đổi trong hoạt động của gen thông qua cơ chế “biểu sinh”. Điều này có nghĩa là các gen riêng lẻ được sửa đổi bằng phương pháp “methyl hóa”. Sự methyl hóa gia tăng trong một đoạn DNA khiến bộ máy tế bào khó đọc phần cụ thể đó hơn. Kết quả là, sự biểu hiện của các gen bị methyl hóa thường bị suy giảm.

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã đo nồng độ BPF trong nước tiểu của phụ nữ mang thai trong ba tháng đầu, sau đó theo dõi con của họ sau khi sinh. Quá trình methyl hóa DNA được đo ở trẻ em lúc 7 tuổi, và khảo sát khả năng nhận thức của chúng. Do thai nhi tiếp xúc với máu của mẹ qua nhau thai nên cũng tiếp xúc với các chất trong cơ thể mẹ.

Các phân tích đã chứng minh rằng ở những bào thai tiếp xúc với mức BPF cao hơn, quá trình methyl hóa tăng lên ở một phần cụ thể của gen GRIN2B, gen này có vai trò quan trọng đối với thần kinh. Hơn nữa, sự methyl hóa cao hơn có liên quan đến chỉ số IQ thấp hơn ở trẻ em.

Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy tính nhạy cảm của những đứa trẻ này với BPF có sự khác biệt về giới tính. Cụ thể, mối liên hệ biểu sinh giữa BPF và nhận thức chỉ được quan sát thấy ở các bé trai.

Trong nghiên cứu trước đây của nhóm, họ đã thấy rằng 25% trẻ 7 tuổi, trong tuần thứ 10 của thai kỳ, tiếp xúc với mức bisphenol F cao nhất của mẹ, đã giảm 2 điểm về chỉ số thông minh toàn diện so với 25% trẻ em tiếp xúc với mức độ thấp nhất. Đây là một sự khác biệt nhỏ không dễ thấy ở một đứa trẻ nhưng mặt khác, lại trở nên rõ ràng trên bình diện dân số.

Phát hiện này của các nhà nghiên cứu là cơ sở để giải thích tại sao việc tiếp xúc với hóa chất này trong giai đoạn bào thai có thể liên quan đến chỉ số IQ thấp hơn khi trẻ 7 tuổi.

An Dương (T/h)
http://vietq.vn/nhieu-nghien-cuu-canh-bao-hiem-hoa-nghiem-trong-tu-nhua-d187533.html