Siêu enzym “ăn nhựa” – Bước tiến vượt bậc trong khủng hoảng ô nhiễm rác thải nhựa

Các nhà khoa học hy vọng rằng với siêu enzym “ăn nhựa” có thể là bước tiến quan trọng trong việc tìm kiếm các giải pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng ô nhiễm.

Rác thải nhựa đã làm ô nhiễm toàn bộ hành tinh, từ Bắc Cực đến các đại dương sâu nhất và con người hiện đang phải tiêu thụ, hít thở các hạt vi nhựa. Hiện tại, rất khó phân hủy chai nhựa cũ thành các thành phần hóa học để tái chế chai nhựa mới, vì thế mỗi năm sẽ có thêm nhiều sản phẩm nhựa mới được tạo ra từ dầu mỏ.

Các nhà khoa học đã tạo ra một loại siêu vi khuẩn enzyme phân hủy chai nhựa nhanh hơn sáu lần so với nghiên cứu trước đây được công bố vào năm 2018. Cả hai nghiên cứu này đều dựa trên phát hiện lần đầu tiên tại Nhật Bản về enzyme ăn nhựa cách đây bốn năm.


Siêu enzyme bao gồm enzyme MHETase và PETase (tương ứng màu đỏ và xanh lam). Ảnh: Aaron McGeehan.

Protein tăng cường được tạo thành từ hai loại enzyme sản xuất bởi một loại vi khuẩn ăn chai nhựa, được gọi là Ideonella sakaiensis.

Giáo sư John McGeehan, Giám đốc Trung tâm Đổi mới Enzyme (CEI), Đại học Portsmouth (Anh) cho biết: “Không giống như tiêu hủy tự nhiên có thể mất hàng trăm năm, siêu vi khuẩn enzyme có thể chuyển nhựa trở lại vật liệu ban đầu của nó hoặc khối xây dựng chỉ trong vài ngày”.

Ông chia sẻ với hãng thông tấn PA: “Hiện tại, chúng tôi lấy những khối xây dựng đó từ các nguồn tài nguyên hóa thạch như dầu và khí đốt. Tuy chúng thực sự không bền vững nhưng nếu chúng ta có thể thêm enzym vào nhựa phế thải, chúng ta có thể bắt đầu phân hủy nó sau vài ngày”.

Quá trình này cũng cho phép nhựa được sản xuất và tái sử dụng vô tận, giảm sự phụ thuộc vào tài nguyên hóa thạch.

Vào năm 2018, Giáo sư McGeehan và nhóm của ông tình cờ phát hiện ra rằng một phiên bản được thiết kế của một trong những enzym, được gọi là PETase, có thể phân hủy nhựa trong vài ngày.

Là một phần của nghiên cứu hiện tại, được công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences, nhóm nghiên cứu đã trộn PETase với enzym thứ hai, được gọi là MHETase và phát hiện ra “sự phân hủy của các chai nhựa tăng gấp đôi theo nghĩa đen”.

Sau đó, các nhà nghiên cứu đã kết nối hai enzyme với nhau trong phòng thí nghiệm, giống như “hai Pac-man nối với nhau bằng một đoạn dây”, sử dụng kỹ thuật di truyền.

Giáo sư McGeehan, một trong những tác giả của nghiên cứu nói rằng, điều này cho phép tạo ra một siêu enzyme nhanh hơn sáu lần so với enzyme PETase ban đầu – Đây là bước nhảy vọt đáng kể vì nhựa đang nằm dưới đại dương của chúng ta ngày nay sẽ mất hàng trăm năm để phân hủy tự nhiên.

Hà My
http://vietq.vn/sieu-enzym-an-nhua—buoc-tien-vuot-bac-trong-khung-hoang-o-nhiem-s30-d179016.html

Xăng sinh học E5: Người tiêu dùng hiểu sao cho đúng?

