Nghiên cứu tạo ra thiết bị có thể thu thập nước trong khí quyển để làm mát tấm pin mặt trời

Do các tấm pin mặt trời cần phải lắp thêm hệ thống làm mát chạy bằng nguồn điện nên rất tốn kém. Vì vậy các nhà nghiên cứu tại Saudi Arabia đã tạo ra một thiết bị mới có thể thu thập nước trong khí quyển để làm mát tấm pin mặt trời.

Các nhà nghiên cứu tại Saudi Arabia đã tạo ra một thiết bị mới có thể thu thập nước trong khí quyển để làm mát các tấm pin mặt trời mà không cần sử dụng điện. Công nghệ mới giảm chi phí vận hành, tăng gấp đôi tỷ lệ thu thập nước ở các vùng khô cằn.

Năng lượng mặt trời hiện chiếm hơn 80% sản lượng năng lượng tái tạo của Saudi Arabia. Quốc gia này còn xuất khẩu năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, có một nghịch lý là các tấm pin mặt trời có nguy cơ nóng, cháy nổ do hoạt động mạnh. Do đó, các tấm pin mặt trời cần phải lắp thêm hệ thống làm mát chạy bằng nguồn điện.

Một nhóm nghiên cứu quốc tế, do Giáo sư Qiaoqiang Gan đứng đầu, đã thiết kế một giải pháp tiềm năng. Thiết bị mới không cần điện, chỉ sử dụng trọng lực để chiết xuất nước từ không khí và dựa vào các vật liệu rẻ tiền, sẵn có.

Ngoài việc giữ cho các tấm pin mặt trời và các công nghệ bán dẫn khác mát mẻ, nước có thể được tái sử dụng để tưới tiêu, giặt giũ, làm mát các tòa nhà lắp đặt tấm pin mặt trời và các ứng dụng khác. Các nhà khoa học ước tính, khí quyển chứa lượng nước nhiều gấp 6 lần so với tổng lượng nước ngọt trong các con sông cộng lại.

Giáo sư Gan cho biết, có thể thu thập lượng nước từ khí quyển. Tại quốc gia khô cằn như Saudi Arabia, cần có thêm nguồn điện để chạy thiết bị thu thập nước. Đây là rào cản ở những khu vực nông thôn, thiếu điện, những tấm pin mặt trời khó có thể hoạt động được.

Giáo sư Dan Daniel và Shakeel Ahmad trong nhóm của Gan, phát hiện rằng bằng cách thêm lớp phủ bôi trơn là hỗn hợp của polyme và dầu silicon, họ có thể thu thập được nhiều nước hơn dựa vào trọng lực.


Thiết bị mới không cần điện, chỉ sử dụng trọng lực để chiết xuất nước từ không khí và dựa vào các vật liệu rẻ tiền, sẵn có để làm mát tấm pin điện mặt trời. Ảnh minh họa

Giáo sư Ahmad cho hay, các giọt nước trong khí quyển có xu hướng bám chặt vào bề mặt, do đó phải thu thập nhưng tụ chủ động. Lớp phủ của nhóm nghiên cứu đã loại bỏ tình trạng bám chặt, thu thập nước thụ động. Hệ thống này hoạt động hoàn toàn dựa trên cơ chế làm mát bức xạ thụ động nên không tiêu thụ bất kỳ điện năng nào.

Thiết bị mới đã được thử nghiệm 6 lần trong khoảng thời gian một năm trong điều kiện tự nhiên tại thị trấn Thuwal, cách Jeddah khoảng 100km về phía Bắc và có thể thu được gần gấp đôi nước so với các công nghệ khác.

Theo các chuyên gia, hệ thống không tiêu thụ bất kỳ điện năng nào, giúp tiết kiệm năng lượng. Ngoài ra, hệ thống không phụ thuộc vào bất kỳ bộ phận cơ học nào như máy nén hoặc quạt, giúp giảm chi phí bảo trì so với các hệ thống truyền thống, giúp tiết kiệm hơn nữa.

