Chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái để phát triển kinh tế bền vững

Theo Vụ Quản lý các Khu kinh tế, Bộ KH&ĐT, tính đến hết tháng 7/2024, cả nước đã có 431 KCN, khu chế xuất được thành lập với tổng diện tích khoảng 132.300 ha, tạo ra quỹ đất công nghiệp khoảng 89.900 ha.

Trong đó có hơn 300 KCN đã đi vào hoạt động, thu hút được lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung cũng như các địa phương nói riêng.

Hiện đã có một số Khu công nghiệp truyền thống tiên phong chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái, thu hút nhiều Tập đoàn lớn đến đầu tư và hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế đất nước xanh, bền vững. Tuy vậy rất cần nhiều cơ chế, chính sách hơn nữa để thúc đẩy các Khu công nghiệp sinh thái thực sự đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước bền vững.

Một thực tế đáng mừng là, trong những năm gần đây, vốn FDI trong KCN, KKT chiếm khoảng 35 – 40% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước; nếu tính riêng trong lĩnh vực chế biến, chế tạo thì vốn FDI trong KCN, KKT chiếm 70 – 80% tổng vốn đăng ký cả nước. KCN và KKT đã thực sự trở thành các khu vực trọng điểm thu hút các nguồn vốn đầu tư và dự án lớn trong và ngoài nước, là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới, như: Samsung, LG, Canon, Foxconn, Lego, Gortek, Hyosung, Formosa… đóng vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.


Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền – Hải Phòng

Không nằm ngoài xu hướng chung của thế giới, với sự hỗ trợ của các tổ chức, chuyên gia quốc tế và nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ, trong giai đoạn 2015-2019, Việt Nam đã triển khai thí điểm sáng kiến KCN sinh thái tại 3 địa phương: Ninh Bình, Đà Nẵng, Cần Thơ do Bộ KH&ĐT phối hợp với tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc thực hiện với nguồn tài trợ từ Tổng cục kinh tế Liên bang Thụy Sỹ, Quỹ Môi trường toàn cầu và Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc.

Sau hơn 4 năm triển khai hỗ trợ chuyển đổi 4 KCN thí điểm là KCN Khánh Phú, KCN Gián Khẩu, KCN Hòa Khánh và KCN Trà Nóc 1&2, các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn do dự án đề xuất đã giúp 72 DN tiết kiệm được hơn 22.000 MWh điện, 600.000 m3 nước, gần 3.600 tấn hóa chất và chất thải, trên 76 tỷ đồng/năm và huy động trên 207 tỷ đồng từ khu vực tư nhân, cắt giảm khí CO2 phát thải…

Từ năm 2020-2024, từ nguồn hỗ trợ tài chính của Chính phủ Thụy Sỹ, Bộ KH&ĐT tiếp tục phối hợp với UNIDO nhân rộng mô hình KCN sinh thái thêm tại 3 địa phương: Hải Phòng, Đồng Nai và TP.HCM. Tính đến hết tháng 5/2024, đã có 90 doanh nghiệp được hỗ trợ với 889 giải pháp hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn tại 4 KCN: Hiệp Phước; Amata; Đình Vũ và Hoà Khánh, góp phần tiết kiệm năng lượng, nước, giảm phát thải CO2 và đem lại lợi ích kinh tế cho các DN; đề xuất thực hiện 62 cơ hội cộng sinh công nghiệp – đô thị cho 3 KCN với 18 trường hợp có tính khả thi cao, góp phần tối ưu hóa việc tái sử dụng chất thải, cụ thể hóa việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.

Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững, các KCN trong thời gian tới cần có những giải pháp đột phá, phù hợp với xu thế mới, các bộ, ngành đang đề xuất những chính sách khuyến khích phù hợp, hỗ trợ các nhà đầu tư có động lực triển khai các mô hình mang tính bền vững.

