Xây dựng tương lai bền vững cho khu vực Mê Kông

Việt Nam đặc biệt coi trọng và ưu tiên những nỗ lực phát triển bền vững và sử dụng hiệu quả nguồn nước sông Mê Kông trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt đồng thời mong muốn tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước Mê Kông và các đối tác phát triển trong nỗ lực này.

Chiều ngày 9/8, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao (HNBT) ASEAN 47 đã diễn ra các HNBT Hạ nguồn Mê Kông-Mỹ (LMI) lần thứ bảy và Hạ nguồn Mê Kông-Những người bạn (FLM) lần thứ tư dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Ngoại giao Myanmar và Ngoại trưởng Hoa Kỳ.

Tham dự có Bộ trưởng Ngoại giao các nước Mê Kông và Tổng Thư ký ASEAN Lê Lương Minh; Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Cao ủy đối ngoại Liên minh châu Âu (EU), đại diện cấp cao của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB) dự HNBT FLM.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh dẫn đầu đoàn Việt Nam dự các Hội nghị nói trên.

Người dân sống trên sông Mê Kông (Ảnh minh họa: ThienNhien.Net)

Ảnh: Thiennhien.net

Với chủ đề “Xây dựng tương lai bền vững cho khu vực Mê Kông trong bối cảnh an ninh lương thực-nguồn nước-năng lượng và hỗ trợ hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015”, HNBT LMI lần thứ tư tập trung thảo luận các cơ hội và thách thức đối với sự phát triển bền vững của lưu vực Mê Kông, đồng thời đề xuất nhiều biện pháp hợp tác cụ thể nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển và thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực hướng tới cộng đồng ASEAN vào năm 2015.

Các Bộ trưởng nhất trí rằng sau 5 năm kể từ khi thành lập, LMI đã trở thành cơ chế hợp tác hiệu quả giữa Mỹ và các nước Mê Kông nhằm đối phó với những thách thức phát triển chung thông qua sáu trụ cột hợp tác về nông nghiệp và an ninh lương thực, kết nối, giáo dục, an ninh năng lượng, môi trường và nguồn nước, và y tế.

Tuyên bố chung của Hội nghị công bố Chương trình hợp tác LMI mới trong 5 năm tiếp theo, trong đó tập trung triển khai sáu dự án trọng điểm bao gồm: Kết nối Mê Kông, hạ tầng thông minh cho Mê Kông, kết nối thông qua giáo dục và đào tạo, đào tạo kỹ năng truyền thông cho lãnh đạo, trung tâm khởi nghiệp cho phụ nữ và phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm.

Các Bộ trưởng nhất trí tiếp tục đối thoại chính sách liên quan tới phát triển bền vững khu vực, đồng thời tăng cường hoạt động điều phối và phối hợp với Sáng kiến Hội nhập của ASEAN (IAI). Hội nghị chính thức khởi động Nhóm Chuyên gia và Nhân vật nổi tiếng (EEPG) có nhiệm vụ nghiên cứu và khuyến nghị các biện pháp thúc đẩy phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông, báo cáo lên các quan chức cao cấp và Bộ trưởng LMI.

HNBT FLM lần thứ tư nhất trí tăng cường hợp tác kết nối khu vực, quản lý bền vững nguồn nước và bảo vệ môi trường lưu vực Mê Kông.

Các Bộ trưởng khẳng định cam kết xây dựng quan hệ đối tác ở mọi cấp độ địa phương, liên quốc gia, khu vực và giữa các châu lục nhằm ứng phó hiệu quả với những thách thức phát triển và vấn đề nước tại khu vực Mê Kông.

Hội nghị khẳng định ưu tiên biến những thách thức trong bảo đảm an ninh nguồn nước, năng lượng và lương thực thành cơ hội tăng trưởng và phát triển bền vững cho cả tiểu vùng. Nhiều đối tác phát triển trong và ngoài khu vực như EU, Australia, WB và ADB… cam kết tiếp tục hỗ trợ cho các nước Mê Kông trong quản lý bền vững nguồn nước, xây dựng hạ tầng thông minh, năng lượng sạch, nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu, đánh giá tác động môi trường… EU quyết định tăng gấp ba lần viện trợ dành cho các nước Mê Kông trong giai đoạn 2014-2020.