Đề cập tới lĩnh vực điện mặt trời, những năm gần đây, Việt Nam chú trọng triển khai và đạt được kết quả bước đầu, đóng góp quan trọng vào đảm bảo an ninh năng lượng và mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.

Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc phát triển năng lượng tái tạo (NLTT), trong đó có chính sách phát triển năng lượng mặt trời. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng xác định: “Ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng mới và NLTT như điện mặt trời, thủy điện… Nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo, đáp ứng cho nhu cầu sử dụng năng lượng, đặc biệt đối với hải đảo, vùng sâu, vùng xa”.

Chính phủ có chủ trương phát triển năng lượng sạch, NLTT để bổ sung năng lượng quốc gia; đồng thời, hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực khai thác và sử dụng NLTT, lồng ghép chương trình phát triển NLTT với các chương trình phát triển kinh tế – xã hội khác.

Để đưa chính sách vào cuộc sống, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản về phát triển nguồn năng lượng điện mặt trời, trong đó điển hình như: Quyết định số 2068/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Chiến lược này khuyến khích phát triển và sử dụng năng lượng mới, có cơ chế hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu sản xuất thử nghiệm và xây dựng mô hình thí điểm NLTT, miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế sản xuất và lưu thông máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ phát triển NLTT. Đồng thời, Chiến lược nêu quan điểm phát triển đồng bộ và hợp lý hệ thống năng lượng bao gồm điện, dầu, khí, than năng lượng mới và tái tạo; trong đó quan tâm phát triển năng lượng sạch, năng lượng mới và tái tạo.

Mặc dù, NLTT trong đó có điện mặt trời ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh, nhưng một số ý kiến cho rằng, quy mô điện mặt trời ở nước ta chưa phản ánh hết tiềm năng, lợi thế từ thiên nhiên. Để tận dụng lợi thế, tiềm năng đó, cần có nhiều cơ chế và chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, đơn vị đầu tư vào lĩnh vực điện mặt trời.

Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực điện mặt trời

Tính đến hết năm 2019 có khoảng 1000 tiêu chuẩn trong lĩnh vực điện và điện tử, trong đó có 19 tiêu chuẩn về hệ thống điện mặt trời. Các tiêu chuẩn quốc gia về điện mặt trời phần lớn được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC (Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà quản lý, tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận có thể thừa nhận lẫn nhau kết quả thử nghiệm cũng như chứng chỉ chứng nhận.

Việc biên soạn các tiêu chuẩn này được thực hiện chính bởi Ban kỹ thuật Tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC/E13 Năng lượng Tái tạo. Tiêu chuẩn quốc gia về tấm pin mặt trời hiện nay đã có bộ tiêu chuẩn về an toàn điện của tấm pin TCVN 12232 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 61730, bộ tiêu chuẩn về đánh giá chất lượng thiết kế của tấm pin TCVN 6781 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 61215.

Bên cạnh đó còn có các tiêu chuẩn đối với thành phần của hệ thống pin mặt trời như bộ TCVN 12231 về an toàn của bộ nghịch lưu inverter được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 62109 và các TCVN cho hộp kết nối, cáp điện, v.v…

Ngoài các tiêu chuẩn quốc gia đã được công bố nêu trên, vẫn cần thiết phải bổ sung thêm các tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng và tái chế pin mặt trời cũng như có các biện pháp quản lý chất lượng, nâng cao năng lực thử nghiệm, chứng nhận, công nhận nhằm đảm bảo các yêu cầu quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm đồng thời góp phần bảo vệ môi trường.

Vân Thảo (T/h)
https://vietq.vn/nghien-cuu-tao-ra-thiet-bi-moi-co-the-thu-thap-nuoc-trong-khi-quyen-de-lam-mat-tam-pin-mat-troi-d226169.html

Nguy cơ lãng phí từ sản xuất dư thừa

Sản xuất dư thừa là một trong những lãng phí được đánh giá là nghiêm trọng và tồi tệ nhất trong các dạng lãng phí vì nó tiềm ẩn hoặc/và tạo ra các lãng phí khác.