Bán ra thị trường vào năm 2018 với mục đích thay thế xăng A92, xăng E5 hiện nay đang có tỷ trọng tiêu thụ ngày càng giảm do chênh lệch giá bán giữa xăng A95 và xăng E5 không lớn, trong khi người tiêu dùng lại chưa thực sự hiểu đúng về sản phẩm này.

Theo Saigon Petro, tỷ trọng tiêu thụ xăng E5 đã ngày càng giảm, từ 30,06% (2018) giảm còn 22,65% (2019), và bảy tháng đầu năm 2020 chỉ còn 16,95%.

Vậy xăng A92 và A95 (xăng khoáng thông thường, gọi tắt là xăng thường) so với E5, E10 (xăng sinh học) có gì khiến người tiêu dùng vẫn còn mặn mà đến vậy?


Dù nhiều ưu điểm nhưng xăng sinh học E5 vẫn chật vật tìm chỗ đứng trên thị trường.

Trước hết, 92 hay 95 là trị số Octan trong xăng, được dùng để đánh giá tính chống kích nổ của xăng. Sử dụng xăng trị số Octan cao không hề giúp động cơ khỏe hay tiết kiệm xăng hơn mà chỉ đơn giản là phù hợp với tỷ số nén của động cơ. Thông thường, xe số sẽ sử dụng xăng A92 còn xe ga sẽ đổ xăng A95.

Còn xăng sinh học là hỗn hợp của xăng truyền thống và cồn sinh học (bioethanol) được sử dụng cho các loại động cơ xăng đốt trong như xe ô tô và xe gắn máy. Theo kết quả nghiên cứu, việc sử dụng xăng sinh học giúp giảm phát thải khí nhà kính (carbon monoxide) khoảng 20-30% so với xăng thông thường, việc sản xuất ethanol dùng trong xăng sinh học cũng rất thân thiện với môi trường.

Việt Nam hiện nay chủ yếu sản xuất ethanol thu mua từ nguồn sắn lát của người nông dân. Sau đó, các nhà máy ethanol sẽ sản xuất ra xăng sinh học bằng cách pha trộn bằng máy móc giữa ethanol với xăng khoáng thông thường theo tỷ lệ 5% (E5), 10% (E10) hay lên tới 85% (E85).

Trên thế giới, hơn 50 nước đã sử dụng xăng sinh học, dẫn đầu là Mỹ từ năm 2012 (trên 90% ethanol nhiên liệu được pha xăng E10) và Brazil từ năm 2003 (bắt buộc sử dụng E22 đến E25), Úc từ năm 2008 (E10), Đức từ năm 2010 (E5, E10), Thái Lan bắt buộc sử dụng E5, E10 và đã giới thiệu E85 từ năm 2008…

Việc sử dụng xăng sinh học ngoài mục đích bảo vệ môi trường còn giúp giảm tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, trong bối cảnh dầu mỏ có nguy cơ cạn kiệt vì khai thác mạnh trong vòng 10 năm qua.

Hiện tại với xăng E5 thì việc sử dụng xen kẽ xăng sinh học và xăng thường không có ảnh hưởng gì đến động cơ, theo PGS.TS. Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Cơ khí Động lực, Trưởng phòng thí nghiệm Động cơ đốt trong, trường ĐH Bách khoa Hà Nội.

Dù vậy, xăng E5 vẫn gây hại cho động cơ xe máy có tuổi đời cao, linh kiện bên trong đã cũ hoặc kém chất lượng. Với các dòng xe sản xuất từ năm 1993 trở lại đây thì tính axit của xăng E5 không có ảnh hưởng gì đến động cơ.

Ngoài ra, một nhược điểm chính của xăng sinh học là tính ngậm nước, do đó quá trình từ lúc nhập xăng đến đổ xăng E5 phải hết sức cẩn trọng với nước. Tương tự, nếu xe không được dùng trong vòng 3 tháng gần nhất trước khi đổ thì không nên dùng E5 ngay do thời tiết nóng ẩm ở Việt Nam dễ làm tích tụ nước trong bình xăng.

