Bà Rịa – Vũng Tàu: Lồng ghép hoạt động SXSH và xử lý nước thải vào chương trình năng suất chất lượng

Sản xuất sạch hơn và giảm thiểu ô nhiễm môi trường là một trong những nội dung của Chương trình Khoa học – công nghệ Hỗ trợ doanh nghiệp (KHCN hỗ trợ DN) nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa của tỉnh BR-VT giai đoạn 2014 -2020. Sở KH-CN luôn ưu tiên các đề án liên quan nội dung này.

Mới đây, UBND tỉnh đã xét duyệt đề án Xây dựng hệ thống xử lý nước thải công suất 500m3/ngày-đêm tại Xí nghiệp chế biến hải sản – Công ty CP Thủy sản và xuất nhập khẩu Côn Đảo (Coimex)”, với mức hỗ trợ là 400 triệu đồng. Đề án này thuộc Chương trình KHCN hỗ trợ DN nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa của tỉnh BR-VT năm 2015. Bà Trần Thị Hồng Châm, Giám đốc nhân sự và quản lý môi trường Công ty CP Coimex cho biết, việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải 500m3/ngày-đêm với tổng kinh phí hơn 10 tỷ đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo nước thải trong quá trình sản xuất được gom xử lý đạt tiêu chuẩn. Công trình đòi hỏi vốn lớn, do đó, Chương trình KHCN hỗ trợ DN có ý nghĩa rất thiết thực với DN trong thời kỳ khó khăn như hiện nay.

Tương tự, UBND tỉnh cũng hỗ trợ 170,648 triệu đồng cho đề án “Xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt công suất 100m3/ngày – đêm” tại khách sạn GOLF Phú Mỹ, của công ty CP Xây dựng và Phát triển Đô thị tỉnh BR-VT (phường 8, TP. Vũng Tàu). Hệ thống xử lý nước thải này giúp giải quyết nguồn nước thải của khách sạn theo tiêu chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN 14:2008.

Ngoài ra, UBND tỉnh cũng đồng ý hỗ trợ 165 triệu đồng cho đề án “Xây dựng hệ thống nước thải công suất 70 m3/ngày – đêm tại DN tư nhân Bình Thanh (xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền). DN này hoạt động trong lĩnh vực chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản. Sau khi xây dựng thành công hệ thống xử lý nước thải với công suất 70m3/ngày – đêm, toàn bộ lượng nước thải được phát sinh đều được xử lý đạt Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về môi trường QCVN 11:2008/BTNMT.

Theo báo cáo của Sở KH-CN, đến thời điểm này, Chương trình KH-CN HTDN nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa giai đoạn 2014-2020 đã hỗ trợ kinh phí cho 92 DN. Cụ thể, năm 2014 có 81 DN nộp đơn tham gia, đã xét hỗ trợ 49 DN với tổng kinh phí hơn 4,2 tỷ đồng; 10 tháng năm 2015 có 43 DN được hỗ trợ thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, xử lý ô nhiễm môi trường, xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến… với tổng kinh phí hỗ trợ khoảng 4,26 tỷ đồng. Bên cạnh đó, nhằm tạo điều kiện cho DN, hợp tác xã (HTX) vay vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, đầu tư hệ thống xử lý nước thải, khí thải, từ đầu năm đến nay, Quỹ Bảo vệ môi trường tỉnh cũng cho vay 6 dự án của DN hoạt động trong các lĩnh vực chế biến cao su, chế biến hải sản, du lịch… đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải, với tổng số tiền 8,3 tỷ đồng. Quỹ Hỗ trợ kinh tế tập thể cho 5 HTX vay vốn sản xuất kinh doanh với tổng số tiền vay khoảng 2,95 tỷ đồng; có 21 HTX còn dư nợ với tổng số tiền 7,2 tỷ đồng.