Theo chuyên gia năng suất, sản xuất dư thừa có thể gây ra các nguy cơ sau đối với doanh nghiệp: Nếu sản xuất quá nhiều, doanh nghiệp sẽ lưu kho nhiều, khó thay đổi dòng sản phẩm theo thị hiếu và tiến bộ khoa học công nghệ, từ đó gia tăng rủi ro sự lỗi thời hàng hóa.

Đây sẽ là những hàng hóa, sản phẩm không theo kịp yêu cầu, đòi hỏi của thị trường và tiến bộ công nghệ, bị tụt hậu so với những sản phẩm ở thời điểm hiện tại. Việc loại bỏ những hàng hóa, sản phẩm này sẽ dẫn đến nguy cơ về sự giảm sút doanh thu và thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Sản xuất dư thừa cũng góp phần làm doanh nghiệp phải đối mặt với tình hình sản phẩm, hàng hóa hết hạn.

Chẳng hạn như mặt hàng dược phẩm, thực phẩm… doanh nghiệp không chỉ cần bảo quản đúng cách mà còn phải theo dõi hạn dùng. Nếu hết hạn sử dụng doanh nghiệp phải hủy các loại hàng hóa này, như vậy đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải tốn chi phí cho khoản tiến mua nguyên liệu, đầu vào ban đầu; bên cạnh đó phải mất thêm một khoản chi phí để xử lý và thải bỏ các hàng hóa hết hạn. Sản xuất dư thừa góp phần tăng thêm số lượng tồn kho so với nhu cầu thực, dẫn đến lượng tồn kho vượt quá khả năng lưu trữ, chiếm dụng diện tích. Từ đó phát sinh thêm chi phí cho các hoạt động lưu trữ và bảo quản hàng hóa.


Sản xuất dư thừa là một trong những lãng phí được đánh giá là nghiêm trọng và tồi tệ nhất trong các dạng lãng phí.

Với sản xuất dư thừa doanh nghiệp có thể phải bán các sản phẩm này với giá thấp hoặc phải bỏ đi dưới dạng phế liệu hoặc phải dùng loại đầu vào, bàn giao sản phẩm cho khách hàng với chất lượng cao hơn mức yêu cầu. Ngoài ra, doanh nghiệp phải đầu tư vốn trước thời hạn như đầu tư mua nguyên liệu và phụ tùng trước kỳ hạn mà doanh nghiệp có khả năng tiếp tục được đặt hàng. Sản xuất thừa còn dẫn đến gia tăng nhiều chi phí như: chi phí lưu kho, chi phí năng lượng, chi phí bảo quản, chi phí nhân lực, chi phí hành chính, chi phí thiết bị, chi phí tài chính…

Các nguyên nhân dẫn đến sản xuất dư thừa có thể là: Thường doanh nghiệp đều mong muốn chủ động trong sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của khách hàng càng nhanh càng tốt do vậy doanh nghiệp vẫn chấp nhận một khoảng sản xuất dư thừa nào đó như một khoảng dự phòng.

Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có được lượng sản xuất dư thừa mong muốn này. Nguyên nhân là do có một số khoản dự phòng nhưng mức này được tính toán chưa hợp lý dẫn đến dự phòng quá cao; Hoặc mặc dù doanh nghiệp chưa có đơn hàng, chưa ký hợp đồng, thông tin hợp đồng/đơn hàng chưa rõ đã bắt tay vào triển khai thực hiện để tạo thế chủ động và lợi thế so với đối thủ cạnh tranh. Cũng có một số doanh nghiệp dự báo sai nhu cầu hoặc sản xuất trước kỳ hạn và cho rằng khách hàng sẽ đặt lại đơn hàng cũ nên tiến hành triển khai sản xuất trước khi có thông tin chính thức.

Thường các doanh nghiệp đều mong muốn chủ động trong sản xuất kinh doanh, mong muốn đáp ứng yêu cầu của khách hàng càng nhanh càng tốt do vậy nhiều doanh nghiệp vẫn chấp nhận một khoảng sản xuất dư thừa nào đó như một khoảng dự phòng.