Hội nghị nhất trí sẽ tổ chức Hội nghị đặc biệt FLM ở cấp Thứ trưởng về phát triển bền vững tại Lào vào cuối năm 2014 hoặc đầu năm 2015.

Phát biểu tại các Hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh khẳng định Việt Nam đặc biệt coi trọng và ưu tiên những nỗ lực phát triển bền vững và sử dụng hiệu quả nguồn nước sông Mê Kông trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt đồng thời mong muốn tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước Mê Kông và các đối tác phát triển trong nỗ lực này.

Phó Thủ tướng đề xuất tăng cường hơn nữa hợp tác và đối thoại trong khuôn khổ LMI và FLM, trước hết là hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường kết nối, thu hẹp khoảng cách phát triển với ASEAN và hỗ trợ Ủy hội Mê Kông quốc tế tăng cường năng lực nghiên cứu, dự báo về tác động của đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông.

Theo Chinhphu.vn

 

Đức gia tăng tiêu thụ các sản phẩm thủy sản bền vững

REWE, một trong những chuỗi siêu thị lớn nhất của Đức, đang gia tăng các loại sản phẩm thủy sản được dán nhãn ASC thông qua việc giới thiệu các sản phẩm Goldlocke của mình, đây là sản phẩm được làm từ cá rô phi được chứng nhận ASC.

seafood635423068234106046
hình minh họa

REWE đã phát triển nhãn hiệu Goldlocke cùng với  nhà cung cấp cá tươi Deutsche See của mình nhằm thay thế sản phẩm Schillerlocke được làm từ cá nhám gai hun khói.

Cá rô phi dùng để sản xuất các sản phẩm Goldlocke được nuôi bởi Regal Springs, trang trại đầu tiên được chứng nhận ASC vào cuối năm 2012. Các cá rô phi được chứng nhận sau đó được phân phối bởi công ty Seafood Connection của sản Hà Lan, một nhà cung cấp hàng đầu các nguồn thủy sản có trách nhiệm cho thị trường châu Âu.

Logo ASC đảm bảo với người tiêu dùng rằng sản phẩm này có thể được truy xuất nguồn gốc thông qua chuỗi cung ứng do trang tại Regal Springs có trách nhiệm quản lý. Mỗi công ty trong chuỗi cung ứng được chứng nhận chuỗi hành trình sản phẩm của ASC.

Và để đạt được điều này họ đã được đánh giá độc lập để đảm bảo rằng họ đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt và có trong hệ thống truy xuất nguồn gốc nhằm đảm bảo sản phẩm không bị pha trộn hoặc việc thay thế có thể xảy ra.

Theo vasep.com.vn

Lên danh sách những việc làm giúp tiết kiệm nước và năng lượng mỗi ngày

Những hoạt động liên quan đến việc sử dụng nước tiêu tốn khoảng 19% tổng lượng điện của một quốc gia. Để có được nguồn nước sạch mà bạn đang sử dụng hàng ngày, phải trải qua rất nhiều giai đoạn như bơm nước từ nguồn về các nhà máy nước, lọc sạch nước rồi bơm đến từng hộ gia đình.

Bởi vậy, nếu bạn có ý thức tiết kiệm nước, nó đồng nghĩa với việc bạn đang tiết kiệm năng lượng, đặc biệt là nguồn điện sử dụng để bơm nước. Dưới đây là những cách làm đơn giản và hiệu quả giúp bạn có thể tiết kiệm đáng kể lượng nước mỗi ngày.

Dùng vòi hoa sen thay vì bồn tắm

1

5 phút tắm bằng vòi hoa sen thay vì dùng bồn tắm hoặc  tắm bằng cách dội nước lên người có thể giúp tiết kiệm đến hơn 90 lít nước. Hiệu quả tiết kiệm năng lượng càng rõ rệt hơn khi lượng nước mà bạn tiết kiệm được là nước ấm.