Theo sxsh.vn

Ngành công nghiệp sản xuất xi măng trở nên xanh hơn

Biến đổi khí hậu và đô thị hóa là hai trong số những ảnh hưởng quan trọng nhất định hình thế giới, đồng thời có ý nghĩa sâu sắc đối với các ngành công nghiệp xi măng. Những công nghệ mới hiện nay hứa hẹn sẽ đáp ứng mục tiêu giảm lượng carbon trong ngành công nghiệp này.

Xi măng là thành phần quan trọng của bê tông, vật liệu xây dựng được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới, nhưng nó cũng là sản phẩm của một quá trình tốn nhiều năng lượng, đồng thời thải ra khoảng 6% lượng khí nhà kính trên toàn cầu. Có một mối đe dọa lớn đó là gia tăng lượng phát thải khi các nước phát triển đẩy mạnh đô thị hóa và xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà cửa trong những thập kỷ tới. Để theo đuổi mục tiêu giảm lượng carbon, ngành công nghiệp xi măng cần phải áp dụng các công nghệ hiệu quả nhất, phát triển các sản phẩm sáng tạo và áp dụng công nghệ mới đầy hứa hẹn cho các loại nhiên liệu thay thế, bao gồm cả gió và năng lượng mặt trời.

Tổng công ty Tài chính Quốc tế (IFC), thành viên của Ngân hàng Thế giới chuyên về phát triển khu vực tư nhân, đầu tư vào các ngành công nghiệp xi măng vì tầm quan trọng mang tính nền tảng cho phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Bê tông là vật liệu xây dựng chủ yếu cho lĩnh vực xây dựng, cực kỳ quan trọng đối với nhà ở và cơ sở hạ tầng cơ bản. Ngành xi măng đòi hỏi một tầm nhìn dài hạn về tài chính và lợi nhuận. Tổ chức phát triển như IFC thường đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các dự án xi măng ở các nước đang phát triển, nơi mà 90% lượng xi măng được tiêu thụ. IFC có một danh mục đầu tư xi măng đang hoạt động trong khoảng 35 dự án, với giá trị hơn 1,1 tỷ $.

Chiến lược của IFC trong lĩnh vực xi măng nhằm khuyến khích sự thay đổi hướng tới sản xuất xi măng “xanh hơn”. Ngoài ra để tối đa hóa việc sử dụng xi măng phát thải ít carbon, IFC đang làm việc với những công ty muốn giảm mức tiêu thụ năng lượng và sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. IFC tin rằng có tiềm năng phát triển đáng kinh ngạc trong việc giảm khí thải và giảm chi phí năng lượng trong ngành công nghiệp xi măng và các mục tiêu này có thể được hỗ trợ bằng cách sử dụng các cấu trúc tài chính thích hợp và khuyến khích về vốn đầu tư.

Một trong những trường hợp đầu tư mạnh vào công nghệ thay thế đó là việc áp dụng công nghệ thu hồi nhiệt thải (WHR). Điều này liên quan đến việc hấp thu nhiệt dư thừa của quá trình sản xuất và sử dụng nó để tạo ra năng lượng điện. Công nghệ này có thể nhanh chóng được áp dụng cho một số ngành công nghiệp nặng, trong đó có thép và hóa chất. Tuy nhiên, việc áp dụng cho ngành công nghiệp xi măng đã bị hạn chế, ngoại trừ ở Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ và đặc biệt là Trung Quốc.

Một báo cáo mới đây của viện Năng suất Công nghiệp IFC ước tính rằng các khoản đầu tư cho WHR có thể giúp giảm chi phí vận hành và nâng cao lợi nhuận cho các nhà máy xi măng từ 10 đến 15%.

Tính trung bình, hạch toán chi phí điện năng lên đến 25% tổng chi phí hoạt động của một nhà máy xi măng. Công nghệ thu hồi nhiệt thải sử dụng nhiệt dư trong các chất khí thải trong quá trình sản xuất xi măng và có thể cung cấp cho nhu cầu sưởi ấm ở nhiệt độ thấp hoặc tạo ra đến 30% nhu cầu điện năng nói chung.