Ảnh minh hoạ.

Trong một số trường hợp, khi doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thiện đơn hàng nhưng đơn hàng lại bị hủy hoặc thay đổi số lượng hay chủng loại. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sản xuất dư thừa. Mức độ nghiêm trọng của sản xuất dư thừa trong trường hợp này gặp ở các doanh nghiệp có quy mô sản xuất theo lô hàng lớn hoặc sản xuất hàng loạt nhiều hơn so với doanh nghiệp có loại hình sản xuất khác.

Việc quản lý trao đổi thông tin trong doanh nghiệp chưa tốt, thông tin truyền đạt giữa bộ phận kinh doanh và bộ phận sản xuất không xuyên suốt dẫn đến thông tin đầu vào, đầu ra (ví dụ: nguyên vật liệu) không rõ và giám sát thông tin, giám sát tuân thủ không tốt (ví dụ mặt dưới mặt bàn cần được làm bằng gỗ loại A, trong khi khách hàng chỉ yêu cầu loại B, v.v. hoặc kế hoạch sản xuất không đạt.

Phương Nam
https://vietq.vn/nguy-co-lang-phi-tu-san-xuat-du-thua-d225939.html

Nghiên cứu đột phá công nghệ tạo ra điện Mặt Trời vào ban đêm

Nghiên cứu từ Đại học UNSW (Australia) cho thấy, nhiệt hồng ngoại bức xạ của Trái Đất có thể được sử dụng để tạo ra điện, ngay cả sau khi Mặt Trời lặn.

Nghiên cứu từ Đại học UNSW (Australia) cho thấy, nhiệt hồng ngoại bức xạ của Trái Đất có thể được sử dụng để tạo ra điện, ngay cả sau khi Mặt Trời lặn, theo cách tương tự như Trái Đất nguội đi bằng cách bức xạ vào không gian lúc ban đêm.

Mặc dù lượng điện được tạo ra ở giai đoạn này rất nhỏ, ít hơn khoảng 100.000 lần so với lượng điện do tấm pin Mặt Trời, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng kết quả có thể được cải thiện trong tương lai.

Phó Giáo sư Ned Ekins-Daukes cho biết, năng lượng chiếu xuống Trái Đất vào ban ngày dưới dạng ánh sáng Mặt Trời và làm ấm hành tinh. Vào ban đêm, cùng mức năng lượng này bức xạ trở lại vào không gian dưới dạng ánh sáng hồng ngoại và có thể tạo ra điện bằng cách tận dụng quá trình này.

Theo Tiến sĩ Phoebe Pearce, khi có dòng năng lượng, có thể chuyển đổi thành các dạng khác nhau. Quá trình chuyển đổi trực tiếp ánh sáng Mặt Trời thành điện, do con người phát triển để chuyển đổi năng lượng mặt trời thành điện năng. Quá trình nhiệt bức xạ cũng tương tự, chuyển năng lượng trong tia hồng ngoại từ Trái Đất ấm vào vũ trụ lạnh.


Nghiên cứu sử dụng nhiệt hồng ngoại bức xạ của Trái Đất để tạo ra điện ngay cả sau khi Mặt Trời lặn. Ảnh minh họa

Nhóm nghiên cứu tin rằng, công nghệ mới có thể có nhiều ứng dụng trong tương lai, giúp sản xuất điện theo những cách hiện không thể thực hiện được.

Theo Tiến sĩ Michael Nielsen, từ nghiên cứu tới thương mại hoá vẫn còn chặng đường dài, tuy nhiên mở ra giải pháp tạo ra điện từ Mặt Trời ban đêm.

Liên quan tới tấm pin điện Mặt Trời, trước đó nhóm nghiên cứu tại Đại học Stanford (Mỹ) chế tạo pin Mặt Trời với khả năng thu năng lượng từ môi trường cả ngày lẫn đêm, giúp loại bỏ nhu cầu sử dụng thêm bộ lưu trữ điện.

