Giải pháp cho xu hướng năng lượng xanh tại Việt Nam

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25-9-2012.

Để thực hiện chiến lược này, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020, bao gồm bốn chủ đề chính là: (1) Xây dựng thể chế và kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương; (2) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; (3) Thực hiện xanh hóa sản xuất; và (4) Thực hiện xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững.

Hiện trạng và tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo

Theo báo cáo của Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng điện 3 (PECC3), tiềm năng công suất về năng lượng gió trên đất liền của Việt Nam là 21.500 MW, trong khi hiện tại toàn quốc chỉ có ba nhà máy đang vận hành với tổng công suất 52 MW, chưa đầy 0,25% so với tiềm năng.

Trong khi đó, với nguồn bức xạ và thời gian nắng dài tại miền Trung và miền Nam, nếu có chính sách tốt, chỉ cần một nửa số hộ dân tại TPHCM lắp đặt 1 kWp/hộ, thì đã có thêm 1.000 MW công suất điện mặt trời. Đó là chưa tính đến tiềm năng lắp đặt tại các tòa nhà, công sở, cơ sở công nghiệp, các vùng đất trống… và tính ra toàn quốc thì tiềm năng phát triển điện mặt trời cực kỳ lớn. Tuy vậy, đến nay chỉ mới chưa đầy 1 MW công suất lắp đặt điện mặt trời trên toàn lãnh thổ Việt Nam, theo một báo cáo tổng hợp của ông Trịnh Quang Dũng tháng 5-2015.

Về năng lượng sinh khối (biomass), chỉ riêng về trấu thì tiềm năng lý thuyết phát điện cho 9 triệu tấn trấu trên toàn quốc hiện nay đã là 4.800 MW, nhưng hiện nay chưa có nhà máy nhiệt điện trấu nào vận hành. Hiện có 40 nhà máy đường sử dụng bã mía để đồng phát nhiệt và điện nhưng chỉ có sáu nhà máy trong số đó bán điện lên lưới quốc gia với tổng công suất lắp đặt 88,5 MW, theo số liệu của GIZ năm 2014. Là một nước nông nghiệp phát triển, nhưng việc sử dụng các phụ phẩm nông nghiệp như rơm, trấu, vỏ đậu phộng, vỏ cà phê, vỏ hạt điều, phế thải sau thu hoạch mía, bắp… vẫn chưa hiệu quả.

Năng lượng sinh học (biogas) quy mô nhỏ đã được phát triển và sử dụng tốt ở các hộ gia đình và tại một vài nhà máy xử lý nước thải thu hồi khí sinh học. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy thời điểm năm 2009, lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị là 19 triệu tấn/năm, và gia tăng hàng năm với tốc độ 10%. Tiềm năng phát điện từ đốt rác khoảng hơn 200 MW, nhưng đến nay chưa có nhà máy đốt rác phát điện nào tại Việt Nam vận hành. Duy nhất tại bãi chôn lấp rác Gò Cát (TPHCM) có nhà máy phát điện từ khí thải bãi rác, công suất 2,4 MW nhưng vận hành không ổn định vì đã qua thời kỳ cao điểm tạo khí.

Hiện trên cả nước có 98 bãi chôn lấp rác, không kể 458 bãi rác quy mô nhỏ khác. Tuy nhiên, chỉ có 16/98 bãi chôn lấp được thiết kế đúng quy chuẩn, còn lại hầu hết các bãi chôn lấp khác không được đầu tư bài bản, vẫn còn các bãi rác lộ thiên không hợp vệ sinh, luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm đất, nguồn nước, không khí. Việc cải thiện môi trường tại các bãi rác này đồng thời với thu gom khí thải bãi rác để phát điện cũng sẽ tạo ra nguồn điện năng rất lớn nhưng hầu như chưa được quan tâm thực hiện.

Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, gồm điện gió, điện sinh khối, điện từ rác thải, và sắp đến là điện mặt trời. Tuy vậy, việc đầu tư phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam vẫn đang diễn ra rất chậm, và nút thắt lớn nhất vẫn là giá mua điện thấp từ năng lượng tái tạo. Giá mua cao nhất cho nguồn điện từ năng lượng tái tạo là các dự án đốt rác phát điện với 10,05 xu Mỹ/kWh, tuy vậy lại chưa có quy hoạch về đốt rác phát điện tại các địa phương và quốc gia, chưa có khung giá về phí xử lý rác thải sinh hoạt như là một nguồn thu khác cho các dự án đốt rác phát điện.

Dự án điện gió Bạc Liêu

Trong khi đó, giá mua điện từ các nhà máy điện gió theo Quyết định 37/2011/QĐ-TTg là 7,8 xu Mỹ/kWh, cao hơn một chút là giá mua điện từ nhà máy điện gió gần bờ của Công ty Công Lý (Bạc Liêu) với 9,8 xu Mỹ/kWh. Tính trên bình diện chung so với quốc tế, mức giá mua điện từ các nhà máy điện từ năng lượng tái tạo tại Việt Nam chỉ đạt 50-70% so với kỳ vọng của các nhà đầu tư.

Làm sao phát triển đầu tư xanh và tiết kiệm năng lượng

Việc ưu tiên phát triển đầu tư xanh là một nội dung trong bốn chủ đề chính trong Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh, đó là thực hiện xanh hóa sản xuất. Trong một thời gian dài, chúng ta tập trung quá nhiều vào việc thu hút đầu tư và đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cao mà không kiểm soát chặt chẽ nhu cầu và hiệu suất sử dụng năng lượng của các ngành công nghiệp cũng như các công nghệ sản xuất. Điển hình của việc này là phát triển ồ ạt các nhà máy xi măng, các nhà máy luyện thép là những ngành công nghiệp tiêu tốn rất nhiều năng lượng và tài nguyên. Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy chỉ riêng ngành xi măng và ngành thép đã sử dụng đến 20% tổng điện năng tiêu thụ trong tất cả các ngành công nghiệp tại Việt Nam.

Theo tính toán của Bộ Xây dựng, chỉ tính riêng ngành xi măng tại Việt Nam, khả năng thu hồi nhiệt để phát điện tự dùng tại nhà máy xi măng đã có tiềm năng công suất trên 200 MW, có thể đảm bảo tự cung cấp từ 20-30% nhu cầu sử dụng điện cho các nhà máy xi măng.

Chúng ta đã và đang triển khai Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, nhưng việc thực hiện chưa đi sâu vào các giải pháp mang tính cải thiện và đổi mới công nghệ, mà chủ yếu chỉ mới tập trung vào các giải pháp quản lý nội vi, giải pháp quản lý và ít đầu tư. Để đẩy mạnh việc thực hiện tiết kiệm năng lượng một cách thực chất, cần có các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, nhất là các giải pháp về cải thiện và đổi mới công nghệ, cũng như xây dựng và tạo lập thị trường dịch vụ năng lượng để thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài.

Rõ ràng, ưu tiên phát triển đầu tư xanh, lựa chọn những ngành kinh tế, lĩnh vực công nghiệp hoặc các công nghệ phát thải carbon thấp là lựa chọn thông minh để vẫn đạt mục tiêu tăng trưởng cao trong khi vẫn duy trì nhu cầu về năng lượng ở mức thấp, như cách mà Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản đang thực hiện rất thành công.

Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn

Thái Nguyên “cán đích” nhiều chỉ tiêu sản xuất sạch hơn

Sau 6 năm thực hiện Chiến lược quốc gia về Sản xuất sạch hơn (SXSH) đến năm 2020, tỉnh Thái Nguyên đã hoàn thành và các đích sớm nhiều chỉ tiêu mà Chiến lược này đặt ra đến năm 2015.