Bà Vương Thị Minh Hiếu, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các Khu Kinh tế, Bộ KH&ĐT cho biết: “Đối với mô hình khu công nghiệp sinh thái này thì ngoài những cơ chế chính sách ưu đãi, không phải quy định của pháp luật về thuế, chúng tôi định hướng sẽ bổ sung cơ chế chính sách, ví dụ như thời hạn hoạt động của các dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp cao hơn so với những dự án hạ tầng khu công nghiệp thông thường.

Đồng thời sẽ bổ sung cơ chế chính sách liên quan đến điều kiện tín dụng ưu đãi, các nguồn lực cho việc thực hiện các khu công nghiệp sinh thái. Ngoài ra nội dung quan trọng nhất của Luật, đó chính là nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về Khu công nghiệp- Khu kinh tế với trọng tâm là các cơ quan quản lý nhà nước về KCN-KKT ở các địa phương. Các Ban quản lý phải có đủ thẩm quyền, năng lực để phát triển những mô hình, theo hướng tiệm cận với quốc tế như là mô hình Khu công nghiệp sinh thái hay khu thương mại tự do”.


Bà Vương Thị Minh Hiếu – Phó Vụ trưởng Quản lý các Khu kinh tế – Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu mà đang thực sự trở thành xu thế tất yếu, là giá trị cốt lõi của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định tầm nhìn và định hướng chiến lược kinh doanh. Đây cũng vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam để phát triển bứt phá và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đơn cử như quá trình chuyển đổi từ truyền thống sang sinh thái của các khu công nghiệp An Phát (Hải Dương), Nam Cầu Kiền và Deep-C (Hải Phòng) đã tạo ra hiệu quả vượt trội cho chuỗi kinh tế tuần hoàn. Những mô hình này đang tạo sức cạnh tranh lớn trong thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời, là xu thế tất yếu trong quá trình chuyển đổi xanh. Khu công nghiệp Deep C nổi bật với hệ thống năng lượng tái tạo (điện mặt trời áp mái, điện gió); khu tổ hợp dịch vụ xã hội trong khu công nghiệp. Các công trình nơi đây đều dựa vào tự nhiên ứng phó biến đổi khí hậu.

Đặc biệt, khu công nghiệp Nam Cầu Kiền với vai trò tích cực của nhà đầu tư đã trở thành mô hình đang chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái thí điểm, đã có hơn 1 triệu cây xanh được trồng, chiếm đến 33% diện tích đất khu công nghiệp. Hệ thống quan trắc nguồn thải tự động liên tục truyền dẫn thông tin về Sở Tài nguyên và Môi trường Hải Phòng (24/24 giờ) tất cả các ngày trong tuần. 81,4 kWh điện đã được tạo ra từ dự án điện mặt trời áp mái và được sử dụng trong vận hành khu công nghiệp, 25% lượng nước thải trong khu công nghiệp sau xử lý được tái sử dụng cho mục đích tưới cây, rửa đường, giảm lượng xả thải ra ngoài môi trường, tiết kiệm được 6 tỷ đồng mỗi năm chi phí mua nước sạch. 65% hệ sinh thái trong khu công nghiệp được phục hồi sau khi mô hình sinh thái đang được từng bước áp dụng tại Nam Cầu Kiền. Mô hình chuyển đổi này đang được nhân rộng trên cả nước, với tổng quy mô quỹ đất lên đến 3.500 ha.

Ông Phạm Hồng Điệp – một chủ đầu tư KCN Nam Cầu Kiền, Hải Phòng đề xuất: “Cơ chế, chính sách để khuyến khích cho các nhà đầu tư cũng như là các doanh nghiệp FDI hoặc DDI trong thu hút đầu tư phải có sự đồng bộ và có cơ chế chính sách khuyến khích để họ có cảm hứng, liên kết với nhau cùng xây dựng một Hệ kinh tế tuần hoàn, cũng như Hệ doanh nghiệp sống cộng sinh trong khu công nghiệp, dẫn đến thành công một khu công nghiệp sinh thái. Hiện nay, chúng tôi rất cần các vấn đề pháp lý và các cơ chế chính sách để tạo cảm hứng cho các nhà đầu tư”.

