Hai nữ sinh viên chuyển hóa nhựa thành hợp chất có ích

Hai nữ sinh viên đến từ Mỹ đã tìm ra phương pháp để chuyển hóa nhựa thành các hóa chất, hợp chất hữu ích, bằng cách sử dụng “vi khuẩn biến đổi gen”.

Sau nhiều năm phát triển dự án, hai nữ sinh viên Jeanny Yao (21 tuổi) và Miranda Wang (22 tuổi), cho biết đã tìm ra cách xử lý ô nhiễm nhựa thành “các hợp chất có giá trị cho hàng dệt may”.

Để thực hiện được điều này, Yao và Wang đã sử dụng “vi khuẩn biến đổi gen” để phân hủy các polyme nhựa hóa học và biến chúng thành hợp chất hữu cơ, sau đó trải qua quá trình chuyển đổi sinh học thành các sản phẩm có giá trị.


Hai nhà khoa học trẻ Wang và Yao

Hai nhà khoa học trẻ đã trình bày nghiên cứu mới thông qua tổ chức truyền thông “TED talk” và nhận được 5 giải thưởng danh giá từ Trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania.

Ngoài ra, phát minh này còn giúp Jeanny Yao và Miranda Wang giành chiến thắng trong một số cuộc thi khởi sự doanh nghiệp và nhận được hơn 300.000 USD tài trợ.

Hiện tại, hai cô gái đang lên kế hoạch chuyển đến Thung lũng Silicon để tiếp tục phát triển công nghệ tiên tiến của họ. Chia sẻ với truyền thông, Wang khẳng định: “Phát minh của chúng tôi là công nghệ đầu tiên trên thế giới có thể phá vỡ nhựa ở cấp độ công nghiệp có thể mở rộng”.


Vi khuẩn biến đổi gen có thể chuyển hóa nhựa thành hợp chất hữu ích.

Dự án của Jeanny và Miranda mang tên BioCellection, với mục đích tái sử dụng chất thải nhựa, phục vụ cho các mặt hàng dệt cũng như các hợp chất khác mà sau đó có thể được tái sử dụng, bằng cách sử dụng các vi khuẩn biến đổi gen để phân hủy nhựa thành dạng hóa học cơ bản nhất.

Các vi khuẩn biến đổi gen có thể chuyển hóa nhựa thành CO2 và nước một cách hiệu quả. Đặc biệt, Yao và Wang cho biết còn muốn phát triển phương pháp phân hủy các loại nhựa khó tái chế hơn, chẳng hạn như polystyrene. Hai nhà khoa học trẻ tiết lộ, phát minh mới của họ sẽ được đưa vào thị trường trong vòng 2 năm nữa.

Theo Giaoducthoidai.vn (28/6/2019)

Phương pháp mới giúp giảm chi phí khử mặn nước biển

Theo thông tin từ Trường Cao đẳng học thuật Kinneret tại Israel, các nhà nghiên cứu nước này đã nghiên cứu thành công phương pháp xử lý hiện tượng bốc mùi sinh học gây tổn hại đến quá trình khử mặn nước biển.

Tiến triển này sẽ giúp giảm chi phí của quá trình khử mặn, qua đó giúp hạ giá thành nước ngọt thông qua khử mặn nước biển với con số tiết kiệm được lên đến hàng triệu USD.

Công nghệ khử mặn đóng vai trò quan trọng đối với Israel, giúp giải quyết vấn đề hạn hán và gia tăng nguồn cung nước ngọt cho lĩnh vực nông nghiệp, cũng như sinh hoạt gia đình. Cho đến nay, quá trình khử mặn nước biển có chi phí rất đắt và đòi hỏi sử dụng năng lượng ở mức cao, các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là trong công nghệ tạo màng nhầy để lọc muối.

Một trong các vấn đề khó khăn nhất của quá trình khử mặn là hiện tượng bốc mùi sinh học, trong đó các vi khuẩn xâm nhập vào màng nhầy lọc mặn, phát triển và phá hỏng các màng nhầy.