Tắt vòi nước khi đang đánh răng

2

Nhiều người có thói quen vừa đánh răng, vừa mở vòi nước. Hãy tắt vòi nước khi bạn đang chải răng, bởi một hộ gia đình có thể thiết kiệm được hơn 11 ngàn lít nước mỗi năm từ hành động nhỏ này. Để vòi nước của bạn chảy lãng phí trong 5 phút sẽ tiêu tốn năng lượng tương đương với lượng điện thắp sáng 1 bóng đèn 60 W trong 14 giờ.

Sửa chữa vòi nước bị rò rỉ

3

Nếu vòi nước nhà bạn bị rỉ nước với tốc độ khoảng 60 giọt nước/phút thì nó đồng nghĩa với việc bạn đang lãng phí hơn 11 ngàn lít nước mỗi năm. Vì vậy, hãy sửa chữa hoặc thay thế vòi nước nhà bạn một cách kịp thời, trước khi chúng khiến hóa đơn tiền nước nhà bạn tăng lên chóng mặt.

Tắt vòi nước khi đang gội đầu

4

Nếu bạn có thói quen mở nước khi đang xoa dầu gội đầu lên tóc và gãi đầu, thì hãy thay đổi ngay. Chỉ mở nước để xả sạch tóc khi bạn đã kết thúc việc gội đầu. Thói quen “xấu” nêu trên đang tiêu tốn của gia đình bạn gần 600 lít nước mỗi tháng.

Đừng để nước chảy khi đang cạo râu

5

Xả nước chảy liên tục để rửa dao cạo là việc làm “quen tay” của rất nhiều đấng mày râu. Hành động này có thể tiêu tốn đến 1 ngàn lít nước mỗi tháng. Vì vậy, hãy nhớ đóng vòi nước khi đang cao râu.

Thay vòi hoa sen tiết kiệm nước

6

Sử dụng vòi hoa sen vốn là một cách tắm tiết kiệm nước. Nhưng giờ đây, bạn vẫn có thể tiết kiệm nước nhiều hơn nữa khi thay thế vòi hoa sẽ kiểu cũ bằng vòi hoa sen tiết kiệm nước. Loại vòi hoa sen mới được thiết kế với các tia phun nước nhỏ hơn, áp lực nước thấp hơn có thể giúp gia đình bạn tiết kiệm đến hơn 10 ngàn lít nước/người mỗi năm.

Tưới nước đúng cách

7

Nếu muốn tưới cây trong vườn, hãy tưới nước trước 8h sáng và sau 17h chiều. Đây là khoảng thời gian tưới nước tốt nhất cho cây cối và hạn chế được tối đa lượng nước bốc hơi vì ánh nắng mặt trời.

Theo energyupgrade.ca.com

Phát động cuộc thi “Thông điệp xanh về quản lý ô nhiễm công nghiệp”

Là tên cuộc thi do Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội vừa phát động. Giải Nhất sẽ có phần thưởng trị giá 5 triệu đồng. Các tổ chức, cá nhân tham gia gửi bài dự thi về: Chi cục Bảo vệ môi trường Hà Nội, tầng 9, Cung Trí thức, Lô D25*, Khu Đô thị mới Cầu Giấy, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Hạn cuối nhận bài dự thi là ngày 15/9/2014 (tính theo dấu bưu điện).

cuoc-thi-21714-3993b

Ban tổ chức cho biết, cuộc thi nhằm tìm ra những thông điệp hay, thiết thực phục vụ công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng trong lĩnh vực quản lý ô nhiễm công nghiệp nói riêng và bảo vệ môi trường thành phố Hà Nội nói chung; gợi mở những cách làm hay, sáng tạo, những ý tưởng mới về công tác quản lý ô nhiễm công nghiệp và bảo vệ môi trường Thủ đô; huy động sự quan tâm, tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý ô nhiễm công nghiệp…

Bài dự thi là các clip ngắn phản ánh thực trạng, cách nhìn, suy nghĩ của tác giả về quản lý ô nhiễm công nghiệp.