Ông Bruno Jaspaert – Tổng giám đốc Khu công nghiệp Deep C (Hải Phòng) cho biết, các nguyên tắc phát triển hiện nay của Khu theo hướng đảm bảo thu hút các nhà đầu tư muốn đến đầu tư và đáp ứng các dịch vụ liên quan đến ESG (các tiêu chí về môi trường, xã hội và quản trị), đến chứng chỉ carbon, các sáng kiến để các nhà đầu tư báo cáo với cấp quản lý không chỉ hiệu quả về mặt lợi nhuận mà cả việc thực hiện trách nhiệm xã hội. Các sáng kiến đều đảm bảo phát triển một KCN theo định hướng xanh nhất và bền vững nhất. Tuy nhiên cũng còn một số khó khăn trong quá trình chuyển đổi từ Khu công nghiệp truyền thống sang Khu công nghiệp sinh thái.

“Có một ví dụ mà chúng tôi gặp khó khăn khi triển khai các sáng kiến, và ngay tại thời điểm này có nhiều việc chúng tôi cũng chưa thể làm được. Như việc chúng tôi có nhà máy xử lý nước thải có khả năng xử lý để chất lượng nước thải sau xử lý còn tốt hơn chất lượng nước thô. Nhưng hiện tại chúng tôi chưa thể đưa nước thải đã qua xử lý quay trở lại quy trình sản xuất công nghiệp mặc dù các nhà đầu tư thứ cấp trong khu công nghiệp sẵn sàng tái sử dụng nước thải đã qua xử lý này” – ông Bruno Jaspaert nói.

Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ mạnh dạn tiên phong thay đổi hướng phát triển các mô hình KCN mới, tập trung đẩy mạnh phát triển mô hình KCN sinh thái, KCN xanh, trong đó quy hoạch hình thành các khu Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, hướng đến xây dựng “Thung lũng Sillicon Việt Nam”. Các Khu công nghiệp, khu kinh tế lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm trụ cột cho phát triển trong tương lai.

Trong đó, chuyển hướng sang chủ động kiến tạo, tạo môi trường cho các DN công nghệ, start-up được hình thành và phát triển. Dành quỹ đất và nguồn lực cho các dự án R&D, nghiên cứu thử nghiệm sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, tiết kiệm năng lượng… Thu hút đầu tư có chọn lọc, chủ động tiếp xúc, bám sát các Tập đoàn hàng đầu thế giới trong các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên. Điều quan trọng nhất là phát triển kinh tế phải đi liền với phát triển hạ tầng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường, quy hoạch và triển khai các giải pháp xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong KCN, KKT, hoàn thiện hệ sinh thái công nghiệp – đô thị – dịch vụ, đảm bảo cho việc phát triển bền vững các KCN, KKT.

Xuân Lan/VOV1
https://vov.vn/kinh-te/chuyen-doi-sang-khu-cong-nghiep-sinh-thai-de-phat-trien-kinh-te-ben-vung-post1116812.vov

Nhân rộng mô hình khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam

Sáng 12-4, tại TPHCM, Bộ KH-ĐT và Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) phối hợp tổ chức hội thảo tổng kết dự án triển khai khu công nghiệp (KCN) sinh thái tại Việt Nam.

Dự án “Triển khai KCN sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ Chương trình KCN sinh thái toàn cầu” được phê duyệt và triển khai thực hiện từ tháng 5-2020 và sẽ kết thúc vào ngày 30-4-2024. Một số KCN tham gia chương trình gồm: Hiệp Phước (TPHCM), Đình Vũ (Hải Phòng), Trà Nóc (Cần Thơ), Amata – Biên Hoà (Đồng Nai), Hòa Khánh (Đà Nẵng).