Thái Nguyên “cán đích” nhiều chỉ tiêu sản xuất sạch hơn

Chiến lược quốc gia về SXSH đặt ra mục tiêu đến năm 2015 có 50% tỷ lệ cơ sở sản xuất công nghiệp nhận thức được lợi ích của SXSH, 25% tỷ lệ cơ sở sản xuất áp dụng SXSH, tỷ lệ tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu đối với các cơ sở đã áp dụng SXSH là 5-8%. Với nhiều giải pháp đồng bộ, Thái Nguyên đã sớm về đích trong nhiều chỉ tiêu. Đến hết năm 2014, tỷ lệ cơ sở sản xuất công nghiệp nhận thức được SXSH của tỉnh đạt 60%; tỷ lệ cơ sở sản xuất áp dụng SXSH đạt 27%; tỷ lệ tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu trong các doanh nghiệp (DN) áp dụng SXSH là 7%; tỷ lệ DN vừa và lớn có bộ phận chuyên trách về hoạt động SXSH đạt 80% và số lượng cán bộ của Sở Công Thương tỉnh được đào tạo về SXSH là 10 người.

Theo ông Nguyễn Đình Hùng – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp tỉnh Thái Nguyên cho biết: “Trong giai đoạn 2009-2015, bên cạnh việc nâng cao công tác tuyên truyền về SXSH trong công nghiệp đến các DN và cán bộ quản lý, chúng tôi đã tổ chức được 8 hội thảo và 15 khóa tập huấn về SXSH, 65  bài viết và  phim tư liệu về SXSH đã được đăng tải trên báo, tạp chí và truyền hình… Đặc biệt tổng kinh phí dành cho hoạt động này tại Thái Nguyên đã lên đến gần 24,8 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ thông qua Hợp phần SXSH trong công nghiệp đạt trên 12,6 tỷ đồng, còn lại là nguồn ngân sách địa phương và vốn đối ứng của DN.”

Nguyên nhân của thành công trên theo ông Hùng chính là công tác tuyên truyền và thành công từ các mô hình điểm cũng như hiệu quả mà SXSH mang lại. Trước khi áp dụng SXSH, Công ty CP Giấy xuất khẩu Thái Nguyên là DN nằm trong danh sách “đen” – các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Với sự hỗ trợ của Hợp phần SXSH, công ty đã áp dụng một loạt các giải pháp chủ yếu thuộc nhóm quản lý nội vi, cải tiến thiết bị và thay thế nguyên liệu. Theo đó, công ty đã tái sử dụng dịch ngâm dầu, thu hồi bột thải và tuần hoàn nước, che chắn khu vực xử lý nguyên liệu, cải tiến các bể ngâm ủ… Kết quả, hằng năm công ty giảm được gần 40.000m3 nước thải, thu hồi tái sử dụng 152 tấn bột giấy và 27,5 tấn sút (NaOH). SXSH không những giúp giảm thiểu các tác động đến môi trường mà còn mang lại lợi ích kinh tế rất đáng kể – trên 1,3 tỷ đồng mỗi năm, đồng thời DN đã ra khỏi danh sách “đen” về ô nhiễm môi trường.

Hiệu quả rõ rệt của các mô hình SXSH là động lực lớn để ngày càng có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh áp dụng SXSH. Bằng cách chủ động rà soát công nghệ, quy trình sản xuất, áp dụng các giải pháp đơn giản, tiết kiệm đầu vào, cải thiện điều kiện làm việc, các đơn vị như: Công ty CP Cơ khí Phổ Yên, Công ty Cơ khí Tân Lập, Công ty Diezen Sông Công… đã đạt được kết quả cao trong sản xuất, tạo giá trị gia tăng cho DN, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.

Theo các chuyên gia tư vấn về SXSH, mọi cơ sở sản xuất không phân biệt quy mô và ngành nghề đều có thể áp dụng SXSH. SXSH là hướng đi tất yếu cho DN nào muốn phát triển bền vững. Đối với Thái Nguyên, một trung tâm công nghiệp, việc thúc đẩy SXSH lại càng trở nên cần thiết và cấp bách vì sự phát triển bền vững của các DN.

