Biến phụ phẩm nông nghiệp thành than sạch

Với mục tiêu vì sức khoẻ cộng đồng và bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đáp ứng nhu cầu chất đốt ngày càng tăng cao, với sự hỗ trợ kinh phí từ Bộ Công Thương và hỗ trợ kỹ thuật từ Trung tâm Khuyến công và Phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Ninh, cuối năm 2014, công ty TNHH MTV PT Computer (Tiên Yên – Quảng Ninh) đã đưa vào sản xuất thí điểm thành công than sạch từ phụ phẩm nông nghiệp.

Biến phụ phẩm nông nghiệp thành than sạch
Sản xuất than sạch

Là huyện miền núi với cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp và công nghiệp chế biến nông lâm sản, hàng năm huyện Tiên Yên có khối lượng lớn phế phẩm nông nghiệp và nguyên liệu sinh thái – thực vật bị tiêu huỷ hoặc tái sử dụng nhưng hiệu quả thấp. Công ty TNHH MTV PT Computer đã phối hợp với Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Ninh tìm hiểu và áp dụng công nghệ chế biến các loại phế phẩm nông lâm nghiệp ở địa phương để sản xuất thành than có tính năng tương tự như những loại than khác.

Dự án bắt đầu được thực hiện từ tháng 9/2013 với tổng kinh phí 2,05 tỷ đồng, trong đó 250 triệu đồng được Bộ Công Thương hỗ trợ thông qua Chương trình khuyến công quốc gia. PT Computer đã đầu tư nhà xưởng, mua sắm thiết bị, máy móc hiện đại. Sau một thời gian ngắn nghiên cứu và khảo sát thị trường, công ty đã thử nghiệm thành công và đưa vào sản xuất đại trà sản phẩm than sạch từ phế phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, cành cây, mùn cưa, cám, hạt bông trấu….

Ông Nguyễn Đăng Thuyết – Giám đốc Công ty TNHH MTV PT Computer cho biết, sau khi được ép thành khối và xử lý cabon, các phụ phẩm nông lâm nghiệp này hóa thành sản phẩm có tính năng tương tự như than hoa trong tự nhiên nhưng ưu việt hơn vì khi cháy không sinh ra khói và có nhiệt độ cao gấp 50-70% so với nguyên liệu thông thường, có thể dùng cho các loại bếp – bếp lò, lò sưởi, lò sấy và bếp hóa khí PRAIRIE, và có thể dùng sưởi ấm trong mùa đông mà không độc hại như than đá và đặc biệt có giá thành rẻ, rất phù hợp cho những người dân có thu nhập thấp.

Với chi phí sản xuất vào khoảng 2,7 triệu đồng/1 tấn than sạch và giá bán ra thị trường là 2,9 triệu đồng/tấn thì tỷ suất lợi nhuân sau thuế có thể đạt 6%.  Mỗi tháng, công ty cung ứng ra thị trường nội địa 20-30 tấn than sạch, dự kiến thời gian thu hồi vốn là 5,2 năm. Dự án sẽ tạo công ăn việc làm ổn định cho khoảng 15 lao động địa phương với thu nhập trung bình 3.000.000 đồng/người/tháng.

Ông Hoàng Đức Khá – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Ninh khẳng định, trong quá trình đốt cháy, than được sản xuất từ phế phẩm nông nghiệp không có dư lượng khí sulfur dioxide và các chất khí độc hại khác nên không gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ người sử dụng. Đây được xem là một dự án điển hình trong tiết kiệm năng lượng và sản xuất sạch hơn khi nó không chỉ góp phần thay đổi nhận thức, phương thức sử dụng năng lượng trong sản xuất cũng như tiêu dùng năng lượng trong sinh hoạt của người dân trong vùng mà còn mở ra hướng đi mới trong việc xử lý các phụ phẩm thải bỏ trong sản xuất nông lâm nghiệp.

Cũng theo ông Khá, than sạch đã và đang tạo được niềm tin cho khách hàng, ngay cả khi cạnh tranh trên thị trường than đốt ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Vì vậy, trong thời gian tới, cùng với sự quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp để phát triển thị trường thì Quảng Ninh mong muốn sẽ nhân rộng mô hình này trên địa bàn toàn tỉnh.

Theo Thu Hường – ven.vn

Doximex: Hiệu quả bước đầu từ sản xuất sạch hơn

Triển khai chương trình sản xuất sạch hơn (SXSH), khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động theo tiêu chuẩn SA 8000, tổ chức sắp xếp lại quản lý nội vi theo 5S, cải tiến môi trường công nghệ … là những giải pháp mà nhiều doanh nghiệp dệt may đang triển khai thực hiện nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, kiểm soát ô nhiễm tại nguồn, trong đó có công ty TNHH MTV Dệt kim Đông Xuân (Doximex).