Khó khăn chính trong tiêu thụ E5 trên thị trường hiện nay là các nhà sản xuất phải đầu tư dây chuyền nhà máy hiện đại trong khi đầu ra chưa hấp dẫn người tiêu dùng như đã nói ở trên. Dẫn đến hệ quả là cả nước có 7 nhà máy nhưng chỉ hoạt động cầm chừng cũng đã đủ đáp ứng nhu cầu thị trường.

Đến nay, Chính phủ đã ban hành văn bản với các quy chuẩn cho việc phân phối xăng sinh học E10 tại các cửa hàng xăng dầu, tiến tới sử dụng trong các phương tiện cơ giới đường bộ. Trên thế giới, loại xăng phổ biến được dùng là E10, có nước đã thử nghiệm E85 dù vẫn còn rất hạn chế do cần động cơ chuẩn FFV để vận hành.

Sử dụng nhiên liệu thay thế không chỉ là xu hướng thế giới, nó còn giúp bảo vệ môi trường, tạo dư địa cho phát triển nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính. Qua đó cụ thể hóa chủ trương của Chính phủ trong việc giảm 5% lượng tiêu thụ xăng trong giao thông vận tải so với dự báo nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu của ngành đến năm 2030.

Theo bà Ngô Thị Ngọc Hà, Phó viện trưởng Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam hiện có gần 2.000 tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực xăng dầu, trong đó tiêu chuẩn ISO có 636 tiêu chuẩn, tiêu chuẩn ASTM có 821 tiêu chuẩn và tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) hiện có 325 tiêu chuẩn với mức hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế đạt 55%.

GS. TS Đinh Thị Ngọ, Giảng viên cao cấp trường Đại học Bách khoa Hà Nội – Trưởng Ban kỹ thuật TCVN/28 – sản phẩm dầu mỏ và chất bôi trơn cho biết, đến nay Việt Nam đã xây dựng được tiêu chuẩn cho nhiên liệu sinh học E5 và xăng E10, cũng như nhiên liệu Đi-ê-zen đã có B5 và chuẩn bị có B10. “Đây là những tiêu chuẩn tiên tiến phù hợp với các nước trên thế giới. Các sản phẩm đạt các tiêu chuẩn này đảm bảo sạch và không ô nhiễm môi trường, đồng thời đáp ứng được tiêu chuẩn ít nhất là Euro 4 trở lên”, bà Ngọ cho biết.

Thanh Hà
http://vietq.vn/xang-e5-nguoi-tieu-dung-hieu-sao-cho-dung-d178924.html

IEA kêu gọi đẩy mạnh việc triển khai công nghệ thu hồi carbon

IEA cho biết để đạt được mục tiêu này, lượng CO2 thu hồi phải tăng từ mức 40 triệu tấn hiện nay lên tới 800 triệu tấn vào năm 2030.

Ngày 24/9, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã nêu bật tầm quan trọng của việc đẩy mạnh triển khai công nghệ thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS) trên toàn cầu, nếu như các nước muốn đạt được mục tiêu về trung hòa khí thải, nhằm làm chậm lại quá trình biến đổi khí hậu.

Nguồn: powerengineeringint

Ngày càng nhiều quốc gia và công ty đang đặt mục tiêu về trung hòa khí CO2 vào giữa thế kỷ này sau khi ký kết Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2015.

IEA cho biết để đạt được mục tiêu này, lượng CO2 thu hồi phải tăng từ mức 40 triệu tấn hiện nay lên tới 800 triệu tấn vào năm 2030. Điều này đòi hỏi số tiền đầu tư lên đến 160 tỷ USD cho công nghệ CCUS vào năm 2030, gấp 10 lần so với thập kỷ trước đó.

Giám đốc IEA Fatih Birol nhấn mạnh nếu không có công nghệ này, việc đạt được các mục tiêu về năng lượng và khí hậu sẽ gần như là bất khả thi.