Theo Thu Hường – ven.vn

Lượng phát thải có thể lên đến 466 triệu tấn CO2 vào năm 2020

Ngày 28/7, Hội nghị tổng kết Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2010-2015 do Bộ Công Thương tổ chức đã diễn ra tại Hà Nội.

Báo cáo tại Hội nghị, Phó Cục trưởng Cục An toàn môi trường Trần Văn Lượng cho biết, tổng lượng phát thải nhà kính của Việt Nam năm 2010 là 246,8 triệu tấn CO2 tương đương. Trong đó, lĩnh vực năng lượng phát thải 141,1 triệu tấn CO2 tương đương, chiếm 53%. Dự báo đến năm 2020 sẽ tiếp tục tăng nhanh, với tổng lượng phát thải lên đến 466 triệu tấn CO2; trong đó, lĩnh vực năng lượng là 381,1 triệu tấn, chiếm 81%.

Hiện các quốc gia trên thế giới có xu hướng sử dụng các công cụ thị trường liên quan đến định giá việc phát thải carbon. Cụ thể, việc phát thải carbon sẽ được định giá làm cơ sở hình thành thị trường carbon nội địa ở các quốc gia, khu vực và toàn cầu. Đây chính là cơ hội nhưng cũng là rào cản kỹ thuật đối với các quốc gia chưa kịp chuyển đổi sang nền kinh tế phát thải ít carbon.

Theo báo cáo, với tổng số vốn hơn 32 tỷ đồng trong 5 năm, Bộ Công Thương đã triển khai 11 dự án về tuyên truyền đào tạo nhận thức, năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, 14 dự án đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và đề xuất giải pháp ứng phó, cùng với đó là nhiều dự án xây dựng cơ chế, lồng ghép ứng phó biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển ngành Công Thương… Tuy nhiên, việc thí điểm áp dụng mô hình giảm phát thải khí nhà kính trong công nghiệp vẫn chưa được thực hiện.

Ông Nguyễn Văn Thanh, Cục trưởng Cục Hóa chất cho hay, sự phối hợp thực hiện giữa các đơn vị trong ngành Công Thương vẫn chưa tốt, do vậy mới chỉ thực hiện được ở các hoạt động về nghiên cứu, đào tạo. Bộ đã xây dựng các dự án về ứng phó biến đổi khí hậu nhưng nguồn kinh phí yếu và chưa có cơ chế hỗ trợ cụ thể nên chưa được thực hiện.

Nhiều ý kiến tại hội nghị cũng cho rằng, nguồn kinh phí cấp cho Chương trình còn hạn chế. Với 32 tỷ đồng trong 5 năm, như vậy, trung bình kinh phí cấp cho hoạt động chống biến đổi khí hậu mỗi năm chỉ khoảng 6 tỷ đồng.

Về giải pháp, ông Trần Văn Lượng cho rằng, cần huy động mọi nguồn lực từ ngân sách trung ương, địa phương và tài trợ quốc tế; lồng ghép thực hiện trong các chương trình hiện có như khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng… Đồng thời, về hợp tác quốc tế, cần tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm với các nước và tiếp nhận chuyển giao công nghệ ứng phó biến đổi khí hậu, sử dụng năng lượng hiệu quả…

Kết luận hội nghị, Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng yêu cầu các đơn vị cần tiếp tục rà soát kế hoạch của Bộ về chống biến đổi khí hậu, ngoài nhiệm vụ lâu dài là giảm phát thải nhà kính thì trong thời gian tới, phải tăng cường các giải pháp để chống biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao. Bên cạnh đó, tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, có cơ chế chính sách chống biến đổi khí hậu, đặc biệt xây dựng cơ chế quy hoạch cụ thể… Với nguồn kinh phí còn hạn chế, các đơn vị cần đưa ra các cơ chế, chính sách có lợi cho doanh nghiệp để khuyến khích và huy động doanh nghiệp tham gia chống biến đổi khí hậu.