Doximex: Hiệu quả bước đầu từ sản xuất sạch hơn
Dây chuyền máy dệt kim

Từ năm 2005, Doximex đã triển khai chương trình 5S dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia Nhật Bản. Đây thực sự là công cụ quản lý nội vi dễ thực hiện nhưng đem lại hiệu quả lớn. 5S đã giúp loại bỏ tức thời các lãng phí như thời gian, không gian, nguyên vật liệu… và còn giúp tạo ra và duy trì nề nếp làm việc công nghiệp, đồng thời thúc đẩy khả năng sáng tạo của tất cả mọi người và tạo ra phong trào cải tiến liên tục trong công ty.

Từ năm 2012-2014, nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã được Doximex lựa chọn và áp dụng vào sản xuất và kinh doanh của công ty, đem lại lợi ích về kinh tế và môi trường, xã hội cho DN và cộng đồng với số tiền làm lợi lên đến trên 87 triệu đồng/mỗi năm nhờ áp dụng các cải tiến vào sản xuất, giúp tiết kiệm thời gian gia công sản phẩm, tiết giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Doximex cũng áp dụng nhiều giải pháp khác nhằm tiết kiệm chi phí điện năng như lắp đặt biến tần cho các động cơ bơm nước, các động cơ trục chính, động cơ máy dệt…, thay thế lò hơi đốt than cũ bằng lò hơi lớn hơn và có hiệu suất cao hơn; thay thế một số bóng đèn cao áp thủy ngân công suất 250W có hiệu suất chiếu sáng thấp và tiêu tốn năng lượng bằng các đèn compact 75W tiết kiệm điện…

Ông Hoàng Minh Lâm – Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm Năng lượng Hà Nội (ECC Hà nội) cho biết: “Dệt kim Đông Xuân mới chỉ tiếp cận với phương pháp SXSH, hiện tại tiềm năng để áp dụng SXSH của công ty còn rất lớn như: ngăn chặn lượng bụi phát sinh trong quá trình dệt bằng giải pháp cải tạo lại nền nhà xưởng, tạo hệ thống hút bụi ‘âm sàn’; tiến hành bọc bảo ôn cho đường ống, van… của hệ thống phân phối lò hơi trong xưởng tại xí nghiệm dệt; công ty chưa tận dụng nhiệt khí thải ra từ lò hơi, nước ngưng thu hồi chưa triệt để; công ty cũng chưa có kế hoạch điều chỉnh sản xuất tránh giờ cao điểm cho các thiết bị công suất lớn; tại khu vực dệt, lượng bụi phát sinh vẫn nhiều, chưa có giải pháp hiệu quả trong khi đó bụi phát sinh từ lò hơi đốt than thì DN đã xử lý bằng hệ thống xyclone nhưng chỉ hạn chế được lượng bụi có kích cỡ lớn còn một lượng đáng kể vẫn bị phát tán ra môi trường qua ống khói lò hơi cao 18m; lắp biến tần cho bơm dầu tải nhiệt công suất 30kW nhằm giảm lượng điện tiêu hao…”.

Để chương trình SXSH phát huy hiệu quả hơn nữa, các chuyên gia tư vấn của ECC Hà Nội cũng khuyến nghị Doximex nên có kế hoạch để từng bước triển khai đối với các hạng mục có đầu tư về chí phí và phải thực hiện ngay công tác tăng cường quản lý nội vi và bảo dưỡng thiết bị, máy móc định kỳ, đồng thời phải luôn cập nhật các chi phí sản xuất sao cho nằm trong định mức cho phép. Cuối cùng là công ty phải tổ chức đào tạo nâng cao nhận thức về SXSH cho công nhân cũng như liên tục theo dõi và duy trì các kết quả của chương trình SXSH.

Theo Minh Kỳ – ven.vn

Thúc đẩy hoạt động liên quan đến năng lượng sạch

Sáng 29/8, Đại hội lần thứ nhất thành lập Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam (VCEA) đã được tổ chức tại Hà Nội.

 

1

Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 637 QĐ/BNV ngày 29/7/2015 của Bộ Nội vụ; hoạt động với tôn chỉ, mục đích là tổ chức xã hội-nghề nghiệp tự nguyện của các tổ chức pháp nhân và công dân cùng có chung mục đích với tiêu chí “Tất cả vì sự nghiệp phát triển năng lượng sạch”.

Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam (VECA) có phạm vi hoạt động trên cả nước, trong lĩnh vực năng lượng sạch; chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Công Thương và các bộ, ngành khác có liên quan theo quy định của pháp luật.

Thành viên của Hiệp hội là các nhà đầu tư, khai thác, sản xuất, sử dụng các nguồn năng lượng sơ cấp tái tạo xanh, sạch, ít tác động tiêu cực đến môi trường như thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện địa nhiệt…; các nhà đầu tư sản xuất nhiệt điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch (than đá, sản phẩm dầu, khí đốt) áp dụng công nghệ sạch, công nghệ thân thiện môi trường; các nhà đầu tư, khai thác, cung cấp, sử dụng năng lượng sinh học; các nhà đầu tư, khai thác, cung cấp, sử dụng sản phẩm dân sinh sạch; các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực năng lượng sạch về tư vấn khoa học, kỹ thuật, công nghệ, chuyển giao công nghệ, môi trường…

Sự ra đời của Hiệp hội nhằm thúc đẩy các hoạt động về bảo đảm năng lượng sạch và chính sách phát triển năng lượng sạch Việt Nam, từng bước góp phần nâng cao tỉ lệ sử dụng năng lượng sạch trong nền kinh tế.

Phát biểu với đại biểu Hiệp hội, Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng cho rằng những năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, rất nhiều thiên tai như bão lũ, hạn hán, xói lở bờ biển đã xảy ra tại nhiều địa phương, gây thiệt hại rất lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.  Vì vậy, cần thiết phải có cuộc cách mạng thay đổi nhận thức về bảo vệ môi trường, nhất là khi những nguồn năng lượng hoá thạch sẽ cạn kiệt trong thời gian không xa. “Cuộc cách mạng” tất yếu đó là cuộc cách mạng về sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Theo Phan Trang – baochinhphu.vn

 

 

Hội thảo “Công nghệ xanh – công nghệ sạch thúc đẩy phát triển đô thị bền vững”

Ngày 20/8/2015, tại Bà Rịa – Vũng Tàu, Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức hội thảo “Công nghệ xanh – công nghệ sạch thúc đẩy phát triển đô thị bền vững”. Hội thảo có sự tham gia của hơn 100 đại biểu đến từ các sở, ngành, hiệp hội và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích và môi trường đô thị tại địa phương và tỉnh Bình Thuận, Đồng Nai.

228_san_xuat_sach

 

Hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ chuỗi các sự kiện trình diễn và kết nối cung – cầu công nghệ năm 2015 với sự kiện chính sẽ được tổ chức tại Thành phố Vũng Tàu vào tháng 11 năm nay.

Mục tiêu của hội thảo là nhằm giới thiệu các công nghệ được phát triển dựa trên nền tảng độc quyền sáng chế có xuất xứ từ châu Âu, Hàn Quốc và Việt Nam trong các lĩnh vực cải tạo và phát triển cảnh quan đô thị, tiết kiệm năng lượng, xử lý và sản xuất điện năng từ rác thải đô thị, bao gồm: công nghệ trồng cây không cần tưới nước, công nghệ giữ nước cho thảm xanh và gốc cây, công nghệ chiếu sáng và trang trí cảnh quan đô thị tiết kiệm điện năng và sử dụng năng lượng mặt trời, công nghệ chống ngập do triều cường sử dụng hố ga đặc biệt, công nghệ xử lý rác thải kết hợp sản xuất điện năng, nhiệt năng, công nghệ xây dựng nhà dây căng.

Theo đánh giá của ông Mai Thanh Quang – Giám đốc Sở KH&CN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thì các công nghệ được giới thiệu tại hội thảo đều có tiềm năng ứng dụng to lớn tại Bà Rịa – Vũng Tàu, góp phần giải bài toán phát triển hài hòa, bền vững và không làm phá hủy cảnh quan, môi trường – điều đang là trăn trở đối với Lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh cũng như các sở ban ngành liên quan.

Theo Minh Kỳ – ven.vn

 

Công ty TNHH Nam Dược: Công nghệ xanh, môi trường sạch, sản phẩm an toàn

Theo thống kê, cả nước hiện có 322 đơn vị và cơ sở sản xuất thuốc từ dược liệu, trong có chỉ có trên 10 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn GMP-WHO. Việc đầu tư vào công nghệ sản xuất giúp đảm bảo chất lượng sản phẩm và kiểm soát ô nhiễm tại nguồn. Ý thức được điều đó, ngay từ khi bắt đầu xây dựng Dự án Nhà máy sản xuất thuốc Nam Dược, công ty TNHH Nam Dược đã áp dụng công cụ quản lý và công nghệ hiện đại vào sản xuất nhằm cho ra thị trường sản phẩm đạt tiêu chuẩn GMP-WHO, môi trường sạch, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu đầu vào.