Bài dự thi có thể tập trung vào các chủ đề: Hiệu quả quản lý môi trường tại các doanh nghiệp sản xuất hoặc các khu công nghiệp; các biện pháp, giải pháp kỹ thuật công nghệ giúp tiết kiệm năng lượng, tài nguyên, chi phí và giảm thiểu chất thải với một lĩnh vực sản xuất, ngành nghề; thực trạng, tình hình ô nhiễm công nghiệp của thành phố Hà Nội dưới góc nhìn của cộng đồng; các các nỗ lực, hoạt động được khởi xướng nhằm giảm nhẹ các vấn đề ô nhiễm công nghiệp, bảo vệ môi trường từ các nhà quản lý, doanh nghiệp, cộng đồng của Thủ đô…

Bài dự thi thực hiện theo cá nhân hoặc nhóm, dưới dạng video clip có thời lượng không quá 5 phút, chưa được đăng tải và công bố hoặc phải có cam kết về bản quyền.

Hồ sơ dự thi bao gồm: 2 đĩa DVD chứa clip dự thi, 2 bản tóm tắt nội dung clip dự thi không quá 500 từ, ghi rõ thông tin về cá nhân, tổ chức tham gia dự thi.

Ban Tổ chức sẽ đăng tải danh sách các cá nhân/tổ chức đạt giải trên website của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nộihttp://www.tnmtnd.hanoi.gov.vn. Kết thúc cuộc thi, Ban tổ chức sẽ trao 1 giải Nhất trị giá 5 triệu đồng, 2 giải Nhì (3 triệu đồng/giải) và 3 giải Ba (2 triệu đồng/giải) cho những cá nhân, tập thể xuất sắc nhất.

Theo tietkiemnangluong.com.vn

Hướng đi bền vững cho cá tra

Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNN) về sản xuất và tiêu thụ cá tra tại vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2020, ngành công nghiệp cá tra sẽ có sự thay đổi từ khâu sản xuất cho đến tiêu thụ, bảo đảm cho người nuôi thu lãi từ 1.000-1.500 đồng/kg. Tổng lợi nhuận năm 2015 đạt từ 1.200-1.800 tỷ đồng, đến năm 2020 đạt từ 1.600-2.400 tỷ đồng.

Netting-the-Fish

Theo Bộ NN&PTNT, tình hình tiêu thụ cá tra của Việt Nam trong những năm gần đây gặp không ít khó khăn. Tại các tỉnh có vùng nuôi cá tra ở ĐBSCL, đến cuối tháng 5/2014 đã thả nuôi 2.954 ha, giảm 19% so cùng kỳ; trong đó thu hoạch 1.487ha, giảm 13% và sản lượng thu hoạch đạt 335.023 tấn, giảm 19,7% so cùng kỳ. Giá bán cá tra nguyên liệu có nhiều chuyển biến: Tháng 1/2014 dao động ở mức 21.000-23.000 đồng/kg, nhưng từ tháng 2 đã tăng lên và đạt đỉnh vào tháng 4/2014 ở mức 27.000 đồng/kg. Người nuôi cá bắt đầu có lãi. Tuy vậy, hiện nay, thị trường xuất khẩu có dấu hiệu chững lại nên nhu cầu thu mua cá của các doanh nghiệp cũng giảm thấp, giá cá tra loại 0,8-0,85 kg/con chỉ còn 22.000-23.000 đồng/kg.

Chính vì thế, Bộ NN&PTNT đã nhanh chóng đưa ra nhiều chính sách, triển khai kế hoạch để khắc phục tình trạng này. Theo đó, ngành công nghiệp cá tra sẽ có sự thay đổi từ khâu sản xuất cho đến tiêu thụ.

Bộ NN&PTNT quy hoạch đến năm 2020, diện tích nuôi cá tra trong vùng là 7.260ha (theo chuẩn VietGAP), phân bố tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Hậu Giang. Đây là những địa phương có chế độ thủy văn thuận lợi, cụ thể là lưu lượng dòng chảy lớn, trao đổi nước tốt và tự làm sạch dòng chảy tốt, giúp giảm thiểu ô nhiễm nước mặt cục bộ. Trong đó, Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp dẫn đầu về diện tích với 4.230ha. Các tỉnh phấn đấu đến năm 2020 sản lượng đạt 1,6 triệu tấn, chế biến đạt từ 750.000-800.000 tấn thành phẩm, trong đó tỷ lệ sản phẩm có giá trị gia tăng cao đạt 15-20%, kim ngạch xuất khẩu đạt từ 2,5-3 tỷ USD, giải quyết việc làm cho 29.000 lao động.