Nói cách khác, chúng ta có thể nhận được năng lượng đáng tin cậy hơn và rẻ hơn, trong khi đồng thời cắt giảm phát thải khí nhà kính.

Theo sxsh.vn

Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng ở mức đáng lo ngại

Vừa qua, Dự án Đào tạo Sản xuất Sạch hơn và Quản lý chất thải dành cho các Doanh nghiệp tại Việt Nam do Tập đoàn Dow Chemical tài trợ đã triển khai tập huấn cho các doanh nghiệp tại tỉnh Bình Dương vào ngày 25/12 và tại TP.Hồ Chí Minh vào ngày 26/12/2014 về phương pháp luận sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải để từ đó áp dụng vào trong mô hình của doanh nghiệp. 

o-nhiem-khong-khi-trong-nha-2_meitu_1

 

Tham dự khóa đào tạo tại tỉnh Bình Dương có đại diện lãnh đạo Sở Công thương tỉnh và 70 học viên đến từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa địa phương, một số doanh nghiêp có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉnh Bình Dương hiện đang là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phát triển công nghiệp năng động của cả nước. Bình Dương có 28 khu công nghiệp và hầu hết các khu công nghiệp này nằm dưới sự kiểm soát của các ban quản lý các khu công nghiệp và cũng thu hút được nhiều các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa phương.

Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, TP. Hồ Chí Minh có 19 quận và 5 huyện với tổng diện tích 2.095,01 km², nơi đây giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và là thành phố đi đầu cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế và số lượng doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây cũng là một trong các điểm thuận lợi cho dự án trong việc triển khai hoạt động tập huấn tại TP. Hồ Chí Minh.Tham dự khóa đào tạo tại TP. Hồ Chí Minh có 100 học viên tham dự, tằng gần 43% so với kế hoạch ban đầu đề ra.

Tại 2 khóa tập huấn này, bên cạnh việc khuyến khích doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải vào thực tiễn, chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường và quản lý chất thải tại Việt Nam, khuôn khổ pháp lý quản lý chất thải nguy hại tại Việt Nam cũng đã được tập trung phổ biến. Theo Tiến sỹ Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng, Viện Chính sách và Tài nguyên và Môi trường, một trong hai giảng viên của khóa đào tạo cho biết vấn đề ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp, khu kinh tế, cụm công nghiệp hiện có xu hướng giảm, nhưng từ các khu vực khác chưa được giải quyết, thậm chí có chiều hướng gia tăng cả quy mô và mức độ. Các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng xử lý còn rất chậm; ô nhiễm làng nghề ngày càng nghiêm trọng; quản lý chất thải rắn còn nhiều yếu kém, chậm khắc phục, cải tạo ….là những nguyên nhân chính làm cho ô nhiễm ở nước ta tiếp tục gia tăng. Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, kết cấu hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường vẫn còn yếu kém, trong khi nguồn lực đầu tư của Nhà nước và doanh nghiệp là hạn chế.

Do vậy, để giúp nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên/năng lượng, cung cấp các cơ hội giảm chi phí nhờ giảm tổn thất, tăng cường tuần hoàn và  tái sử dụng, góp phần bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp nên chủ động áp dụng kỹ thuật sản xuất sạch hơn và quản lý chất thải vào trong doanh nghiệp càng sớm càng tốt, đây được xem là công cụ giúp hài hòa lợi ích kinh tế – môi trường – xã hội đối với doanh nghiệp, đặc biệt sản xuất sạch hơn là không khó làm, không tốn kém và hiệu quả mang lại là rõ ràng.