Ban đêm, pin Mặt Trời tỏa nhiệt ra không gian và nhiệt độ bề mặt pin sẽ mát hơn vài độ so với không khí xung quanh. Thiết bị mới sử dụng một module nhiệt điện để tạo ra điện áp và dòng điện từ sự chênh lệch nhiệt độ giữa pin mặt trời và không khí. Quá trình này phụ thuộc vào cấu trúc nhiệt của hệ thống, bao gồm một bên nóng và một bên lạnh.

“Module nhiệt điện cần tiếp xúc tốt với cả bên lạnh (pin Mặt Trời ) lẫn bên nóng (môi trường xung quanh). Nếu không đảm bảo điều đó, bạn sẽ không thu được nhiều năng lượng”, Sid Assawaworrarit, thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết.

Nhóm chuyên gia đã chứng minh khả năng phát điện của thiết bị mới vào ban ngày, khi thiết bị hoạt động theo chiều ngược lại và đóng góp thêm năng lượng cho pin Mặt Trời truyền thống, cũng như vào ban đêm.

Nhóm nhà khoa học đặt mục tiêu tối ưu hóa khả năng cách nhiệt và các thành phần nhiệt điện của thiết bị. Họ cũng đang tìm cách cải tiến pin mặt trời để tăng hiệu quả tỏa nhiệt mà không ảnh hưởng đến khả năng thu năng lượng Mặt Trời.

Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực điện mặt trời

Nhằm mục đích đẩy mạnh khai thác và sử dụng tối đa, có hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo trong nước, từng bước gia tăng tỷ trọng của năng lượng tái tạo trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng quốc gia để giảm sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, cải thiện cơ cấu ngành năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế – xã hội bền vững, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo ở nước ta trong đó có điện Mặt Trời. Các cơ chế cũng đã tạo điều kiện cho hàng nghìn nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia thị trường từ nghiên cứu, sản xuất, phân phối, lắp đặt, dịch vụ, đến tài chính, bảo hiểm…, góp phần hình thành thị trường điện năng lượng tái tạo tại Việt Nam.

Song song với đó, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cũng đang hoàn thiện để có được các tiêu chuẩn kỹ thuật kiểm soát an toàn, chất lượng của hệ thống điện Mặt Trời. Tính đến hết năm 2019 có khoảng 1000 TCVN trong lĩnh vực điện và điện tử, trong đó có 19 TCVN về hệ thống điện Mặt Trời. Các tiêu chuẩn quốc gia TCVN về điện Mặt Trời phần lớn được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC (Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà quản lý, tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận có thể thừa nhận lẫn nhau kết quả thử nghiệm cũng như chứng chỉ chứng nhận.

Việc biên soạn các TCVN này được thực hiện chính bởi Ban kỹ thuật Tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC/E13 Năng lượng Tái tạo. Tiêu chuẩn quốc gia về tấm pin Mặt Trời hiện nay đã có bộ tiêu chuẩn về an toàn điện của tấm pin TCVN 12232 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 61730, bộ tiêu chuẩn về đánh giá chất lượng thiết kế của tấm pin TCVN 6781 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 61215. Bên cạnh đó còn có các tiêu chuẩn đối với thành phần của hệ thống pin mặt trời như bộ TCVN 12231 về an toàn của bộ nghịch lưu inverter được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 62109 và các TCVN cho hộp kết nối, cáp điện, v.v…

An Dương (T/h)

https://vietq.vn/australia-nghien-cuu-dot-pha-cong-nghe-tao-ra-dien-mat-troi-vao-ban-dem-d225631.html

Phương pháp đánh giá rủi ro khi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật

Thực trạng hiện nay cho thấy, có rất nhiều bất cập và khó khăn trong việc xây dựng, áp dụng quy chuẩn kỹ thuật. Để giải quyết những bất cập trên cần có phương pháp để đánh giá rủi ro khi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật.