Hiện ĐBSCL có 94 nhà máy chế biến cá tra, tổng công suất gần 1 triệu tấn/năm, thừa khả năng chế biến sản lượng cá tra sản xuất từ nay đến năm 2020. Vì vậy, các tỉnh không xây dựng mới mà khuyến khích đầu tư nâng cấp nhằm tăng năng lực chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng cao của các nhà máy. Trong năm 2014-2015, các tỉnh đổi mới dây chuyền sản xuất tại các nhà máy hiện có nhằm nâng cao chất lượng thành phẩm, giảm giá thành sản xuất. Từ năm 2016-2020, các tỉnh không phát triển thêm dây chuyền sản xuất cá tra philê mà tập trung đầu tư lắp mới nhiều dây chuyền sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao, công suất 45.000 tấn/năm. Công nghệ mới được đưa vào sản xuất phụ phẩm cá tra để tạo ra sản phẩm thực phẩm và phi thực phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước như: cá tra đóng gói nhỏ để nấu hay ăn liền, bào chế dược phẩm, mỹ phẩm.

Bên cạnh đó, để nâng cao giá trị gia tăng cho cá tra thì ngay trong quá trình nuôi cá sẽ có biện pháp để giảm giá thành sản xuất. Theo các chuyên gia kinh tế, cá giống, thức ăn là những yếu tố đầu vào quan trọng nhất nên phải tăng cường quản lý giống và quản lý nguồn thức ăn từ các nhà cung cấp, phân phối. Đầu tư hệ thống sản xuất giống đảm bảo 100% giống cá tra đưa vào sản xuất là giống sạch, đạt chất lượng cao. Cụ thể, khu vực sản xuất cá bột và cá giống chất lượng cao được bố trí trên diện tích 2.500 ha với 328 cơ sở thuộc các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Vĩnh Long, Hậu Giang, Tiền Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh để đến năm 2015 cung ứng cho người nuôi 1,9 tỷ con giống đạt chuẩn, đến năm 2020 cung ứng 2,5 tỷ con.

Ngoài ra, các cơ sở áp dụng công nghệ sinh học để tạo ra giống cá tra thịt trắng, năng suất cao. Phát triển nguồn nguyên liệu thay thế nguyên liệu nhập khẩu như ngô, đậu tương, bột cá… cung cấp cho các cơ sở chế biến thức ăn để giảm giá thành sản xuất. Xây dựng cơ chế kiểm soát chất lượng và giá thức ăn. Tùy theo quy mô sản xuất, cơ sở hạ tầng và trình độ kỹ thuật để ứng dụng các quy trình kỹ thuật nuôi tiên tiến. Ví dụ như các cơ sở nuôi nhỏ lẻ ứng dụng Quy phạm quản lý tốt hơn (BMP), các vùng nuôi tập trung ứng dụng Quy phạm thực hành nuôi tốt (GAP) và các tiêu chuẩn quốc tế khác.

Nhằm tạo đầu ra ổn định và mở rộng thị trường tiêu thụ cá tra tại nước ngoài, cần quan tâm tìm hiểu pháp luật của nước nhập khẩu, trong đó, thống nhất tiêu chuẩn trang trại cá của Mỹ và tiêu chuẩn VietGAP; tăng cường quảng bá hình ảnh cá tra Việt Nam tại các nước EU; đồng thời mở trung tâm đầu mối phân phối, bán đấu giá cá tra tại các nước EU nhằm tạo thuận lợi trong phân phối sản phẩm.

Bên cạnh đó, các tỉnh ĐBSCL cũng đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng tiêu thụ cá tra tại các thị trường tiềm năng như Nga, Trung Quốc, Mexico, Trung Đông, Ấn Độ, ASEAN. Các tỉnh đổi mới phương thức xuất khẩu bằng cách tăng cường xuất khẩu trực tiếp cho các hệ thống phân phối, trung tâm thương mại lớn, siêu thị, thay thế dần hình thức xuất khẩu qua trung gian nhằm tăng hiệu quả xuất khẩu./.