Một trong các vấn đề khó khăn nhất của quá trình khử mặn là hiện tượng bốc mùi sinh học.

Các phương pháp xử lý gần đây bao gồm sử dụng hóa chất, đặc biệt là các axit để tiêu diệt vi khuẩn, nhưng cũng tác động đến màng nhầy. Tuy nhiên, phương pháp mới của Israel dựa trên các phân tử hữu cơ có khả năng bám trên bề mặt màng nhầy, cho phép các màng lọc ngăn chặn được sự tấn công của vi khuẩn gây hại.

Sự kết hợp của màng polyaniline đã giúp giảm đáng kể sự phát triển của mùi hôi sinh học mà không gây phá hủy tới các thiết bị lọc có chưa màng nhầy. Ran Suckeveriene – Trưởng nhóm nghiên cứu cho biết, phát triển mới thậm chí có thể gia tăng gấp đôi tuổi thọ của các màng nhầy trong các nhà máy khử mặn và vì vậy tiết kiệm hàng triệu USD.

Theo Hồng Nhự/tapchimoitruong.vn

Sóng 5G có gây hại sức khỏe cho con người?

Công nghệ 5G sử dụng tần số cao hơn để tạo khác biệt về khả năng truyền dữ liệu, nhưng nhiều người lo ngại nó có thể ảnh hưởng tới sức khỏe.

Từ trước tới nay, thế giới vẫn tin rằng công nghệ 5G không gây hại cho sức khỏe. Tuy nhiên, điều đó chưa thuyết phục được tất cả mọi người. Một đơn kiến nghị với 29.000 chữ ký đã được gửi tới nghị viện Anh kêu gọi thực hiện cuộc điều tra độc lập về rủi ro sức khỏe và an toàn của thế hệ di động tiếp theo.


Công nghệ 5G vẫn khiến một số người lo ngại.

Chính phủ nước này đã từ chối yêu cầu, nhưng người dân nước Anh và toàn thế giới đều muốn biết xem liệu bức xạ điện từ có gây hại cho cơ thể hay không.

Tại sao 5G gây ra nỗi sợ hãi?

Để hiểu 5G có nguy hiểm hay không, chúng ta cần hiểu bản chất của nó là gì. Trước tiên, hãy nhìn vào biểu đồ phổ điện từ, gồm tất cả dải tần số có thể của bức xạ điện từ (hay sóng điện từ).

Bức xạ điện từ được phân loại gồm sóng radio (radio waves), vi sóng (microwaves), bức xạ terahertz (hay dưới mm), tia hồng ngoại (infrared), ánh sáng nhìn thấy được (visible light), tia tử ngoại (ultraviolet), tia X (X-rays) và tia gamma (gamma waves).


Phổ điện từ theo mô tả của NASA. Ảnh: NASA.

Trong số này, người ta lại phân ra làm 2 loại chính:

– Bức xạ ion hóa (Ionizing), như X-quang hoặc tia gamma, với tần số cao có thể lọt vào cơ thể gây hại cho tế bào. Chúng có năng lượng đủ lớn để gây ra ion hóa các nguyên tử.

– Bức xạ không ion hóa (Non-ionizing), như sóng radio, ánh sáng nhìn thấy được hay bức xạ tia hồng ngoại, không có khả năng phá hủy nguyên tử. Bức xạ không ion hóa không thể lọt vào cơ thể con người, chỉ làm phân tử bề mặt rung động nhanh hơn.

Bức xạ điện từ (hay sóng điện từ) được đo bằng tần số và bước sóng. Bức xạ ở tần số thấp hơn và bước sóng dài hơn so với ánh sáng nhìn thấy gồm sóng radio (Radio waves) và vi sóng (Microwaves). Sóng điện thoại di động nằm trong phổ này, bao gồm cả 5G. Chúng thuộc nhóm bức xạ không ion hóa, vì không đủ năng lượng để phá vỡ liên kết phân tử.

Bức xạ không ion hóa an toàn tuyệt đối?