Hội thảo tổ chức tại TPHCM với sự tham gia của nhiều đại biểu trong và ngoài nước. Ảnh: M.HOA

Phát biểu khai mạc, ông Lê Thành Quân, Vụ trưởng Vụ quản lý các khu kinh tế, Bộ KH-ĐT cho biết, trong quá trình triển khai, mặc dù chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi đại dịch Covid-19 nhưng đến nay, về cơ bản dự án đã hoàn thành các mục tiêu đề ra ban đầu. Cụ thể là việc khuyến khích phát triển và lồng ghép KCN sinh thái trong thể chế, chính sách; xác định và triển khai thực hiện các cơ hội KCN sinh thái nhằm đem lại lợi ích môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội cho doanh nghiệp trong các KCN.

Theo ông Quân, năm 2015, khi bắt đầu triển khai dự án thí điểm KCN sinh thái tại Việt Nam, đây là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ. Đến nay, mô hình này đã được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, cao nhất là ở cấp nghị định của Chính phủ; lồng ghép vào nhiều chính sách quan trọng của quốc gia về sản xuất, tiêu dùng bền vững, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam và đang tiếp tục từng bước được hoàn thiện. Đây là kết quả hết sức quan trọng, đặt nền tảng cho việc triển khai thực hiện chuyển đổi cũng như xây dựng mới các KCN theo mô hình sinh thái tại Việt Nam.

Bà Lê Thị Thanh Thảo, đại diện quốc gia của UNIDO tại Việt Nam đánh giá cao cam kết của Chính phủ Việt Nam trong phát triển KCN sinh thái và mối quan hệ hợp tác gắn bó chặt chẽ với Bộ KH-ĐT. Bà Thảo tin tưởng những lợi ích đáng kể về kinh tế, môi trường và xã hội từ dự án sẽ góp phần nhân rộng lan tỏa việc thực hiện mô hình KCN sinh thái để phát triển công nghiệp toàn diện và bền vững ở Việt Nam.

Bà Sibylle Bachmann, Trưởng Cơ quan Hợp tác Phát triển, Đại sứ quán Thụy Sĩ tại Việt Nam nhấn mạnh vai trò quan trọng của dự án trong việc tạo điều kiện phát triển công nghiệp bền vững và thịnh vượng. Với sự hỗ trợ của dự án, Việt Nam đã ban hành các quy định liên quan đến quản lý chất thải rắn công nghiệp, tái sử dụng và tái chế nước thải. Trong giai đoạn sắp tới, Chính phủ Thụy Sĩ sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam thông qua UNIDO trong việc hiện thực hóa các chính sách vào thực tiễn.

Tại hội thảo, các nhà quản lý, chuyên gia, đại diện doanh nghiệp đã trình bày nhiều ý kiến về phát triển cộng sinh công nghiệp, chia sẻ kinh nghiệm chuyển đổi sang KCN sinh thái…

Tổng kinh phí triển khai dự án từ 2020-2024 là hơn 1,8 triệu USD do Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) tài trợ. Dự án có mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội của ngành công nghiệp và lồng ghép quy định để phát triển mô hình KCN sinh thái trong các cơ chế, chính sách có liên quan.

Thực hiện dự án này, Bộ KH-ĐT và UNIDO đã hợp tác để hỗ trợ chuyển đổi các KCN hiện có sang KCN sinh thái với 603 giải pháp sản xuất sạch hơn và hiệu quả tài nguyên. Trong đó, 217 giải pháp đã được 88 doanh nghiệp triển khai, góp phần tiết kiệm 69,2 tỷ đồng/năm tương đương 2,9 triệu USD thông qua việc giảm tiêu thụ năng lượng, tài nguyên và vật liệu, giảm 8.910 tấn CO2/năm.

MAI HOA
https://www.sggp.org.vn/nhan-rong-mo-hinh-khu-cong-nghiep-sinh-thai-tai-viet-nam-post735008.htmla

Than sinh học vẫn thiếu cơ chế chính sách để “xanh hóa” ngành nông nghiệp

Với nguồn nguyên liệu sản xuất đa dạng và dồi dào, than sinh học có ứng dụng rất lớn trong ngành nông nghiệp, cũng như giúp hấp thụ CO2 trong khí quyển góp phần làm giảm phát thải khí nhà kính, song vẫn còn thiếu cơ chế chính sách để thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm này.