Theo ven.vn

 

 

Xử lý nước thải: xu hướng hiện tại, định hình tương lai (P2)

Công nghệ mới Xử lý nước thải

Đổi mới trong ngành công nghiệp XLNT đang tăng tốc, mỗi năm lại có những khái niệm và công nghệ mới, nhưng không phải tất cả đều thâm nhập được thị trường. Dưới đây là một số công nghệ đầy hứa hẹn, có thể sẽ làm thay đổi hoàn toàn các nhà máy XLNT trong tương lai.

▪ Lưới mịn

Chất rắn trơ trong nước thải gây ra nhiều vấn đề cho hệ thống xử lý nước thải. Tóc, sợi và các vật liệu nổi trung tính thoát qua màn lọc có khuynh hướng tích tụ trong bể sục khí, ở đó chúng bện lại với nhau có hình dạng bất định có khả năng làm nghẽn các đường ống và thiết bị cơ khí.

Tổ chức Nghiên cứu châu Âu ước tính sợi xơ (cellulose) có nguồn gốc từ giấy vệ sinh chiếm gần 60% tổng chất rắn “trôi nổi” trong nước thải, và gần như tất cả có thể loại bỏ bằng lưới mịn 500 micron mét hoặc nhỏ hơn. Chất thải này có thể tẩy rửa và nén chặt thành chất rắn khô để đốt như nhiên liệu, hoặc tái chế để làm giấy. Loại bỏ các sợi xơ có thể giảm tiêu thụ năng lượng khoảng 50%.

▪ Phương pháp kỵ khí 

Phương pháp kỵ khí (hay yếm khí) là lựa chọn hấp dẫn cho XLNT sinh hoạt, có chi phí thông khí và xử lý bùn thấp hơn hẳn qui trình hiếu khí (nhờ không cần khử oxy để đạt chuẩn COD – Carbonaceous Oxygen Demand), và lượng bùn thải cũng giảm đáng kể. Với bể phản ứng sinh học dùng màng kỵ khí (AnMBR) vấn đề trọng lực được loại bỏ, thời gian lưu nước ngắn, và AnMBR là một khối kín nên giảm mùi đáng kể.

So sánh hiệu quả XLNT theo phương pháp kỵ khí và hiếu khí


▪ Thu hồi phốt pho 

Có nhiều dự báo khác nhau về sự cạn kiệt phốt pho trên thế giới, thay đổi trong khoảng từ 100 đến 300 năm tới. Nhưng quan trọng hơn, 90% trữ lượng đá vôi được biết phân bổ chỉ ở 8 quốc gia, và chỉ có 3 quốc gia (Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Ma-rốc / Tây Sahara) có lượng phốt pho thương mại lớn. Ở một số quốc gia không có nguồn đá vôi, việc thu hồi phốt pho từ nước thải đã trở thành yêu cầu quan trọng để đảm bảo an ninh lương thực (một trong những ứng dụng quan trọng của phốt pho là dùng để sản xuất phân bón).

Nghiên cứu thu hồi phốt pho từ nước thải đã có nhiều bước tiến trong mười năm qua. Hiện nay, lựa chọn khả thi nhất là kết tủa sỏi struvite (phosphate amoniac magiê) bằng cách ly tâm bùn đã khử khuẩn kỵ khí. Phương thức kết tủa ly tâm có thể thu hồi khoảng 40% lượng phốt pho trong nước thải, và có thể đạt đến 90% nếu kết hợp với thu hồi từ bùn.

▪ Làm mới chu trình nitơ

Quá trình điển hình loại bỏ nitơ khỏi nước thải gồm nhiều bước, trong đó nhóm vi khuẩn tự dưỡng và dị dưỡng liên tục chuyển đổi amoniac thành khí nitơ. Quá trình nitơ hóa – khử nitơ giờ có thể kiểm soát để việc chuyển đổi amoniac ban đầu nhờ vi khuẩn AOB (ammonia oxidizing bacteria) dừng ở khâu nitơ hóa, sau đó nitơ được chuyển thành khí (khử nitơ) nhờ vi khuẩn dị dưỡng. Việc kết hợp nitơ hóa với khử nitơ tiết kiệm 25 % chi phí năng lượng so với quá trình nitơ hóa thông thường, và tiết kiệm 40 % chi phí methanol trong quá trình khử nitơ.