Theo vietnamplus.vn

Tiết kiệm 1,6 tỷ đồng/năm nhờ sản xuất sạch hơn

Với những bước phát triển mạnh mẽ, chìa khoá thành công của Công ty Cổ phần Tập đoàn Thiên Long (gọi tắt Công ty Thiên Long) là nâng cao quản trị doanh nghiệp (DN), đổi mới sản phẩm theo xu hướng thị trường và sản xuất sạch hơn nhằm tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu, năng lượng đầu vào, tạo giá trị gia tăng cho doanh nghiệp cũng như đảm bảo yếu tố môi trường và trách nhiệm xã hội của DN.

Tiết kiệm 1,6 tỷ đồng/năm nhờ sản xuất sạch hơn
Sản xuất bút bi tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Thiên Long

Từ khi công ty được thành lập năm 1981 đến nay, ban lãnh đạo công ty luôn xác định rõ sứ mệnh của mình là xây dựng giá trị cốt lõi tạo nên thương hiệu Thiên Long trong lòng khách hàng với tiêu chí “Tiên phong trong công nghệ và sáng tạo để tạo ra những sản phẩm đột phá phục vụ người tiêu dùng, cùng nhau xây dựng cộng đồng Thiên Long phát triển vững mạnh, mang tính nhân đạo, nhân văn”.

Giữa năm 2011, công ty đã thành lập Ban cải tiến nhằm đề xuất các biện pháp cải tiến, kiểm tra và có chế độ khen thưởng cho cán bộ công nhân viên (CBCNV) có hoạt động, thành tích cải tiến.

Ông Bùi Văn Huống – Phó Tổng giám đốc công ty cho biết: “Sau khi được thành lập, Ban cải tiến đã đưa ra nhiều giải pháp cải tiến công nghệ giúp tiết kiệm năng lượng, kiểm soát ô nhiễm ngay từ đầu quá trình sản xuất, thay đổi thói quen sử dụng năng lượng sao cho hợp lý…. Các giải pháp này đã giúp công ty tiết kiệm mỗi năm trên 1,6 tỷ đồng”.

Công ty đã thay thế 13 máy ép nhựa loại truyền động thủy lực dùng bơm dầu không có biến tần bằng loại máy truyền động thủy lực dùng bơm dầu có biến tần, tiết kiệm 40% mức tiêu thụ điện năng so với máy cũ. Bên cạnh đó, công ty cũng mạnh dạn đầu tư 4 máy ép nhựa loại truyền động điện dùng động cơ servo, tiết kiệm đến 60% mức tiêu thụ điện năng.

Đối với hệ thống chiếu sáng tại phân xưởng ép, công ty đã thay thế đèn cao áp công suất 400W/bộ và mở suốt 24h/ngày bằng đèn huỳnh quang 16W cho mỗi máy ép, lắp công tắc riêng cho mỗi bộ đèn cao áp cũng như đèn huỳnh quang, mỗi ngày chỉ mở bình quân 3 bộ đèn cao áp và 30 đèn huỳnh quang. Đèn huỳnh quang T10 cũng được Ban cải tiến đề xuất thay thế bằng đèn huỳnh quang T8 và thay thế tôn sáng để hạn chế mở đèn vào ban ngày, nhằm tiết kiệm điện tại các phân xưởng sản xuất. Khối văn phòng cũng được quy định mở máy lạnh trễ 15 phút trước khi bắt đầu làm việc và tắt sớm hơn 15 phút trước khi hết giờ. Còn tại các kho, công ty cũng đã lắp tôn sáng để lấy ánh sáng tự nhiên, nhằm tiết kiệm điện….

Đặc biệt, công ty đã xây dựng Chương trình giảm thiểu chất thải trong sản xuất nhằm hướng đến mục tiêu sản xuất xanh – tiêu dùng bền vững; 100% phế liệu trong quá trình ép bán thành phẩm của công ty đã được tái chế và trở thành nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất.