Ngày 18/3/2024, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PT NT) đã phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) và Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) tổ chức “Hội thảo Tham vấn báo cáo về rà soát và khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất và sử dụng than sinh học ở Việt Nam”. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của gần 30 đại biểu đến từ các đại diện của các Bộ ngành, đại diện các đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT, các hiệp hội và các doanh nghiệp, chuyên gia trong nước.

 Hội thảo Tham vấn báo cáo về rà soát và khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất và sử dụng than sinh học ở Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội, đã thu hút sự tham gia của gần 30 đại biểu.

Than sinh học: Nguyên liệu rẻ – lợi ích to

Tại hội thảo, ông Vũ Thanh Liêm, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN&PTNT) cho rằng: Than sinh học là sản phẩm thân thiện với môi trường, mang lại lợi ích kinh tế cao khi sử dụng và được ví như “vàng đen” trong ngành nông nghiệp. Đặc biệt, than sinh học còn có khả năng hấp thụ khoảng 50% CO2 trong khí quyển góp phần giảm đáng kể khí phát thải khí nhà kính nói chung và trong nông nghiệp nói riêng.

Vũ Thanh Liêm, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN&PTNT)

Về nguyên liệu sản xuất than sinh học tại Việt Nam hiện rất phong phú và đa dạng, hầu hết các phụ phẩm từ nông nghiệp như vỏ lạc, bã mía, vỏ trấu, vỏ dừa, vỏ ca cao, vỏ sầu riêng… cho đến các phế phẩm khai thác rừng đều có thể sử dụng. Trong khi, trước đây các nguyên liệu này thường bị đốt bỏ gây ô nhiễm môi trường hoặc sử dụng với giá trị rất thấp.

Việc đưa các nguyên liệu này vào sản xuất than sinh học không chỉ quyết được vấn đề về môi trường, mà còn giúp tạo công ăn việc làm cho người lao động nông thôn. Quan trọng hơn, than sinh học còn là nguồn phân bón hữu cơ giúp cải tạo đất và nâng cao năng suất cây trồng bền vững có thể thay thế cho phân bón hóa học.

Bà Lê Thanh Thảo, Giám đốc Đại diện quốc gia của Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) tại Việt Nam cũng cho biết: Trong năm 2022, UNIDO đã phối hợp với Bộ NN&PTNT, VNCPC tổ chức 02 hội thảo giới thiệu về than sinh học và những lợi ích của than sinh học trong việc bảo vệ tài nguyên đất đai, môi trường sống và sức khỏe của con người, góp phần vào sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Bà Lê Thanh Thảo, Giám đốc Đại diện quốc gia của Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc tại Việt Nam.

Vẫn còn những rào cản

Theo đánh giá chung của các đại biểu: Lợi ích của than sinh học ngày càng được nhiều người biết đến và nhận được sự quan tâm của các bên liên quan, từ nghiên cứu, sản xuất, thương mại và ứng dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên hiện vẫn thiếu  những quy định về tiêu chuẩn hóa và kiểm soát chất lượng sản phẩm than sinh học, thiếu sự hợp tác cũng như tương tác giữa các bên liên quan và công nghệ nhiệt phân sản xuất than sinh học chưa được công nhận như một công nghệ xanh… để sản phẩm được ứng dụng rộng rãi hơn trong đời sống.

Đại diện Tổ chức UNIDO mong muốn rằng với những kiến thức và kinh nghiệm từ các chuyên gia, sẽ cung cấp các thông tin hữu ích, cập nhật về lĩnh vực than sinh học tại Việt Nam không chỉ về kỹ thuật và còn ở khía cạnh chính sách. Trên cơ sở này, đơn vị tổ chức sẽ cùng tiếp thu và đưa ra các ý kiến góp ý, tham vấn cho “Báo cáo về rà soát và khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất và sử dụng than sinh học ở Việt Nam”.