Trong khi bức xạ không ion hóa yếu hơn loại ion hóa, có ý kiến cho rằng nó vẫn có khả năng làm biến đổi cơ thể. Nhiều người hiểu nhầm loại bức xạ này có thể gây ung thư giống như bức xạ ion hóa.

Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) của Anh cho biết đã có lượng lớn nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng sức khỏe của việc sử dụng điện thoại di động kể từ những năm 1990. Nhưng không có nghiên cứu nào chứng minh bức xạ điện thoại di động gây hại như các dạng của bức xạ ion.

Một số người nghĩ tần số cao của 5G sẽ tác động xấu tới não bộ, nhưng điều này không đúng vì chúng nằm trong ngưỡng cho phép. Chỉ khi tần số vượt mức ánh sáng nhìn thấy thì mới gây hại, như tia cực tím, tia X hay tia gamma.

Điều gì xảy ra khi sóng vô tuyến đập vào cơ thể?

Khi sóng vô tuyến đập vào cơ thể con người, chúng bị các mô hấp thụ và đơn giản biến thành năng lượng. Nghiên cứu khoa học chưa cho thấy sóng vô tuyến làm thay đổi cấu trúc phân tử của bất kỳ loại mô nào.


Sóng vô tuyến nằm bên trái phổ điện từ không có khả năng ion hóa phân tử. Ảnh: NASA.

Chúng có khả năng làm tăng nhiệt độ các tế bào thêm 0,2 độ C, tương đương với sự gia tăng tự nhiên trong khi tập thể dục, không được coi là nguy cơ sức khỏe.

“Các nghiên cứu lớn đều chưa có bằng chứng cho thấy sóng vô tuyến điện thoại di động gây ra các vấn đề sức khỏe”, NHS lên tiếng trấn an dư luận.

Vậy sóng vô tuyến có thực sự gây hại không?

Cho đến nay, các nghiên cứu chưa đưa ra kết luận khẳng định sóng vô tuyến gây hại cho sức khỏe con người. Tổ chức Nghiên cứu Ung thư của Vương Quốc Anh lưu ý rằng, mặc dù tỷ lệ sở hữu điện thoại di động tăng khoảng 500% giai đoạn 1990 đến 2016, thì tỷ lệ mắc ung thư não chỉ tăng 34%.

Năm 2011, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế đã xếp điện thoại di động vào nhóm “nguyên nhân có thể gây ung thư”. Nhưng đó chỉ là dựa trên các báo cáo khoa học, chứ không được coi là kết luận cuối cùng. Chắc chắn một điều, bức xạ không ion hóa, bao gồm sóng 5G không có khả năng gây ung thư trực tiếp.

Theo Sky/News.zing (21/06/2019)

Mạng 5G ảnh hưởng đến dự báo thời tiết

Mạng 5G không có ảnh hưởng rõ rệt đối với độ ẩm, nhiệt độ không khí hay gió. Mặc dù vậy, nó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc dự báo thời tiết.

Điều gì quan trọng hơn: Có thể nhanh chóng cảnh báo lũ lụt hay dự đoán chính xác thời điểm xảy ra? Một số ý kiến cho rằng, cả hai việc đó quan trọng như nhau. Tuy nhiên, góp phần làm cho dự đoán kém chính xác có thể là mạng 5G, cụ thể hơn là tần số của mạng này.

Mạng 5G hoạt động trên một số tần số và có thể làm giảm tính chính xác của công việc dự báo thời tiết hiện đại, thậm chí tới 30%. Nếu đạt tới mức đó, chúng ta sẽ lùi đến những năm 80 thế kỷ trước với những dự báo thời tiết không chính xác. Sự cố như vậy dường như đã xảy ra tại Mỹ. Chỉ cần một vài quốc gia gặp sự cố là các mô hình khí hậu toàn cầu sẽ bị nhiễu loạn.

Mạng 5G và thời tiết có gì liên quan? Mạng 5G không có ảnh hưởng rõ rệt đối với độ ẩm, nhiệt độ không khí hay gió. Mặc dù vậy, nó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc dự báo thời tiết.