▪ Sơ chế cho quá trình phân hủy kỵ khí và bổ sung nguyên liệu

Một số công nghệ đang được phát triển nhằm tăng sản lượng khí sinh học trong bể phân hủy kỵ khí bằng cách sơ chế nguồn phân hủy hoặc bổ sung chất thải ngoài. Ví dụ như qui trình Cambi (của công ty Cambi, Na Uy) thường được sử dụng xử lý bùn thải hoạt tính, dùng áp suất cao (90 psi – pound/inch vuông) và nhiệt độ cao (160-175 º C) để phá màng tế bào, giải phóng tế bào chất (khối nguyên sinh bao quanh nhân) dẫn đến phá hủy chất rắn và sinh ra khí sinh học nhiều hơn. Việc bổ sung các nguyên liệu thải khác cũng có thể tăng sản lượng khí sinh học. Chất béo, dầu, mỡ (FOG), chất thải thực phẩm có độ hữu cơ cao và dễ phân hủy, các nguyên liệu này được nghiền thành hỗn hợp đồng nhất để đưa vào qui trình phân hủy.

Ngoài tiềm năng tăng năng lượng từ khí sinh học, việc sử dụng các nguyên liệu này giúp giảm tải nhà máy XLNT, giảm tình trạng tắt nghẹt cống rãnh, giảm chất thải đưa đến các bãi chôn (rác), và giảm khí thải nhà kính liên quan đến khâu vận chuyển chất thải.

Mô hình qui trình Cambi

▪ Ôzôn với than hoạt tính (GAC) và lọc khí sinh học (BAF) 

XLNT thông thường không khử hiệu quả tất cả các chất ô nhiễm hữu cơ vi lượng (TorC), do vậy cần có phương thức xử lý tiên tiến phù hợp cho từng loại TorC, nồng độ và các quy định tương lai. Tuy các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng ôzôn hóa làm tốt việc khử TorC, nhưng không có một qui trình xử lý đơn lẻ nào có khả năng khử hết tất cả các loại. Ví dụ, chất chống cháy thuộc nhóm hợp chất không thể khử sạch bằng phương pháp ôzôn, nhưng khử tốt bằng GAC.

▪ Khí hóa và nhiệt phân

Hệ thống XLNT tương lai phải có qui trình linh hoạt để thực hiện xử lý khử TorC, trong đó các qui trình xử lý bổ sung như GAC hay BAF sẽ loại bỏ các hợp chất mà ôzôn hóa một mình không khử hết được.


Nhận thức nguồn năng lượng tiềm năng của cặn nước thải, nhiều công nghệ mới đang được phát triển để tạo ra những hệ thống không dùng đến năng lượng ngoài. Khí hóa và nhiệt phân là những công nghệ hứa hẹn nhất trong số này, hai công nghệ này trước đây yêu cầu bùn thải phải được sấy khô thành chất rắn đến 90 %. Một số giải pháp khí hóa mới có khả năng xử lý chất rắn chỉ cần sấy khô 50 % hoặc thậm chí 10 %, do đó ít tốn năng lượng. Quá trình khí hóa đốt nóng chất rắn trên 800 độ C trong điều kiện nghèo oxy để tạo thành khí tổng hợp, trong đó chủ yếu bao gồm hydro và carbon monoxide.

Nhiệt phân tạo ra khí tổng hợp tương tự như khí hóa, nhưng hoạt động ở nhiệt độ khoảng 700 độ C và trong môi trường không oxy. Cả hai qui trình được thiết kế để làm việc chặt chẽ với nhau, trong đó khí tổng hợp được đốt để đun nóng khí thải, khí này sau đó được sử dụng làm nguồn năng lượng cho quá trình sấy. Hầu hết năng lượng thu hồi được sử dụng để sấy khô chất rắn, phần còn lại để sản xuất điện.

Theo cesti.gov.vn