Theo sxsh.vn

 

 

 

Ngành thuộc da: Áp dụng sản xuất sạch hơn (SXSH) để giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Năm 1912, công nghiệp thuộc da ở Việt Nam được hình thành. Khi đó có 35 doanh nghiệp, 62% là doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa. Nguyên liệu chính là da trâu bò (chiếm 70%), da heo và 1 lượng ít da dê, da trăn, rắn, cá sấu, đà điểu, được nhập khẩu tới 70-80% từ Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Đức. Sản phẩm là da thuộc. Năm 2013, năng lực sản xuất trong nước là 350 triệu sqtf/năm, 60% phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. 

2_SDUQ

 Ảnh: nguồn internet

Ngành thuộc da thải ra môi trường rất nhiều chất thải rắn, chất thải khí và nước thải. Đối với chất thải rắn, hiện  trạng là bạc nhạc, lông, da vụn, mùn bào, diềm da, vụn da chứa Crom (Cr) độc hại gây mùi khó chịu. Đối với loại chất thải này hầu hết các doanh nghiệp thu gom rồi chuyển qua cho công ty môi trường đô thị địa phương xử lý để làm phân bón, thức ăn gia súc… nhưng chưa được áp dụng rộng rãi. Các chất thải khí thì cụ thể là phân huỷ các chất hữu cơ như khí thải H2S, NH3, VOC gây mùi hôi khó chịu vô cùng. Giải quyết vấn đề này, phần lớn các doanh nghiệp áp dụng biện pháp thông thoáng nhà xưởng, một số ít cơ sở sản xuất có hệ thống xử lý khí. Còn đối với nước thải với đặc trưng là mùi hôi rất khó chịu, BOD, COD, Cr, chất rắn lơ lửng (SS) gấp nhiều lần các quy chuẩn cho phép, các doanh nghiệp xây dựng hệ thống xử lý nước thải cao, chi phí vận hành hệ thống xử lý nước thải (máy móc thiết bị, hoá chất, nhân công…) rất tốn kém. Bên cạnh đó vẫn có những doanh nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải hoặc hệ thống này không vận hành thường xuyên nên xử lý không hiệu quả.

Da là động vật hữu cơ tự nhiên, không đồng nhất, cấu tạo cơ bản các axit amin. Cấu tạo của da gồm: lớp lông, lớp da giấy, lớp da cật, lớp bạc nhạc. Trong quá trình sản xuất, phải sử dụng dung môi phân cực mạnh, có khả năng hoà tan nhiều chất. Nước là nguyên liệu thiết yếu cho quá trình thuộc da, tham gia trực tiếp vào hầu hết các công đoạn sản xuất. Người ta đã có đánh giá về mức tiêu hao nước trong ngành thuộc da giữa các nước như sau: Pakistan: 60m3/tấn, Đông Nam Á: 30m3/tấn, Việt Nam: 35-40 m3/tấn, các nước tiên tiến là 15-20 m3/tấn. Ngành thuộc da còn gây ô nhiễm cho không khí bao gồm khí VOC, CO, NOx, SO2, và bụi từ lò hơi, NH3, H2S, SO2 và các hợp chất chứa N, S phát sinh từ công đoạn hồi tươi, tẩy lông, ngâm vôi, thuộc da… dẫn đến mùi hôi rất khó chịu. Hơi axit dễ bay hơi, hơi dung môi VOC từ công đoạn hoàn thiện, sơn. Rồi tiếng ồn từ hoạt động của máy nạo thịt, máy cán ép nước, thùng quay, máy tia…