Bà Đỗ Thị Dịu – Cán bộ VNCPC chia sẻ thông tin về dự án và công nghệ nhiệt phân.

Tạo hội thảo các đại biểu cũng đã đặt ra các câu hỏi để tìm hiểu thêm về ứng dụng của than sinh học, đóng góp thêm thông tin về chính sách, đưa ra các ý kiến đóng góp và đề xuất bổ sung thêm các nghiên cứu cung cấp thêm thông tin phục vụ xây dựng quy định về tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng cho than sinh học. Các bộ ngành và cơ quan xúc tiến thương mại cũng rất quan tâm và đề xuất phát triển các mô hình thí điểm sử dụng công nghệ nhiệt phân tạo ra than sinh học hướng tới các doanh nghiệp nông nghiệp và các hợp tác xã.

Thông qua cuộc họp này Bộ NN&PTNT cùng các bộ ngành, tổ chức UNIDO và các đối tác sẽ phối hợp xây dựng mạng lưới than sinh học gồm các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, nhà sản xuất/kinh doanh, các đơn vị xúc tiến thương mại/tổ chức chứng nhận, người sử dụng… với mục tiêu nâng cao sự tương tác giữa các bên liên quan trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, phát triển thị trường than sinh học, hướng tới xây dựng nên một nền nông nghiệp xanh, sạch, bền vững.

Cũng trong hội thảo này, website biocharvietnam.org là kho thông thông tin trực tuyến về than sinh học tại Việt Nam chính thức được giới thiệu. Trang web được thành lập dưới sự tài trợ tài chính từ Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) thông qua UNIDO để chia sẻ và phổ biến kiến thức, bài học kinh nghiệm và các sáng kiến trong các hoạt động nghiên cứu, sản xuất và thương mại than sinh học trên cả nước.

Ông Lê Viết Hiền – Đại diện đơn vị nhận chuyển giao Hệ thống nhiệt phân quy mô nhỏ tại Việt Nam.

Tại Việt Nam, Công ty TNHH MTV Vina Viết Hiền là đơn vị duy nhất đã nhận chuyển giao công nghệ từ Thuỵ Sỹ và chế tạo thành công Hệ thống nhiệt phân quy mô nhỏ thí điểm cho mô hình HTX. Với sự tài trợ của SECO và hỗ trợ kỹ thuật của UNIDO, công nghệ này có tiềm năng chuyển đổi nhiều loại chất thải nông nghiệp thành năng lượng nhiệt và than sinh học, làm tăng giá trị chất thải hữu cơ và phế phẩm nông nghiệp, đồng thời mang lại cơ hội kinh tế cho nông dân và nhà chế biến nông sản, cho phép cung cấp năng lượng sinh khối tại chỗ và đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe về khí thải.

VNCPC

VNCPC và UNIDO ký gói thầu rà soát, đánh giá chính sách và xây dựng kho thông tin trực tuyến về than sinh học tại Việt Nam

Trong tháng 10/2023, Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) và Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp Quốc (UNIDO) đã ký gói thầu rà soát, đánh giá chính sách, đề xuất khuyến nghị và xây dựng kho thông tin trực tuyến về than sinh học tại Việt Nam. Gói thầu có thời gian triển khai trong 4 tháng kể từ ngày ký.

Cụ thể, VNCPC sẽ rà soát đánh giá các chính sách và chương trình quốc gia liên quan đến sản xuất và sử dụng than sinh học gồm: Xem xét và đánh giá các giải pháp than sinh học hiện có; Các chính sách và khuôn khổ quốc gia đang trong quá trình xây dựng liên quan đến tính bền vững, nông nghiệp, công nghiệp, mục tiêu khí hậu…; Danh sách mạng lưới các bên liên quan, tập trung vào các nhà hoạch định chính sách.