IEA nhận định suy thoái kinh tế do đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 có nguy cơ dẫn đến tình trạng trì hoãn hoặc hủy bỏ các dự án vốn phụ thuộc vào hỗ trợ công. Giá dầu giảm cũng làm giảm bớt thu nhập cho các cơ sở CCUS chuyên bán CO2 để phục vụ việc khai thác dầu mỏ.

Thông qua công nghệ Tăng khả năng thu hồi dầu (EOR), CO2 sẽ được bơm vào giếng dầu để làm cho dầu dễ chảy hơn và tăng tỷ lệ khai thác.

IEA nhấn mạnh các gói phục hồi kinh tế là cơ hội để các chính phủ hỗ trợ CCUS bên cạnh các công nghệ năng lượng sạch khác.

Về khoản đầu tư lớn nhằm xây dựng hai nhà máy thu hồi carbon và cơ sở lưu trữ CO2 ngoài khơi, ông Birol cho biết Na Uy đã thể hiện được vai trò lãnh đạo tại châu Âu khi đưa ra cam kết tài chính lớn cho dự án Longship.

Tuy nhiên, CCUS vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn do thiếu động lực thương mại, chi phí lớn và việc người dân phản đối lưu trữ CO2, đặc biệt là ở ngoài khơi.

Trong năm 2009, IEA đã kêu gọi xây dựng 100 dự án CCUS quy mô lớn vào năm 2020 để lưu trữ khoảng 300 triệu tấn CO2/năm. Cho đến nay, chỉ có 20 dự án thương mại đang hoạt động với công suất khoảng 40 triệu tấn/năm./.

Đặng Ánh (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/iea-keu-goi-day-manh-viec-trien-khai-cong-nghe-thu-hoi-carbon/665756.vnp

Airbus tiết lộ 3 mẫu máy bay chạy bằng hydro

Ngày 21/9, Airbus đã tiết lộ 3 mẫu máy bay chạy bằng khí hydro và đặt mục tiêu đưa một chiếc vào khai thác thương mại vào năm 2035.

Bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng Covid-19 và là đối tượng chính của phong trào “flygskam” (xấu hổ khi bay) vì lượng khí thải CO2 chiếm từ 2 – 3% lượng khí thải toàn cầu, ngành hàng không thế giới đang nỗ lực để tiến tới quá trình khử cacbon trong vận tải hàng không.

Chủ tịch điều hành Airbus Faury Guillaume cho biết: “Đây là một thời khắc lịch sử đối với toàn bộ lĩnh vực hàng không thương mại và chúng tôi dự định sẽ đóng vai trò dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi quan trọng nhất mà ngành của chúng tôi từng biết đến”. Đối với Bộ trưởng Giao thông vận tải Pháp Jean-Baptiste Djebbari: “Đây là phản ứng tốt nhất đối với những hoạt động phản đối ngành hàng không đã được quan sát trong vài tháng qua”.

Nhà sản xuất máy bay Airbus đang nghiên cứu 3 mẫu thiết bị, tất cả đều chạy bằng hydro và được chỉ định dưới tên mã “ZEROe” (không phát thải). Động cơ hydro không gây ô nhiễm vì nó chỉ tạo ra hơi nước. Nhưng để làm được điều này yêu cầu bản thân hydro là “sạch”, nghĩa là được sản xuất bằng cách điện phân nước sử dụng điện từ các nguồn năng lượng tái tạo hoặc ít phát thải carbon.

Mô hình đầu tiên là động cơ phản lực có hình dáng cổ điển nhưng hơi dài. Chở từ 120 – 200 hành khách, hoặc tương đương với A220 hoặc A320 và phạm vi hoạt động trên 3.500 km, mẫu máy bay này sẽ được lắp một tuabin khí chạy bằng hydro, được chứa trong các bồn chứa đặt ở phần sau của thân máy bay.