Nắm được đặc điểm sản xuất của ngành thuộc da, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể có cơ hội áp dụng SXSH vào quy trình tuần hoàn và tái sử dụng. Đối với khâu thu hồi muối trước khi hồi tươi, cần phải giũ muối bằng tay hoặc thiết bị lắc, khả năng thu hồi được 30% lượng muối là rất cao, đồng thời giảm lượng nước sử dụng, hoá chất, giảm lượng ô nhiễm. Trong khâu tuần hoàn dung dịch tẩy lông, ngâm vôi, nước được sử dụng là 9-15 m3, lọc tách các chất cặn, vôi, mỡ và bổ sung thêm hoá chất mới để sử dụng lại. Đồng thời có cơ hội giảm 50% lượng nước sử dụng, tiết kiệm 2-30% hoá chất, giảm được chi phí xử lý nước thải. Trong quá trình thuộc da sẽ thừa ra một số vụn da chứa Cr,  những mẩu vụn da này có thể hoà tan với kiềm trở thành dung dịch hoà tan của Protein, dung dịch này có thể sản xuất keo, gelatin, thức ăn chăn nuôi gom thu hồi tái sử dụng trong quá trình thuộc da. Tỷ lệ protein thu hồi là 60-70%.

Cơ hội SXSH cũng có thể đến với doanh nghiệp qua phương pháp thay đổi công nghệ, cụ thể là thay đổi phương pháp tẩy lông, xẻ da trước khi ngâm vôi lại và thay đổi phương pháp thuộc da. Đối với việc thay đổi phương pháp tẩy lông có thể áp dụng tẩy lông không huỷ nhằm thu hồi lông để sản xuất thảm, vật liệu cách điện, vật trang trí, phân bón, đồng thời loại bỏ chất ô nhiễm vào nước. Hoặc cũng có thể sử dụng chế phẩm enzym nhằm giảm đi 50-70% lượng Na2S, ô nhiễm trong nước thải giảm khoảng 30-50%, da thành phẩm đàn hồi tốt hơn. Đối với khâu xẻ da trước khi ngâm vôi lại, cần bào, nạo thịt, xẻ theo một mức độ thích hợp, rồi ngâm vôi, có thể tiết kiệm hoá chất, năng lượng và thời gian thuộc.

Về quản lý nội vi trong ngành thuộc da, cần xác định chính xác trọng lượng da ở từng công đoạn bằng cách: cân chính xác lượng da trong mỗi công đoạn; tính toán lượng nước và hoá chất; nâng cao chất lượng da thuộc; hạn chế sự lãng phí nguyên liệu, hoá chất, giảm lượng nước thải…

Theo Đào Thu – Bản tin Công nghiệp xanh

 

 

Công nghiệp Phú Thọ: Xanh, sạch, thân thiện môi trường

Là một trong những tỉnh triển khai SXSH tương đối sớm, ngành công nghiệp Phú Thọ đã đạt được nhiều thành quả trong lĩnh vực này, góp phần phát triển ngành công nghiệp theo hướng xanh, sạch, thân thiện môi trường.

Tăng hiệu quả sản xuất

Nhận thức được tầm quan trọng của SXSH, nên trong những năm qua, Phú Thọ đã tích cực triển khai phổ biến, thông tin tuyên truyền về áp dụng SXSH trên phạm vi toàn tỉnh. Trong đó đặc biệt tập trung vào các điểm nóng về môi trường, mà tại đó, các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có tác động xấu đến điều kiện sống và làm việc của người lao động và cộng đồng dân cư. Mục tiêu của các giải pháp là nhằm cải thiện chất lượng môi trường, tăng hiệu quả sản xuất, đảm bảo sức khoẻ của người dân, người lao động trong và xung quanh các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm.

Sau một thời gian triển khai thực hiện, các dự án về SXSH đã giúp các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh đánh giá được thực trạng sản xuất của đơn vị mình, đồng thời hoạch định phương hướng để giải quyết những bất cập trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó xây dựng, thiết lập phương pháp luận và hạ tầng SXSH để khắc phục những rào cản, đưa kế hoạch hành động quốc gia về SXSH vào hoạt động. Bên cạnh đó, thắt chặt các quản lý nội vi và xây dựng cơ chế tổ chức, cũng như mạng lưới các hoạt động về SXSH nhằm giảm chi phí, tăng tính cạnh tranh và bảo vệ môi trường.