Công ty TNHH Nam Dược : Công nghệ xanh, môi trường sạch, sản phẩm an toàn
Nam Dược là nhà máy đông dược đầu tiên tại miền Bắc đạt chuẩn GMP-WHO và bộ tích hợp IMS

Là một doanh nghiệp (DN) sản xuất, kinh doanh sản phẩm trực tiếp ảnh hướng tới sức khỏe của con người, công ty luôn xác định công nghệ tiên tiến, dây chuyền máy móc thiết bị hiện đại đồng bộ được xây dựng và lắp đặt tuân theo các yêu cầu của WHO là một trong những yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm, giúp sử dụng nguyên nhiên vật liệu hiệu quả và kiểm soát tốt môi trường.

Năm 2013, công ty đã mở rộng dây chuyền sản xuất thực phẩm chức năng, xây dựng nhà xưởng khép kín cùng với khu sản xuất thuốc đông dược có hệ thống điều hòa và xử lý không khí các cấp độ, đảm bảo môi trường sản xuất trong sạch. Các dây chuyền thiết bị sản xuất được bố trí hợp lý, góp phần nâng cao năng suất lao động.

Phòng kiểm định vi sinh được trang bị thiết bị tạo dòng không khí bất định hướng, tạo điều kiện cho kiểm tra vô trùng và một số kiểm tra vi sinh khác. Áp suất ở mỗi khu vực trong phòng là không giống nhau để tránh hiện tượng phát tán ô nhiễm. Các yếu tố như hướng khí, tốc độ khí, hiệu quả lọc HEPA và thiết bị giám sát môi trường thường xuyên được kiểm tra.

Đối với hệ thống xử lý khí thải phòng kiểm nghiệm, với hệ thống quạt hút và tủ hút tại các phòng thí nghiệm và các kho hóa chất, toàn bộ khí thải của phòng thí nghiệm được thu gom tại hộp thu gom, giảm âm để điều tiết lưu lượng cho quạt hút khí thải công suất 4,5 kW không gây ra tiếng ồn và rung. Thông qua đường ống dẫn khí bằng ống PVC (chịu được hóa chất), khí thải từ hộp thu gom được đưa vào thiết bị lọc. Sau khi ra khỏi thiết bị này, khí đạt tiêu chuẩn quy định sẽ được thải thẳng vào môi trường.

Hệ thống cấp nước của nhà máy là hệ thống nước tuần hoàn làm mát với lưu lượng 275m3/h, nước được xử lý bằng thiết bị làm mềm điện tử và trao đổi cation. Hệ thống xử lý nước thải của nhà máy được thiết kế ngầm dưới đất. Nước thải theo đường ống dẫn, tập trung vào bể chứa, được xử lý bằng phương pháp vi sinh lắng lọc với công suất 5m3/h. Nước thải đầu ra đạt tiêu chuẩn quy định (BOD=20mg/l).

Nam Dược là một trong số ít các DN sản xuất dược phẩm trong cả nước đạt tiêu chuẩn GMP-WHO và là DN sản xuất dược phẩm đầu tiên ở Việt Nam được cấp Chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng tích hợp theo tiêu chuẩn quốc tế. Cùng với việc hiện đại hóa công nghệ, tối ưu các quy trình sản xuất nhằm tiết giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tiết kiệm năng lượng, kiểm soát tốt ô nhiễm tại nguồn đã góp phần làm cho thương hiệu Nam Dược chiếm được trái tim của người tiêu dùng Việt Nam.

Theo Minh Kỳ – ven.vn

Xuất khẩu cá tra sang EU: Tăng cường “kéo” thị trường và “đẩy” doanh nghiệp

Trong 6 tháng đầu năm 2015, giá trị xuất khẩu cá tra ước đạt 750 triệu USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường Châu Âu  đạt 142,6 triệu USD, giảm 17,6% và chiếm 19% tổng giá trị xuất khẩu.