Tính đến nay đã có 756 QCVN và 56 Quy chuẩn địa phương được xây dựng và ban hành, tuy nhiên vẫn còn những bất cập trong việc áp dụng QCVN về phòng cháy chữa cháy, thuốc thú ý, thức ăn chăn nuôi….. cùng với đó, các chỉ tiêu kỹ thuật ngày càng cao hơn mức cần thiết; Chi phí điều chỉnh dây truyền sản xuất, thử nghiệm, chứng nhận cao; Đối tượng, phạm vi quá rộng (Đ3 Luật…); Hạ tầng kỹ thuật, năng lực thử nghiệm không đảm bảo triển khai, áp dụng QCKT hiệu quả.

Trước thực trạng trên, ông Nguyễn Văn Khôi – Trưởng ban Tiêu chuẩn, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia đã đưa ra phương pháp đánh giá rủi ro, phương pháp này được tham khảo tại CENELEC Guide 32: Hướng dẫn đánh giá rủi ro đối với Thiết bị điện gia dụng và ASEAN/JSCEE Guide: Hướng dẫn đánh giá rủi ro UB Hỗn hợp Điện-Điện tử.

Theo đó, các thông tin cần cho đánh giá rủi ro: thứ nhất là, xác định phạm vi, đối tượng, mục đích áp dụng phù hợp của QCKT; thứ hai là, xác định các trường hợp sử dụng sai có thể xảy ra tai nạn của SPHH; thứ ba là, xác định các mối nguy (SX, lắp đặt, sử dụng…); thứ tư là, ước lượng rủi ro gây ra do từng mối nguy xác định; thứ năm là, thống kê tai nạn, sự cố của SP (5-10 năm gần đây); thứ sáu là, thông tin liên quan đến các rủi ro có thể xảy ra (tiếng ồn, độ rung, bụi, khói, hóa chất được sử dụng hoặc vật liệu được xử lý bởi thiết bị…).

Về nhận diện rủi ro từ mối nguy từ điện bao gồm: Dòng điện rò, nguồn điện, tích điện, phóng điện hồ quang, điện giật, bỏng; Nhận diện rủi ro từ mối nguy cơ học bao gồm: Sự mất ổn định, hư hỏng trong quá trình hoạt động; rơi/bắn ra vật thể có khả năng gây tai nạn; bề mặt, góc, cạnh không thích ứng; các bộ phận chuyển động; rung; lắp không đúng linh kiện; phát nổ; Nhận diện rủi ro mối nguy điện từ trường, bức xạ Ion… bao gồm: Nhiễu điện, điện từ; bức xạ quang; cháy; nhiệt độ; tiếng ồn; phát xạ chất độc hại; kết nối và gián đoạn nguồn điện; kết hợp thiết bị.

Ông Khôi cũng đưa ra công thức đánh giá rủi ro: R = C x P x N, trong đó, R: Mức độ rủi ro của sản phẩm; C: Mức độ nghiêm trọng của mối nguy; P: Xác suất xảy ra mối nguy; N: Mức độ thông dụng của sản phẩm.

Về đánh giá năng lực thử nghiệm: Khảo sát các tổ chức đánh giá sự phù hợp (3 miền); Đánh giá năng lực thử nghiệm (dựa trên các chỉ tiêu, yêu cầu kỹ thuật trong dự thảo QCKT); Đánh giá, xác định mức chi phí thử nghiệm, chứng nhận cho SPHH, dịch vụ…. (Theo các phương thức chứng nhận khác nhau 1, 5, 6, 7, 8).

Kế hoạch triển khai tại Ủy ban TCĐLCLQG, ông Khôi cho biết, sẽ sửa Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, trong đó, bổ sung quy định Báo cáo đánh giá thẩm định và thẩm định nội dung này; Xây dựng Hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động (Hội thảo, lấy ý kiến…); Áp dụng các QCVN của Bộ KH&CN (QCVN về Thép, Led, CNG/LNG, Ổ cắm phích cắm, Automat…), trong đó, triển khai thu thập số liệu, tính toán, lập BCĐGTĐ.