Ảnh minh họa

Vấn đề chủ yếu ở đây là cách thu thập dữ liệu cần thiết để lập mô hình khí hậu. Các nhà khí tượng học sử dụng radar vi ba, dựa trên đặc điểm của khí quyển.

Chẳng hạn, chúng ta hãy xét hơi nước. Các phân tử nước trong không khí không đứng yên một chỗ. Chúng dao động, phát ra tín hiệu yếu ớt trong tần số cao – cụ thể là 23,8 GHz.

Hoạt động trên tần số này là các radar thời tiết, đo chính xác độ ẩm không khí. Dải tần này cũng được các hệ thống khác theo dõi, trong đó có hệ thống MetOp của Cơ quan Vũ trụ châu Âu ESA, bao gồm 3 radar trên quỹ đạo quanh Trái đất.

Tần số trên rất gần với dải tần mà trên đó mạng 5G có thể hoạt động. Trong kế hoạch có cả việc khởi động mạng ở dải tần 24 GHz. Sự rối nhiễu và làm hư hỏng dữ liệu về độ ẩm không khí, do vậy, là gần như chắc chắn xảy ra.

“Chúng tôi muốn chuyển sang tần số 23,8 GHz, nhưng không thể được – ông Jordan Gerth, nhà khí tượng học ở ĐH Winsconsin (Mỹ) cho biết – Đối với chính phủ Mỹ, điều quan trọng là khởi động mạng 5G trong dải tần mà họ cho là ổn định”.

Các nhà khí tượng học có suy nghĩ khác. Đề xuất hiện nay về phân chia tần số ở Mỹ có thể dẫn tới sự mất mát dữ liệu rất lớn. Các dự đoán sẽ không sử dụng 77% dữ liệu từ các vệ tinh dự báo thời tiết bị động, theo dõi toàn nước Mỹ.

Mô hình khí hậu, tương tự như các dự đoán khác, hiệu quả hay không là phụ thuộc vào dữ liệu thu thập. Việc mất một phần thông tin làm giảm hiệu quả dự báo thời tiết thậm chí đến 30%. Sự thay đổi thời tiết là hiện tượng phức tạp và rối loạn, đến mức nếu có trong tay siêu máy tính hiện đại và các thiết bị nhạy bén trên quỹ đạo, thì chúng ta cũng không biết dự đoán sự thay đổi thời tiết trong vài ba ngày gần nhất.

Tuy nhiên, sự việc không đến mức mất hết hi vọng. Ông Gerth nhấn mạnh rằng những người điều hành mạng 5G có thể giảm cường độ các máy phát 5G. Khi đó các sóng sẽ không gây nhiễu đối với các thiết bị khí tượng nhạy bén. NASA và NOAA (Cục Quản lý đại dương và khí quyển Mỹ) cam kết hạn chế rối nhiễu đến mức mà Ủy ban châu Âu và các nhà khí tượng học trên thế giới chấp nhận được.

Nếu tìm ra giải pháp làm hài lòng tất cả mọi người thì chúng ta sẽ có công thức cho các vấn đề phát sinh tiếp theo. Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ có kế hoạch chia mạng 5G theo các tần số cao tiếp theo. Hiện, các dải tần 36 – 37 GHz (sử dụng để phát hiện mưa và tuyết) đang được rao bán đấu giá. Để theo dõi nhiệt độ, người ta sử dụng các tần số trong khoảng 50,2 – 50,4 GHz, nghiên cứu mây và mưa đá trong khoảng 80 – 90 GHz.

Theo Giaoducthoidai.vn (20/6/2019)

Biến ánh nắng và không khí thành nhiên liệu lỏng

CO2 và nước chiết xuất từ không khí xung quanh sẽ được bơm vào lò phản ứng Mặt trời, đồng thời sử dụng nhiệt từ Mặt trời để tách phân tử thành hydro và carbon monoxide.

Nhiên liệu lỏng được sử dụng cho máy bay, tàu biển, ôtô được sản xuất từ ánh nắng và không khí. Công trình này đang được các nhà khoa học tại Thụy Sĩ nghiên cứu.