Xuất khẩu cá tra sang EU: Tăng cường “kéo” thị trường và “đẩy” DN
Bà Lê Hằng, Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Xúc tiến Thương mại thuộc Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng các Doanh nghiệp (DN) xuất khẩu cá tra cần nâng cao chất lượng sản phẩm, ghi nhãn và công khai chất lượng sản phẩm trên bao bì, đồng thời phát huy tối đa lợi ích các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển cá tra cho mục tiêu giảm giá thành sản xuất, hướng tới phát triển bền vững.
Xuất khẩu cá tra sang châu Âu sụt giảmViệc xuất khẩu cá tra sang thị trường châu Âu suy giảm trong thời gian gần đây, bên cạnh các yếu tố khách quan như đồng EUR hạ thấp kỷ lục so với đồng USD, kinh tế châu Âu khó khăn, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu thì nguyên nhân chính là bị ảnh hưởng do sự cạnh tranh quyết liệt của DN các nước khác.

Cùng với đó, các sản phẩm cá tra của Việt Nam còn đơn điệu, chưa đa dạng chủng loại dẫn đến không gây hấp dẫn và thu hút người tiêu dùng.

Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này được lý giải là do những yếu kém nội tại của ngành cá tra Việt Nam như công nghệ chế biến lạc hậu, sản phẩm xuất đi chủ yếu là sản phẩm thô, sơ chế; truyền thông, tiếp thị sản phẩm còn yếu,…

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, cá tra Việt Nam vẫn còn nhiều cơ hội phát triển bền vững tại thị trường châu Âu nếu như khắc phục được những điểm yếu thực tại nói trên. Các chuyên gia thuộc Dự án Xây dựng chuỗi cung ứng cá tra bền vững tại Việt Nam (SUPA) cho biết, người tiêu dùng châu Âu vẫn ưa chuộng cá tra do dinh dưỡng cao, thơm ngon, không có xương ngang, dễ chế biến và giá bán phù hợp.

Tăng cường“kéo” thị trường và “đẩy” DN

Chuyên gia Lê Xuân Thịnh đến từ Trung tâm sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC), cơ quan điều phối chương trình SWITCH-Asia nhằm phát triển Dự án SUPA cho rằng, cần phải tăng cường “kéo” thị trường và “đẩy” DN.

Ông Thịnh lý giải, “kéo” thị trường ở đây tức là việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại, marketing, phát triển trung tâm thông tin và quảng bá thủy sản Việt Nam ở nước ngoài.

Còn “đẩy” DN là các DN cần phải nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm; cắt giảm chi phí giá thành sản xuất để tăng tính cạnh tranh thông qua tối ưu hóa quá trình sản xuất, áp dụng công nghệ mới. Ghi nhãn và công khai minh bạch chất lượng sản phẩm trên bao bì. Đồng thời phát huy tối đa lợi ích các chương trình, dự án hỗ trợ cho mục tiêu giảm giá thành sản xuất, hướng tới phát triển bền vững..

Ông Thịnh cho biết, thời gian qua, Dự án SUPA đã hỗ trợ rất tích cực trong việc “kéo” thị trường và “ đẩy” DN.

Cụ thể, Dự án SUPA đã có những báo cáo thị trường tiềm năng cho cá tra Việt Nam ở các nước châu Âu, đồng thời, làm việc với các nhà bán lẻ, nhập khẩu và phân phối của châu Âu để tìm hiểu nhu cầu và quảng bá cá tra Việt Nam; hỗ trợ 12 DN tham dự Hội chợ thủy sản Brussels trong 2 năm 2014 và 2015.

Dự án SUPA cũng nghiên cứu, hỗ trợ kỹ thuật cho vùng nuôi, tập huấn, chuyển giao công nghệ cho hơn 200 hộ ở An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ. Bên cạnh đó, cũng lựa chọn 54 DN chế biến để đánh giá chi tiết, qua đó, hỗ trợ đổi mới và phát triển sản phẩm bền vững.

Góp ý về việc “kéo” thị trường, ông Alfons Van Duijvenbode đến từ Trung tâm xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển (CBI Hà Lan) cho rằng, muốn tăng niềm tin của người tiêu dùng tại châu Âu về các món ăn từ cá tra, các DN Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược tuyên truyền marketing, với nhiều hình thức khác nhau.

Các DN phải phát triển những giá trị thương hiệu và xác nhận giá trị cá tra như một món ăn lý tưởng, dễ chế biến, là sự lựa chọn lành mạnh và có trách nhiệm, là món nên ăn hàng ngày.

Bên cạnh đó, việc hợp tác với các nhà nhập khẩu và phân phối tại thị trường châu Âu, đảm bảo sự minh bạch và uy tín cũng là những yếu tố giúp DN xuất khẩu cá tra mở rộng thị phần.

Theo Báo Điện tử Chính phủ