Tiểu My
https://vietq.vn/phuong-phap-danh-gia-rui-ro-khi-xay-dung-quy-chuan-ky-thuat-d225381.html

Bộ lọc than hoạt tính giúp loại bỏ hóa chất vĩnh cửu trong nước uống hàng ngày

Các nhà nghiên cứu tại một trường đại học của Mỹ đã tìm ra phương pháp giúp loại bỏ một lượng hóa chất vĩnh cửu có trong nguồn nước uống hàng ngày.

Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học trên khắp thế giới đã liên tục tìm kiếm các phương pháp nhằm loại bỏ các hóa chất này trong nước uống. Mới đây, Trường đại học British Columbia, Mỹ, đã tìm ra chất xúc tác có thể loại bỏ hóa chất vĩnh cửu có trong nguồn nước sinh hoạt hàng ngày của con người. Các hóa chất vĩnh cửu, viết tắt là PFAS, được sử dụng rất nhiều vì chúng giúp cho đồ vật chịu nhiệt cao, chống bẩn và kháng nước. Tuy nhiên, khi không còn được sử dụng và vứt bỏ ra bãi rác, những sản phẩm có chứa PFAS sẽ gây ô nhiễm nguồn nước vì các hóa chất này rất khó phân hủy. Chúng là những nhân tố nguy hiểm đe dọa sức khỏe, có liên quan đến các bệnh gan, ung thư, tuyến giáp và nhiều bệnh khác.

Theo phương pháp này, chỉ cần vài giờ để làm sạch nước, ngay cả khi không có nguồn tia cực tím ổn định để khử. Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã tạo ra một bộ lọc than hoạt tính có chứa chất xúc tác đã được cấp bằng sáng chế. Chất xúc tác quang lai oxit sắt (Fe/g-C) có thể thu giữ PFAS trong nước và phân hủy các hóa chất này thành các thành phần vô hại. Toàn bộ quá trình này khá nhanh, tùy vào lượng nước cần được xử lý.

 Bộ lọc than hoạt tính cho phép loại bỏ một lượng lớn hóa chất vĩnh cửu tồn tại trong nước uống

Các nhà nghiên cứu cho biết một số giải pháp trước đây chỉ có thể thực hiện hoặc thu giữ hoặc phân hủy các hóa chất này, nhưng với công nghệ được sử dụng trong nghiên cứu mới này, cả hai vấn đề nêu trên đều có thể được xử lý trong thời gian ngắn.

Theo các nhà khoa học, giải pháp mới này nhanh hơn rất nhiều so với các cách thức khác. Chất xúc tác được nghiên cứu chỉ cần 3 giờ đồng hồ là có thể loại bỏ 90% các hóa chất vĩnh cửu trong nước. Bên cạnh đó, phương pháp này còn có ưu điểm tiết kiệm chi phí và dễ thực hiện hơn các phương pháp khác đang được áp dụng.

Chẳng hạn như một số phương pháp cần có tia cực tím để tạo các phản ứng hóa học, nhưng phương pháp mới của nhóm nghiên cứu lần này hoàn toàn áp dụng được ở những nơi không có đủ ánh sáng. Trong điều kiện thiếu sáng, công nghệ mới này vẫn loại bỏ được 85% PFOA. PFOA cũng là một hóa chất vĩnh cửu.

Hơn nữa, công nghệ mới này có thể dùng để loại bỏ các thành phần “cứng đầu” khác gây ô nhiễm nước chứ không chỉ các hóa chất vĩnh cửu. Chất xúc tác đặc biệt này có thể dùng để xử lý các hệ thống cấp nước đô thị và các cơ sở công nghiệp.

Đây quả là một thành tựu nghiên cứu có giá trị quan trọng. Hiện, các nhà khoa học đã liên kết với một công ty thương mại để đưa công nghệ mới này đi vào đời sống.

 Bảo Linh (t/h)
https://vietq.vn/bo-loc-than-hoat-tinh-giup-loai-bo-hoa-chat-vinh-cuu-trong-nuoc-uong-hang-ngay-d224975.html

Tái sử dụng pin – Giải pháp bền vững lưu trữ năng lượng sạch

Nhằm giảm thiểu rác thải điện tử ra môi trường cũng như hướng đến một xã hội phát triển bền vững, Uỷ ban tiêu chuẩn IEC mới đây đã công bố bộ tiêu chuẩn hướng dẫn về việc tái sử dụng đối với loại pin xe điện đã hết hạn.