Song song với đó, VNCPC sẽ xây dựng website thông tin về than sinh học và đưa vào lưu trữ trực tuyến các tài liệu gồm: Tài liệu truyền thông về than sinh học bằng tiếng Anh và tiếng Việt (áp phích, tờ rơi, sách điện tử, báo cáo) do UNIDO và các đối tác thực hiện trong các năm qua cùng các dự án và sáng kiến khác về than sinh học đang được triển khai tại Việt Nam.

VNCPC cũng chịu trách nhiệm biên tập nội dung, góp phần xây dựng và duy trì kho lưu trữ. Nền tảng trực tuyến này sẽ cung cấp kiến thức cơ bản và kinh nghiệm thực tế về than sinh học cho các đối tượng quan tâm và kết nối họ thành mạng lưới. Các hoạt động quảng bá về than sinh học cũng sẽ được cập nhật tại website này.

Trong khuôn khổ gói thầu, VNCPC sẽ tổ chức tham vấn với sự tham gia của các bên liên quan nhằm thu thập các ý kiến phản hồi để hoàn thiện Báo cáo rà soát và khuyến nghị chính sách về than sinh học; Giới thiệu tới các bên liên quan về kho lưu trữ thông tin trực tuyến về than sinh học do UNIDO, VNCPC và các đối tác xây dựng.

VNCPC

Mời đăng ký tham gia Khóa đào tạo trực tuyến miễn phí về Khu công nghiệp sinh thái

UNIDO và Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổ chức khóa đào tạo nhằm nâng cao nhận thức về mô hình KCNST, chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm, kiến thức liên quan đến triển khai và thực hiện chính sách về KCNST, xác định và áp dụng các cơ hội sinh thái công nghiệp, v.v. dựa trên nguồn tài liệu hiện có của UNIDO, Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ).

Khóa đào tạo sẽ được giảng dạy theo hình thức trực tuyến bởi các chuyên gia trong nước và quốc tế, bao gồm 06 mô-đun với thời lượng 2 giờ cho từng mô-đun (tổng cộng 12 giờ). Mỗi mô-đun đào tạo được thực hiện hai lần, do đó học viên có thể lựa chọn thời gian phù hợp nhất.

Tài liệu đào tạo bao gồm các chủ đề về KCNST và phương pháp tiếp cận, các công cụ cơ bản cũng như các phương pháp sử dụng Hiệu quả tài nguyên và Sản xuất sạch hơn (RECP) để phổ biến mô hình KCNST phù hợp với cơ chế chính sách cấp quốc gia và địa phương, đồng thời cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về KCNST cho các KCN ở Việt Nam. Chương trình đào tạo bao gồm các chủ đề về KCNST nhằm tăng cường năng lực và đáp ứng nhu cầu của các nhà hoạch định chính sách cũng như các bên cung cấp dịch vụ KCNST, với sự cân đối giữa bài giảng lý thuyết, ví dụ thực tiễn và bài tập tương tác.

Tham gia chương trình đào tạo, học viên có cơ hội được kết nối mạng lưới chuyên gia và chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình xây dựng và cung cấp các dịch vụ về KCNST với chất lượng và giá trị gia tăng cao, đáp ứng nhu cầu của các DN và các tổ chức tại Việt Nam.

Để biết thêm thông tin chi tiết về khóa đào tạo, xin vui lòng xem chi tiết tại (Flyer Policy-makers) hoặc (Flyer Practisioners).

Các ứng viên quan tâm tham dự khóa đào tạo được mời nộp đơn đăng ký tham dự bằng cách truy cập đường liên kết (Call for application for policymakers) và (Call for Application for Practisioners) trước ngày 20 tháng 8 năm 2023.

Theo http://khucongnghiepsinhthai-vietnam.vn/event/39

Hội thảo tham vấn chuyên gia về phòng chống rò rỉ nhựa: Chung tay bảo vệ môi trường

Ngày 28/3, tại Hà Nội, Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) đã phối hợp cùng đối tác tổ chức hội thảo Tham vấn Kỹ thuật và Lấy ý kiến Chuyên gia về Phòng chống rò rỉ nhựa”. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của các đại diện đến từ các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, trường đại học, các viện nghiên cứu và các tổ chức có liên quan.