Đây là hệ thống lọc ánh nắng Mặt Trời mini được nhóm nghiên cứu tại Đại học Zurich, Thụy Sĩ, xây dựng. CO2 và nước chiết xuất từ không khí xung quanh sẽ được bơm vào lò phản ứng Mặt trời và sử dụng nhiệt Mặt trời để tách phân tử thành hydro và carbon monoxide, còn gọi là khí tổng hợp.

Theo nhóm nghiên cứu, việc hội tụ nắng Mặt trời sẽ tạo ra nhiệt độ đủ cao cho các phản ứng nhiệt hóa nhanh, giúp tăng tốc quá trình sản xuất khí tổng hợp. Khí tổng hợp này có thể dễ dàng xử lý thành dầu hỏa, nhiên liệu lỏng, methanol và các loại nhiên liệu khác phổ biến hiện nay.

Hiện hệ thống lọc mini này có thể tạo ra 100 mililit nhiên liệu mỗi ngày, và nhóm nghiên cứu đang đặt mục tiêu đến năm 2025 sẽ có nhà máy sản xuất năng lượng Mặt Trời đầu tiên với công suất sản xuất khoảng 10 triệu lít methanol mỗi năm.

Theo VietnamPlus.vn (17/6/2019)

Tiết kiệm 6,5 triệu USD/năm nhờ dự án triển khai KCN sinh thái

72 doanh nghiệp thuộc 4 khu công nghiệp ở Ninh Bình, Cần Thơ và Đà Nẵng đã áp dụng các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn, nhờ đó giúp tiết kiệm được hơn 6,5 triệu USD/năm.

Những con số “biết nói”

Đó là kết quả dự án “Triển khai sáng kiến khu công nghiệp sinh thái hướng tới mô hình khu công nghiệp bền vững tại Việt Nam” đã đạt được sau 5 năm triển khai.

Với sự tài trợ của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF), Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO), dự án đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) thực hiện thí điểm tại các khu công nghiệp Khánh Phú và Gián Khẩu (Ninh Bình); khu công nghiệp Hòa Khánh (thành phố Đà Nẵng) và khu công nghiệp Trà Nóc 1 & 2 (Cần Thơ).

Thông qua sự hỗ trợ kỹ thuật từ Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC), các doanh nghiệp trong các KCN đã được tư vấn các giải pháp sản xuất sạch hơn nhằm tận dụng tối đa nguyên liệu đầu vào, sử dụng hiệu quả năng lượng, tiết kiệm nước cũng như sử dụng an toàn hóa chất và quản lý nước thải, chất thải…

Chuyển đổi mô hình KCN sinh thái – Xu hướng tất yếu

Kết thúc giai đoạn 1 của dự án, các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch do VNCPC tư vấn cho các doanh nghiệp đã giúp tiết kiệm được hơn 22.000 Mwh điện; trên 600.000 m3 nước sạch; hơn 140 TJ (Têrajun) nhiên liệu hóa thạch và gần 3.600 tấn hóa chất và chất thải. Các giải pháp này cũng đã giúp cắt giảm được 32 Kt khí CO2 hằng năm.

Dự án cũng đã tiến hành đào tạo cho hơn 3.100 nhà quản lý và các cán bộ kỹ thuật. Các chương trình tập huấn nhằm cung cấp thông tin về khu công nghiệp sinh thái; chia sẻ các kinh nghiệm quốc tế và phương thức áp dụng phù hợp với bối cảnh của Việt Nam; các công cụ và nguồn lực để phát triển khu công nghiệp sinh thái; cơ hội và những thách thức khi áp dụng khái niệm KCN sinh thái tại Việt Nam.

Tại hội thảo tổng kết dự án tổ chức ở Hà Nội, ngày 12/6/2019, ông Trần Duy Đông, Vụ trưởng Vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết: “Dự án triển khai sáng kiến khu công nghiệp sinh thái đã góp phần quan trọng vào việc ban hành các quy định liên quan về khu công nghiệp sinh thái tại Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 (Nghị định 82) của Chính phủ về quản lý các khu công nghiệp và khu kinh tế, có hiệu lực từ tháng 7/2018. Nghị định 82 là văn bản pháp lý đầu tiên tại Việt Nam đặt nền móng cho việc thực hiện chuyển đối từ KCN thông thường sang KCN sinh thái”.