Pin là vật liệu quan trọng và cần thiết để lưu trữ và tái tạo nguồn năng lượng để sử dụng khi cần thiết. Theo Kịch bản Phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), pin là một phần thiết yếu của hệ thống năng lượng toàn cầu hiện nay và là công nghệ năng lượng phát triển nhanh nhất trên thị trường.

Để sản xuất ra một sản phẩm pin, cần rất nhiều chi phí, chưa kể, khi pin hết một vòng đời sử dụng có thể thải ra các chất ô nhiễm độc hại nếu không được xử lý đúng cách, có thể gây ra các vấn đề về rác thải điện tử, gây ô nhiễm môi trường.

Theo IEA ước tính rằng các loại pin không còn đáp ứng tiêu chuẩn sử dụng trong xe điện (EV), vẫn có thể duy trì tới 80% tổng dung lượng sử dụng được đối với các thiết bị khác. Với số lượng xe điện ngày càng tăng, dần thay thế cho dòng xe xăng, việc tái sử dụng pin sẽ là giải pháp có giá trị để lưu trữ năng lượng và bảo vệ môi trường, hướng tới một mục đích phát triển bền vững.


Tiêu chuẩn IEC 63338 – Hướng dẫn chung về việc tái sử dụng và tái chế pin và ắc quy thứ cấp

Tuy nhiên, việc tái sử dụng pin không hề dễ dàng, vì những thách thức về quy định công nghệ vẫn là rào cản đối với việc áp dụng. Không chỉ có rủi ro không may xảy ra trong quá trình tái sử dụng pin mà còn trong quá trình sử dụng chúng. Hơn nữa, nhiều quốc gia và khu vực đang xây dựng các yêu cầu và quy định khác nhau về việc tái sử dụng và tái sử dụng pin, hầu hết tập trung về các vấn đề về kỹ thuật hoặc an toàn.

Đây là thời điểm thích hợp để tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng nhằm giải quyết vấn đề này, cũng như tạo khung quy định chung, chuẩn mực để các quốc gia tham khảo. Tiêu chuẩn IEC 63338 – Hướng dẫn chung về việc tái sử dụng và tái chế pin và ắc quy thứ cấp, mới được công bố nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề này. Tiêu chuẩn đề cập đến các rủi ro về an toàn liên quan đến hệ thống lithium ion và niken cũng như xác định tính phù hợp để tái sử dụng hoặc tái chế, hay quy định chung về cảnh báo của nhà sản xuất, v.v.

Tiêu chuẩn này được phát triển bởi ủy ban kỹ thuật IEC TC 21/SC 21A dành cho các loại ắc quy và pin thứ cấp chứa chất điện phân kiềm hoặc chất điện phân không phải axit khác.

Đây là tiêu chuẩn mới nhất trong số nhiều tiêu chuẩn của Uỷ ban TC 21/SC 21A được thiết kế để hỗ trợ việc tái sử dụng và thay đổi mục đích sử dụng pin và hệ thống lưu trữ năng lượng pin một cách an toàn và đáng tin cậy.

Các tiêu chuẩn khác của Uỷ ban bao gồm IEC 63330-1 (yêu cầu chung về việc tái sử dụng các cell thứ cấp, mô-đun, bộ pin và hệ thống pin), IEC 62933-4-4 (yêu cầu về môi trường đối với hệ thống lưu trữ năng lượng dựa trên pin (BESS) có pin tái sử dụng) và IEC 62933-5-3 (yêu cầu về an toàn đối với hệ thống EES tích hợp lưới điện).

Bảo Linh (biên dịch từ IEC)
https://vietq.vn/tai-su-dung-pin—giai-phap-ben-vung-luu-tru-nang-luong-sach-d224706.html