Thông qua các dự án trình diễn được giới thiệu, các doanh nghiệp sẽ được thấy làm thế nào để cải thiện tình hình với chi phí thấp mà hiệu quả cao, đó là nhờ áp dụng các giải pháp SXSH phù hợp. Trong những năm qua, ngành Công Thương Phú Thọ đã lựa chọn 13 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp để triển khai các mô hình trình diễn và đem lại một số kết quả đáng ghi nhận. Có thể kể ra đây một số ví dụ điển hình.

Công ty CP Việt Vương

Kết quả đánh giá nhanh cho thấy, trong sản xuất từ trước đến nay, hệ thống mạ kẽm của Công ty cho chất lượng không cao, sơn phủ không đều; môi trường khí thải, bụi và nước thải công nghiệp không đảm bảo tiêu chuẩn. Sau khi được tư vấn và áp dụng các giải pháp SXSH đã giảm tiêu hao nguyên liệu (axit) và nâng cao chất lượng sản phẩm mạ, cho sản phẩm đều; hệ thống máy hút bụi, trang thiết bị cho hệ thống xử lý nước thải công nghiệp được lắp đặt, đảm bảo chất lương khí thải, môi trường công nghiệp, đầu ra nước thải đảm bảo tiêu chuẩn.

Công ty CP Rượu Sài Gòn – Đồng Xuân

Sau khi khảo sát, đội SXSH nhận thấy, hệ thống rửa chai cho chất lượng không đồng đều nên vẫn xảy ra hiện tượng chai không được làm sạch triệt để; hệ thống hút mùi ở khu vực nấu và sang chiết không đảm bảo; không tuần hoàn được lượng nước thải sản xuất do hệ thống tháp giải nhiệt hoạt động không hiệu quả. Sau khi được tư vấn và áp dụng các giải pháp SXSH, hệ thống rửa chai đã cho sản phẩm đều, sạch triệt để; mùi ở khu vực nấu và sang chiết được đảm bảo, tuần hoàn và tận thu 95% lượng nước thải sản xuất, hiệu quả sản xuất kinh doanh nâng lên rõ rệt.

Công ty CP Giấy Phong Châu

Trước khi áp dụng SXSH, nguyên liệu đầu vào của Công ty có chất lượng thấp do bị ẩm ướt và nhiều mùn, hiệu quả sản xuất không cao; hệ thống thu gom xử lý nước thải và đặc biệt màu nước thải không đạt tiêu chuẩn. Sau khi được tư vấn và áp dụng các giải pháp SXSH, Công ty đã giải quyết được khâu nguyên liệu, khu vực kho chứa nguyên liệu cho chất lượng nguyên liệu đầu vào cao, hiệu quả sản xuất tăng. Hệ thống xử lý nước thải được cải thiện, màu nước thải được đảm bảo…

Duy trì SXSH

Từ kết quả thu được của một số ví dụ điển hình trên có thể khẳng định, qua triển khai thực hiện việc áp dụng khoa học công nghệ, áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn vào sản xuất của các doanh nghiệp, nhân thức của các cấp, các ngành, các cơ sở sản xuất kinh doanh, cộng đồng về tầm quan trọng của việc thực hiện áp dụng SXSH đã được nâng cao. Các doanh nghiệp đã nhận thấy lợi ích của việc áp dụng SXSH không chỉ bảo vệ môi trường trong từng khu vực của các doanh nghiệp, đảm bảo an toàn môi trường cho người lao động, mà con hạn chế các nguồn gây ô nhiễm tác động tới môi trường trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, các doanh nghiệp sau khi áp dụng các giải pháp SXSH đã thu được những hiệu quả tích cực như giảm tiêu hao nhiên liệu, năng lượng, phân loại xử lý giảm thiểu ô nhiễm ngay tại nguồn phát sinh nên nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi phí sản xuất. Điều này đồng nghĩa với việc tăng tính cạnh tranh của sản phẩm và khẳng định thương hiệu của doanh nghiệp, hướng tới phát triển bền vững.