Ông Huống cho biết: “Phát triển theo hướng xanh hơn không những giúp Thiên Long tiết giảm chi phí sản xuất nhờ sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng một cách hợp lý mà còn giúp công ty giảm chi phí hoạt động xử lý chất thải. Hiện nay, Thiên Long vẫn xác định áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn là một trong những chiến lược lâu dài của công ty, vừa giúp DN gia tăng lợi ích kinh tế, hiệu quả môi trường, trách nhiệm xã hội và nâng cao vị thế, uy tín và thương hiệu của DN trên thị trường trong và ngoài nước”.

Theo Minh Kỳ – baocungcau.vn

Ninh Bình: tập huấn sản xuất sạch hơn cho các doanh nghiệp công nghiệp

Sáng nay, 6/8/2015, Sở Công Thương Ninh Bình đã tổ chức lớp tập huấn SXSH trong công nghiệp cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Mặc dù thời tiết không thuận lợi nhưng các doanh nghiệp đã có mặt đông đủ tham gia lớp tập huấn. Hai diễn giả chính của lớp tập huấn là bà Kiều Nguyễn Việt Hà – Chuyên viên Văn phòng giúp việc Ban Điều hành Chiến lược SXSH trong công nghiệp, Bộ Công Thương và bà Tăng Thị Hồng Loan – Giám đốc Công ty CP Tư vấn Epro.

Khai mạc lớp tập huấn, ông Lương Xuân Bằng – Phó Giám đốc Sở Công Thương Ninh Bình nhấn mạnh, mục tiêu của lớp tập huấn là giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, nhiên liệu, giảm thiểu phát thải và hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, sức khỏe con người và đảm bảo sự phát triển bền vững. Ông Bằng cũng mong muốn, các doanh nghiệp tích cực tham gia trong quá trình tập huấn, tranh thủ giải đáp mọi vướng mắc để sau đó triển khai trong đơn vị, doanh nghiệp mình.

Các vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm như thế nào là SXSH, SXSH có lợi gì cho doanh nghiệp, tham gia SXSH doanh nghiệp có được hỗ trợ gì không… đã được các diễn giả giải đáp đầy đủ. Bên cạnh việc giới thiệu về Chiến lược SXSH trong công nghiệp với các mục tiêu cụ thể cho đến năm 2020, bà Kiều Nguyễn Việt Hà còn giới thiệu với các doanh nghiệp cách tiếp cận các nguồn vốn thông qua các Quỹ và các chương trình, dự án. Bà Tăng Thị Hồng Loan giới thiệu đến các doanh nghiệp lợi ích, hiệu quả của việc áp dụng các giải pháp SXSH và đưa ra những ví dụ rất cụ thể về các điển hình áp dụng SXSH thành công, đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho doanh nghiệp.

Bà Kiều Nguyễn Việt Hà giới thiệu những mục tiêu chính trong Chiến lược SXSH trong công nghiệp

Bà Kiều Nguyễn Việt Hà giới thiệu những mục tiêu chính trong Chiến lược SXSH trong công nghiệp

Được biết, ngày 26/5/2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình đã ban hành Quyết định số 499/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình Khuyến công tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016-2020, trong đó có Chương trình hỗ trợ áp dụng SXSH với kinh phí hỗ trợ 3,37 tỉ đồng. Riêng năm 2016, kinh phí cho hoạt động SXSH là 370 triệu đồng, trong đó 220 triệu đồng từ nguồn kinh phí địa phương và 150 triệu đồng từ các nguồn khác. Số tiền này sẽ được dùng để hỗ trợ tổ chức hội thảo, tập huấn về áp dụng SXSH trong công nghiệp cho các cơ sở công nghiệp nông thôn; xây dựng mô hình tiên tiến, thí điểm về áp dụng SXSH để phổ biến nhân rộng. Hỗ trợ tư vấn và áp dụng các giải pháp SXSH để khuyến khích nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo phát triển bền vững.

Theo Hồ Nga – tapchicongthuong.vn

Hỗ trợ kinh phí cho 28 mô hình sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu

Ngày 4/8, Ban điều phối thích ứng biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Trà Vinh (dự án AMD – Trà Vinh) triển khai kế hoạch thực hiện dự án từ nay đến cuối năm 2015.