Khi không có những biện pháp can thiệp phù hợp, nhựa thải hằng năm vào đại dương được dự đoán sẽ tăng gần gấp ba từ mức 11 triệu tấn hiện nay lên 29 triệu tấn vào năm 2040.

Trước thực trạng sản xuất và tiêu thụ nhựa liên tục gia tăng ở cả phạm vị quốc gia và trên toàn cầu, kéo theo đó là tình trạng môi trường đất, nước, không khí ngày càng bị ô nhiễm do rác thải nhựa, dự án “Xây dựng và phổ biến hướng dẫn kỹ thuật về phòng chống rò rỉ nhựa và mảnh nhựa từ các nhà máy và khu vực tái chế phi chính thức trong khối ASEAN” đã ra đời.

Đây là dự án được tài trợ bời Trung tâm Giáo dục Khu vực về chất thải nhựa đại dương (RKC-MPD) thuộc Viện nghiên cứu Kinh tế ASEAN (ERIA). Kể từ khi dự án được triển khai, Trung tâm Tài nguyên Khu vực châu Á và Thái Bình Dương thuộc Viện Công nghệ Châu Á (AIT RRCAP) đã phối hợp với các đối tác để triển khai tại 6 thành phố bao gồm: Manila và Iloilo (Philippines), Viên Chăn (Lào), Pattaya và Nothaburi (Thái Lan) và thủ đô Hà Nội.

Tại Việt Nam, Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) đã được lựa chọn là đối tác của dự án. Thời gian qua, hai bên đã phối hợp triển khai các hoạt động như: Tham vấn các bên liên quan, xây dựng báo cáo đánh giá thực trạng, tham quan trực tiếp tại các cơ sở tái chế nhựa để tìm hiểu về tình trạng rò rỉ nhựa từ các nhà máy tái chế chính thức và phi chính thức tại Hà Nội.

Theo đó, hội thảo “Tham vấn Kỹ thuật và Lấy ý kiến Chuyên gia về Phòng chống rò rỉ nhựa” được tổ chức có mục đích tham vấn kỹ thuật và lấy ý kiến chuyên gia và các bên liên quan cho hai bản dự thảo được xây dựng trong khuôn khổ dự án, bao gồm: 1) Báo cáo đánh giá thực trạng rò rỉ nhựa tại thành phố Hà Nội và 2) Hướng dẫn kỹ thuật về phòng chống rò rỉ nhựa và mảnh nhựa từ các nhà máy và khu vực tái chế không chính thức trong khối ASEAN.

Tại hội thảo các địa biểu đã đồng tình về những hạn chế, bất cập về các quy định trong phòng chống rác thải nhựa tại Việt Nam. Không chỉ có vậy, quá trình thu gom nhựa đã qua sử dụng còn có nhiều khó khăn do người dân chưa có ý thức cao trong việc phân loại tại nguồn cũng như thói quen sử dụng túi nylon và sản phẩm nhựa dùng một lần đang rất phổ biến. Các cơ sở tái chế phi chính thức vẫn trong tình trạng manh mún, công nghệ lạc hậu, chưa đáp ứng được với nhu cầu.

Do đó, theo ông Phạm Hồng Hiệp Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công Thương – Bộ Công Thương cho rằng các hướng dẫn kỹ thuật đối với các cơ sở tái chế phi chính thức cần dựa trên thực tế, chi phí đầu tư phù hợp để dễ triển khai bên cạnh các hướng dẫn mang tính khuyến khích.

Cũng trong khuôn khổ hội thảo, các đại biểu đã có chuyến đi khảo sát thực tế tại làng tái chế nhựa Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội).

Một số hình ảnh về hội thảo:

Và chuyến khảo sát thực tế tại làng tái chế nhựa Triều Khúc:

VNCPC