Để duy trì, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các giải pháp về khoa học công nghệ trong sản xuất công nghiệp, tới đây rất cần sự vào cuộc tích cực hơn nữa của các cấp, các ngành trong việc đẩy mạnh phong trào nghiên cứu sáng tạo khoa học công nghệ. Đặc biệt cần tập trung khắc phục một số tồn tại hạn chế và đề ra các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH của tỉnh Phú Thọ.

Theo Bản tin Công nghệ xanh 

 

Đồng Nai: Thành quả 5 năm triển khai sản xuất sạch hơn (SXSH)

Thực hiện Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 07/09/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020”, từ đó đến nay, Sở Công Thương Đồng Nai đã đi được một hành trình khá dài và đạt được nhiều thành công. 

Tăng cường năng lực cho đơn vị đầu mối

Đến năm 2015, Sở Công Thương đã tiến hành xây dựng và tăng cường năng lực cho đơn vị đầu mối về SXSH tại địa phương. Sở Công Thương đã chỉ đạo Phòng Kỹ thuật – An toàn Môi trường cử 03 cán bộ theo dõi, hỗ trợ Trung tâm tư vấn công nghiệp về công tác SXSH. Phòng SXSH của Trung tâm được biên chế 04 cán bộ chuyên trách có trình độ đại học với các nghiệp vụ chuyên môn khác nhau để triển khai kế hoạch SXSH hàng năm của tỉnh trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Hàng năm, Sở Công Thương đã chỉ đạo Trung tâm cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn về SXSH do Cục Công nghiệp địa phương tổ chức, đồng thời tham gia các lớp tập huấn cho cán bộ quản lý về SXSH, quản lý về năng lượng của các Sở, ban ngành, các huyện thị và các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp trên đjia bàn tỉnh Đồng Nai.

Kết quả những đề án lớn

Đề án Nâng cao nhận thức và năng lực áp dụng SXSH

Trong giai đoạn 2010-2015, Sở Công Thương Đồng Nai đã thực hiện hàng loạt những hội nghị tập huấn và đào tạo sản xuất nhằm nâng cao nhận thức và năng lực áp dụng cho SXSH trong công nghiệp. Đây cũng chính là mục tiêu của đề án “Nâng cao nhận thức và năng lực áp dụng SXSH trong công nghiệp” mà Sở Công Thương Đồng Nai đã đề ra ngay từ khi Chiến lược được bắt đầu. Trog năm 2012, Sở Công Thương đã triển khai thêm một số nhiệm vụ mới như thành lập Phòng SXSH đặt tại Trung tâm tư vấn công nghiệp thuộc Sở Công Thương, nhằm tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp về tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường hướng đến phát triển bền vững. Tiếp đó, năm 2013, tiếp tục tổ chức tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về SXSH thông qua đài phát thanh các huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hoà với số lượng 03 chương trình, tổ chức được 2 lớp SXSH và 3 lớp tiết kiệm năng lượng hiệu quả với khoảng 500 học viên tham dự.

Năm 2014, Sở Công Thương đã nâng mức độ tuyên truyền lên một bậc là biên soạn chương trình tuyên truyền về SXSH lồng ghép với chương trình sử dụng điện, tiết kiệm năng lượng, thu CD để phát trên đài phát thanh các huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hoà, biên soạn chương trình tuyên truyền về SXSH đặt in trên Bản tin Khu công nghiệp Đồng Nai, quay video các chuyên mục, phóng sự tuyên truyền về SXSH phát định kỳ trên Đài truyền hình Đồng Nai… Năm 2015, Sở Công Thương Đồng Nai tiếp tục nhân rộng hơn nữa hoạt động tuyên truyền phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng, lồng ghép với chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Bên cạnh đó, tăng cường khảo sát, đánh giá tình hình sản xuất thực tế của doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân gây thất thoát nguyên, nhiên liệu và năng lượng để từ đó đề ra các giải pháp SXSH, đề ra kế hoạch hành động để nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Dự kiến lập báo cáo đánh giá  SXSH 03 đề tài, đồng thời thành lập mang lưới cộng tác viên về SXSH từ tỉnh đến các huyện thị, các ban quản lý khu công nghiệp và các doanh nghiệp.