Hỗ trợ kinh phí cho 28 mô hình sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu
Thu hoạch tôm nuôi trong nhà kính ở Bạc Liêu. (Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)
Ông Huỳnh Nghĩa Thọ, Giám đốc Ban điều phối Dự án AMD-Trà Vinh, cho biết Ban điều phối Dự án tiếp tục xây dựng năng lực thích ứng biến đổi khí hậu và đầu tư sinh kế bền vững cho cộng đồng trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.Dựa vào kết quả do Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Trà Vinh khảo sát tại 30 xã trên địa bàn tỉnh, Ban điều phối Dự án sẽ xây dựng và thống nhất mức trần kinh phí hỗ trợ cụ thể cho 28 mô hình; trong đó có 13 mô hình sản xuất trong các lĩnh vực trồng trọt, bảy mô hình chăn nuôi và tám mô hình thủy sản được đánh giá thích ứng với biến đổi khí hậu.

Ở lĩnh vực trồng trọt, nhiều mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao như chuyên canh rau, màu trên đất trồng lúa kém hiệu quả, trồng ngô giống, trồng lạc và dưa hấu tiết kiệm nước có thể nhân rộng ở khu vực đất giồng cát và triền giồng ở các huyện Cầu Ngang, Duyên Hải – các địa phương thường xuyên bị thiếu nước tưới trong mùa khô.

Trong lĩnh vực chăn nuôi, các mô hình sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu được hỗ trợ, gồm chăn nuôi lợn sinh sản, chăn nuôi lợn thịt, nuôi bò cái sinh sản, nuôi bò thịt, chăn nuôi dê, nuôi vịt đẻ trứng theo hướng an toàn sinh học kết hợp với thả cá và chăn nuôi gà thả vườn.

Ở lĩnh vực thủy sản, các mô hình hiệu quả được hỗ trợ gồm nuôi thủy sản kết hợp trồng rừng, nuôi tôm sú quảng canh cải tiến, nuôi tôm thẻ chân trắng ở các vùng sinh thái lợ và mặn, nuôi cá tai tượng trong mương vườn, nuôi sò huyết trên triền sông dưới tán rừng, nuôi tôm sú kết hợp cá rô phi, nuôi cá thác lác, mô hình lúa-tôm.

Các tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất theo các mô hình trên được Ban quản lý Dự án AMD-Trà Vinh xét duyệt sẽ được Quỹ đồng tài trợ mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu (Quỹ CCA) hỗ trợ không hoàn lại tối đa 50% tổng chi phí kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Những hộ cá thể được hỗ trợ tối đa 30 triệu đồng/hộ; những tổ, nhóm được hỗ trợ tối đa 750 triệu đồng/tổ, nhóm; số tiền còn lại do người hưởng lợi đóng góp.

Ngoài ra, từ nay đến cuối năm, các địa phương tham gia dự án còn được Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển giải ngân nguồn vốn gần 14 tỷ đồng cho các nhóm tiết kiệm tín dụng, nhằm giúp hộ nghèo tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi đầu tư cho sản xuất đúng mục đích và hiệu quả để thoát nghèo bền vững.

Dự án AMD-Trà Vinh thực hiện từ năm 2014 đến năm 2020 trên địa bàn 30 xã của bảy huyện trong tỉnh với 15.000 hộ nghèo, cận nghèo được hưởng lợi, do Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD) tài trợ.

Tổng vốn đầu tư của dự án 521 tỷ đồng; trong đó vốn vay của IFAD hơn 233 tỷ đồng, vốn tài trợ không hoàn lại hơn 126 tỷ đồng, vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam hơn 79 tỷ đồng và nguồn đóng góp của người dân được hưởng lợi hơn 81 tỷ đồng.

Mục tiêu tổng thể của dự án là xây dựng sinh kế bền vững cho người nghèo ở nông thôn trong điều kiện môi trường thay đổi; nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng để tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.

Theo TTXVN