“Trái tim của các động cơ máy bay là một tuabin khí, trong đó kerosen được đốt cháy”, Tổng giám đốc Hàng không Dân dụng Pháp (DGAC) Patrick Gandil giải thích. “Đốt cháy hydro trong turbin khí sẽ chỉ cần chỉnh sửa đôi chút. Thiết bị này cũng sẽ được trang bị một pin nhiên liệu, tự cung cấp năng lượng bằng hydro, sẽ cung cấp năng lượng (điện) bổ sung cho động cơ khi cần thiết”, Jean-Brice Dumont, giám đốc kỹ thuật của Airbus, cho biết.

Mẫu thứ hai là một máy bay động cơ phản lực cánh quạt có khả năng chở tới 100 hành khách với tầm bay trên 1.800 km.

Mẫu thứ ba là một máy bay có công suất và tầm hoạt động tương tự như mẫu về động cơ phản lực.

“Thân máy bay đặc biệt rộng cung cấp nhiều khả năng lưu trữ và phân phối hydro, cũng như bố trí cabin”, Airbus giải thích.

Khó khăn của hydro nằm ở việc bảo quản và vận chuyển nó trên máy bay, Grazia Vittadini, giám đốc công nghệ của Airbus, cho biết.

Patrick Gandil giải thích rằng bể chứa hydro đông lạnh phải có hình trụ hoặc hình cầu để chịu được áp lực, vì vậy “chúng ta không thể lắp chúng ở mọi nơi trong cánh như hiện nay”. Điều này mở đường cho nhiều thay đổi có thể xảy ra trong hình dạng của máy bay.

Airbus, nhà sản xuất động cơ Safran, liên doanh Arianegroup và Onera, kể từ đầu năm nay đã cùng nghiên cứu về việc sử dụng hydro cho hàng không. Theo Guillaume Faury, việc lựa chọn và hoàn thiện công nghệ sẽ mất 5 năm và sau đó là 2 năm đối với các nhà cung cấp. “Vì vậy, chương trình sẽ được thực hiện vào khoảng năm 2028. Tham vọng của chúng tôi là trở thành nhà sản xuất máy bay đầu tiên đưa một thiết bị như vậy vào hoạt động vào năm 2035”. Theo ông, sẽ cần phải dành cho chương trình này “vài chục tỷ euro”.

Lịch trình này tương ứng với mục tiêu một “máy bay không phát thải carbon”, được chính phủ Pháp đặt ra vào đầu tháng 6, đã có kế hoạch dành 1,5 tỷ euro cho nó vào năm 2022 như một phần trong kế hoạch hỗ trợ cho lĩnh vực hàng không. Các quốc gia đã coi hydro là một trục phát triển chính: Đức có kế hoạch chi 9 tỷ euro để phát triển các ứng dụng hydro, Pháp 7 tỷ euro.

Nh.Thạch theo AFP
https://petrotimes.vn/airbus-tiet-lo-3-mau-may-bay-chay-bang-hydro-579035.html

Việt Nam có nên gia hạn biểu giá điện gió?

Hiệp hội Điện gió toàn cầu vừa gửi đề xuất tới Chính phủ – Bộ Công Thương Việt Nam đề nghị gia hạn biểu giá điện gió.

Liên minh của ngành công nghiệp điện gió thế giới đứng đầu là Hiệp hội Điện gió toàn cầu (GWEC) đã chính thức đề nghị Chính phủ Việt Nam khẩn trương gia hạn Biểu giá FiT áp dụng cho điện gió.


Điện gió ngoài khơi là tiềm năng lớn phát triển nền kinh tế xanh của Việt Nam.

Theo đó, GWEC phân tích ngành điện gió của Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng giảm đà đầu tư trong năm 2020 do sự không chắc chắn xung quanh khuôn khổ đầu tư, trong đó sự chậm trễ gia hạn biểu giá FiT sẽ cản trở sự phát triển của chuỗi cung ứng và gây trở ngại cho việc giảm chi phí tại thị trường điện gió mới hình thành này. Và kết quả là sẽ đẩy lùi mục tiêu của Việt Nam về một tương lai có được nguồn điện sạch, đáng tin cậy và giá cả phải chăng.