Đề án xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu và trang thông tin điện tử

Năm 2014, Sở Công Thương Đồng Nai đã chỉ đạo Trung tâm Tư vấn công nghiệp xây dựng website để tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, chính sách hỗ trợ của nhà nước về SXSH đến các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Hiện nay Trung tâm tư vấn công nghiệp đang vận hành trang website về SXSH: www.tuvancongnghiepdongnai.gov.vn. Phòng SXSH đã phân công cán bộ phụ trách, xây dựng và duy trì hoạt động trang website chuyên ngành, kết nối với công thông tin điện tử của tỉnh và kết nối với các trang website về SXSH và sự dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả của các tỉnh trong toàn quốc.

Đề án “Hỗ trợ kỹ thuật về áp dụng SXSH tại các cơ sở sản xuất công nghiệp”

Năm 2011 Sở Công Thương đã tiến hành hỗ trợ 03 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh lập báo cáo đánh giá SXSH. Năm 2014, Sở Công Thương đã tiến hành hỗ trợ 05 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh lập báo cáo đánh giá SXSH.

Những khó khăn và thuận lợi 

Quá trình triển khai thực hiện kế hoạch SXSH trong công nghiệp đến năm 2015 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã thu được những kết quả khả quan, nâng cao được nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý về SXSH của các sở, ban ngành, huyện thị và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đồng thời tạo được điều kiện cho các cơ sở sản xuất công nghiệp áp dụng các quy trình SXSH, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu; giảm thiểu phát thải và hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, sức khoẻ con người và đảm bảo phát triển bền vững.

Có được những điều này là do những năm qua, Sở Công Thương Đồng Nai luôn nhận được sự quan tâm, sự hỗ trợ tích cực và chỉ đạo kịp thời của Bộ Công Thương, Cục Công nghiệp địa phương và UBND tỉnh; sự phối hợp hỗ trợ của các Sở, ban ngành để thực hiện tốt các kế hoạch đề ra hàng năm. Đồng thời, qua thời gian tuyên truyền về lợi ích của SXSH, đa số doanh nghiệp đã nhận biết được tầm quan trọng của việc thực hiện SXSH, đã tích cực phối hợp trong quá trình triển khai kế hoạch hàng năm. Cũng như các tỉnh, thành khác, bên cạnh các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện SXSH thì ở Đồng Nai vẫn còn một số doanh nghiệp chưa quan tâm và hiểu biết về SXSH. Nguồn kinh phí để triển khai kế hoạch SXSH hàng năm còn hạn hẹp nên công tác triển khai còn chậm, chủ yếu mới thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền vận động, mục tiêu đạt được chưa cao. Do vậy, kết quả “Hỗ trợ kỹ thuật về áp dụng SXSH tại các cơ sở sản xuất công nghiệp” còn rất khiêm tốn.

Không thể không nhắc tới một vướng mắc nữa là công tác tiếp cận với các doanh nghiệp để tuyên truyền về chủ trương, chính sách  hỗ trợ về SXSH còn gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp ngại cung cấp thông tin do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, Sở Công Thương Đồng Nai đề nghị Bộ Công Thương mở thêm lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về SXSH để có thể hỗ trợ tốt công tác đánh giá nhanh, đề ra giải pháp khả thi cho các doanh nghiệp.

Theo Hoàng Quân – Bản tin Công nghệ xanh