Điều phối viên thường trú Liên hợp quốc (LHQ) ông Kamal Malhotra cũng nhấn mạnh: dự án này là một minh họa cụ thể về những yêu cầu một nền kinh tế tuần hoàn cần phải có. Đó cũng chính là điều mà chính phủ Việt Nam đang quan tâm và mong muốn được học hỏi kinh nghiệm từ LHQ và các đối tác phát triển khác nhằm xác định các ưu tiên chiến lược cho phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030. Với tầm nhìn chiến lược trung hạn này, Chính phủ đang đặt nhiều hy vọng vào việc đạt được “mục tiêu kép”: tốc độ tăng trưởng cao và bền vững song song với bảo vệ môi trường”.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Trung, Đại sứ Thụy Sỹ tại Việt Nam – Beatrice Maser Mallor và Trưởng đại diện UNIDO tại Việt Nam – Bà Lê Thị Thanh Thảo trao tặng kỷ niệm chương cho các đơn vị tham gia dự án. Ảnh: MPI

Đại diện quốc gia của văn phòng UNIDO tại Việt Nam, bà Lê Thị Thanh Thảo cho rằng: chuyển đổi các khu công nghiệp hiện tại sang mô hình KCN sinh thái sẽ là cơ hội để đạt được phát triển công nghiệp bền vững và rộng khắp tại Việt Nam. Theo đó, UNIDO sẽ tiếp tục cùng đồng hành với Chính phủ Việt Nam thực hiện Chương trình Toàn cầu về Hiệu quả Tài nguyên và Sản xuất Sạch hơn (RECP) do Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ.

“Dự án KCN sinh thái là bước tiếp nối của chặng đường dài UNIDO hỗ trợ Việt Nam về sản xuất sạch hơn và sử dụng năng lượng hiệu quả trong công nghiệp từ hơn 20  năm qua. Tôi tin tưởng những thành công ngày hôm nay sẽ tạo tiền đề vững chắc cho việc triển khai nhân rộng mô hình KCN sinh thái tại Việt Nam trong những năm tới. Từ đó, góp phần bảo vệ môi trường, phát triển bền vững và thu hút đầu tư có chất lượng, đặc biệt từ khu vực tư nhân, nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam.” – Bà Thảo nhận định.

Đại diện cho doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Thu Hà, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty TNHH Kiến trúc và Thương mại Á Châu (Nhà máy Giấy Tân Long – Đà Nẵng) cho biết: Tham gia dự án, công ty đã cải biến được nguồn nhiên liệu, qua đó giúp giảm giá thành sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh và góp phần nâng cao đời sống người lao động. Công ty cũng đã áp dụng 21 giải pháp về tiết kiệm năng lượng. Theo đó, trong vòng 1 năm đã tiết kiệm được 2,63 tỷ đồng, giảm nguồn nguyên liệu đầu vào được 360 tấn/năm và giảm thiểu được 540 tấn CO2/năm.

Không chỉ có vậy, các doanh nghiệp còn đang có kế hoạch thực hiện một số giải pháp cộng sinh công nghiệp do các chuyên gia đề xuất. Điều này cho thấy tính bền vững của các hoạt động trong dự án. Những giải pháp cộng sinh công nghiệp dự kiến thực hiện bao gồm: tái sử dựng nước thải và rác nguyên liệu của một doanh nghiệp như là nguyên liệu đầu vào cho một doanh nghiệp khác; thu hồi nhiệt và cải thiện hiệu quả thu gom chất thải; sử dụng chung nồi hơi nước cũng như chia sẻ các phương tiện vận chuyển và các dịch vụ khác cho công nhân.

VNCPC

Nguồn: http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2019-06-12/tiet-kiem-hon-65-trieu-usd-nam-nho-trien-khai-khu-cong-nghiep-sinh-thai-72597.aspx