Việt Nam là thị trường điện gió phát triển nhanh nhất trong khu vực, với công suất khoảng 500 MW trên bờ và ngoài khơi đang được lắp đặt và ít nhất 4 GW dự kiến sẽ được đưa vào vận hành vào năm 2025. Tuy nhiên, sự quan tâm của các nhà đầu tư đến phát triển dự án điện gió ở Việt Nam đã chậm lại đáng kể trong năm 2020, vì các dự án điện gió trên bờ thường yêu cầu 2 năm để phát triển trong khi đó biểu giá điện FiT hiện tại chỉ áp dụng cho các dự án hoàn thành trước tháng 11/2021.

Do chưa có sự rõ ràng về kế hoạch giá FiT từ năm 2022 trở đi nên các nhà đầu tư phải đối mặt với quá nhiều bất trắc khi cam kết đầu tư cho các dự án điện gió mới, điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới lưới điện trong tương lai và dẫn tới cắt giảm việc làm.

Ông Ben Backwell, Giám đốc điều hành của GWEC nhận định: “Việt Nam đã được công nhận rộng rãi là quốc gia dẫn đầu khu vực về năng lượng sạch ở Đông Nam Á và thu hút cam kết đầu tư từ một số doanh nghiệp đẳng cấp thế giới trong lĩnh vực này. Chính phủ Việt Nam cần tránh làm chậm lại các khoản đầu tư thực sự cần thiết cho ngành này bằng cách gia hạn thời gian áp dụng biểu giá FiT, từ đó đảm bảo các khoản đầu tư dài hạn được thực hiện, tạo ra hàng chục nghìn việc làm có tay nghề cao và cung cấp năng lượng sạch, cạnh tranh cho nền kinh tế Việt Nam”.

Văn phòng Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương đã công nhận tiềm năng to lớn của năng lượng gió trong việc sản xuất điện sạch và tăng trưởng xanh. Vào tháng 6 năm nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt bổ sung thêm gần 7 GW từ các dự án điện gió mới vào quy hoạch tổng thể ngành điện của Việt Nam điều chỉnh (PDP 7 Điều chỉnh). Tuy nhiên, thực tế là phần lớn trong số gần 7 GW này có thể không đạt được do không chắc chắn về việc gia hạn biểu giá FiT.

Ông Mark Hutchinson, Chủ tịch Nhóm công tác khu vực Đông Nam Á của GWEC cho rằng: “Việt Nam đang trên đà đạt được lợi thế về quy mô và giảm chi phí trong ngành điện gió và đà này cần được duy trì nếu muốn tránh chu kỳ phát triển bùng nổ và suy thoái. Do quy định về khuôn khổ thời gian thực hiện dự án nên chậm trễ trong gia hạn biểu giá FIT dẫn tới nguy cơ xảy ra giai đoạn “suy thoái” của ngành, khi đó rất ít dự án được kết nối với lưới điện trong giai đoạn 2022-2023. Về lâu dài, điều này sẽ gây ảnh hưởng xấu tới nỗ lực giảm chi phí nhờ phát triển chuỗi cung ứng nhất quán, quy mô lớn và kết quả là Việt Nam sẽ có ít năng lượng tái tạo hơn với giá thành cao hơn”.


Giá điện có ảnh hưởng đến toàn dân nên cần xem xét cẩn trọng đến mọi yếu tố.

Thực tế, có ít nhất 1,65 GW từ các dự án điện gió được dự báo sẽ được lắp đặt trước khi giá FiT hiện tại hết hạn vào tháng 11/2021. Năng lượng gió là nguồn năng lượng sạch, sẵn có, đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường an ninh năng lượng của Việt Nam và đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng. Hơn nữa, lĩnh vực năng lượng tái tạo đang phát triển này có thể tạo ra hàng tỷ đô la vốn đầu tư và hàng trăm nghìn việc làm trong dài hạn.

Liên minh Công nghiệp điện gió thế giới cho rằng Chính phủ Việt Nam đang xem xét việc gia hạn giá FiT hiện hành và đưa ra một biểu giá FiT mới phù hợp để giải quyết tình trạng khó khăn, sự quan tâm của các nhà đầu tư bị trì hoãn trong năm 2020 cộng thêm với sự gián đoạn do đại dịch Covid-19.

Do tắc nghẽn trong chuỗi cung ứng điện gió toàn cầu và tỷ lệ CAPEX (chi phí vốn) kém thuận lợi tại các khu vực dành cho các dự án điện gió mới, đặc biệt là xung quanh Đồng bằng sông Cửu Long. Do đó bài toán về đầu tư cho các dự án điện gió ở Việt Nam sẽ chịu thách thức đáng kể nếu không có một kế hoạch về biểu giá FiT minh bạch và thỏa đáng được công bố trong thời gian sớm nhất.

Cho đến nay, thị trường điện gió ở Việt Nam đã được hưởng lợi từ dòng vốn trong nước và nước ngoài ngày càng lớn. 4 GW dự kiến được lắp đặt vào năm 2025 có thể mang lại tới 65.000 việc làm và khoảng 4 tỷ USD vốn đầu tư. Để hiện thực hóa tiềm năng này, Chính phủ – Bộ Công Thương cần hành động ngay để gia hạn thời gian áp dụng giá FiT cho điện gió, tránh tình trạng chậm trễ kéo dài trong đầu tư và lắp đặt năng lượng sạch trong những năm tới. Nhưng ngược lại cũng cần phải tính toán lộ trình giá điện thương phẩm tương ứng trong vòng 5 năm tới để tránh những ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế vĩ mô cũng như sinh hoạt của người dân.

Ngành công nghiệp điện gió dự kiến sẽ mang lại 65.000 việc làm và khoảng 4 tỷ đô la Mỹ đầu tư vào Việt Nam từ nay tới năm 2025, nhờ đó giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu và cải thiện nền kinh tế năng lượng.

Tùng Dương
https://petrotimes.vn/viet-nam-co-nen-gia-han-bieu-gia-dien-gio-579075.html

Cần có cơ sở pháp lý mở đường cho ngành xử lý pin mặt trời hết hạn

Chuyên gia năng lượng Trần Đình Sính cho biết, các tấm pin năng lượng mặt trời hoàn toàn có thể tái chế sau khi hết hạn nhưng cơ quan chức năng cần có cơ sở pháp lý rõ ràng mở đường cho nền công nghiệp tái chế loại pin này.

Theo Quyết định số 2068/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050, điện năng sản xuất từ điện mặt trời đến các năm 2030 và 2050 sẽ lần lượt là 35,4 tỷ kWh và 210 tỷ kWh. Với cường độ năng lượng mặt trời ở Việt Nam, để có được các sản lượng điện mặt trời nói trên thì công suất lắp đặt điện mặt trời đến các năm 2030 và 2050 lần lượt vào khoảng 29.000 MWp và 170.000 MWp.

Bên cạnh đó, kể từ khi Chính phủ ban hành Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg, ngày 6/4/2020 khuyến khích phát triển điện mặt trời, Việt Nam chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của loại hình năng lượng này.

Số liệu vừa được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) công bố cho thấy, trong 8 tháng đầu năm 2020, trên toàn quốc đã lắp đặt 25.706 dự án điện mặt trời mái nhà với tổng công suất 758,2 MWp. Lũy kế đến nay, đã có gần 50.000 dự án điện mặt trời mái nhà đã đưa vào vận hành với tổng công suất gần 1.200 MWp.

Trung bình một nguồn điện mặt trời công suất 1 MWp sẽ thải ra gần 70 tấn phế thải sau khoảng 20 – 25 năm kể từ ngày bắt đầu phát điện. Như vậy theo dự báo, lượng pin mặt trời phế thải đến năm 2030 và đến năm 2050 lần lượt là khoảng 2 triệu tấn và 12 triệu tấn. Nếu không được quản lý, thu gom, tái chế, chắc chắn với số lượng lớn như vậy của phế thải pin mặt trời sẽ gây ô nhiễm môi trường hết sức trầm trọng và lãng phí rất lớn tài nguyên thiên nhiên.


Hệ thống điện năng lượng mặt trời.

Trao đổi với PV, chuyên gia năng lượng Trần Đình Sính cho biết, trên thế giới đã có công nghệ xử lý pin mặt trời, nhà máy xử lý tấm pin mặt trời đầu tiên ở châu Âu là nhà máy của Tập đoàn xử lý chất thải Veolia đặt ở miền Nam nước Pháp năm 2018. Năm 2018 nhà máy này xử lý khoảng 1.300 tấn và dự kiến xử lý 4.000 tấn cho đến năm 2022.

“Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, giá xử lý 1 tấn tấm pin khoảng 200 euro. Tại Việt Nam cho đến nay chưa có nhà máy nào xử lý tấm pin mặt trời. Nguyên nhân là Việt Nam chưa có chính sách về xử lý pin mặt trời và số lượng tấm pin hết hạn sử dụng chưa nhiều”, ông Sính cho biết.

Theo vị chuyên gia này, điện mặt trời đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam và khoảng 20 – 25 năm nữa số lượng pin hết hạn sử dụng khá lớn. Tuy nhiên, chưa có chủ đầu tư điện mặt trời nào phải đóng phí để xử lý tấm pin khi hết hạn sử dụng.

“Để khỏi bị động trong việc xử lý pin mặt trời, các cơ quan chức năng cần đưa ra một chính sách rõ ràng nhằm có cơ sở pháp lý và chi phí cho vấn đề xử lý tấm pin khi hết hạn sử dụng”, ông Sính nói.

Nói về việc xử lý các tấm pin hết hạn, chuyên gia Trần Đình Sính khẳng định, các tấm pin năng lượng mặt trời sau khi hết hạn sử dụng hoàn toàn có thể tái chế được và thực tế ở một số nước đang được tái chế.


Chuyên gia năng lượng Trần Đình Sính.

Cũng theo ông Sính, pin mặt trời có 3 loại: mono, poly và loại màng mỏng. Hai loại mono và poly không chứa chất độc. Chỉ trong phần tế bào quang điện của loại màng mỏng chứa một số chất như indium, gallium, selen nium với tỷ lệ 0,2%. Hiện nay các tấm pin mặt trời lắp đặt ở Việt Nam là hai loại mono và poly, không có loại màng mỏng. Trên thế giới cũng chủ yếu sản xuất hai loại mono và poly vì loại màng mỏng gây ô nhiễm trong khi sản xuất và khó xử lý sau khi hết hạn sử dụng nên người dùng ít sử dụng. Tỷ lệ tấm pin màng mỏng trên thế giới khoảng 4%.

Đối với hai loại pin mono và poly, tỷ lệ vật liệu như sau: đồng 1% (dây nối), silicon 5% (tế bào quang điện), nhôm 8% (khung), nhựa 10% (bao bọc), thủy tinh 76% (kính cường lực bảo vệ bề mặt)

Đối với pin màng mỏng tỷ lệ vật liệu gồm: thủy tinh khoảng 89%, nhôm 7%, nhựa khoảng 4%, indium, gallium, selenium, kẽm và các kim loại khác khoảng 0,2%.

“Tấm pin mặt trời sau khi sử dụng có gây ô nhiễm môi trường hay không tùy vào loại tế bào quang điện và hoàn toàn có thể tái chế được chứ không đến nỗi trở thành nguồn rác thải nguy hại vô cùng lớn như đồn thổi”, chuyên gia năng lượng Trần Đình Sính nói.

Xuân Hinh
https://petrotimes.vn/can-co-co-so-phap-ly-mo-duong-cho-nganh-xu-ly-pin-mat-troi-het-han-578213.html