Lễ ký kết Ý định thư về hợp tác phát triển năng lượng sạch và hiệu quả năng lượng

Ngày 29/7, tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã cùng Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) ký kết Ý định thư về hợp tác phát triển năng lượng sạch và hiệu quả năng lượng để thúc đẩy phát triển phát thải thấp bền vững tại Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng và ông Joakim Parker, Giám đốc USAID tham dự và phát biểu tại Lễ ký kết.

Trong khuôn khổ Ý định thư, Bộ Công Thương và USAID sẽ hợp tác thông qua một chương trình hỗ trợ kỹ thuật dự kiến kéo dài trong 5 năm. Bộ Công Thương và USAID cũng dự kiến sẽ tập trung vào các sáng kiến liên quan đến năng lực xây dựng và thực hiện các chính sách năng lượng hiệu quả; các biện pháp nâng cao hiệu quả năng lượng trong các lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng của nền kinh tế; và năng lượng của Chính phủ, khu vực tư nhân và các bên liên quan khác trong việc triển khai năng lượng tái tạo cho Việt Nam.

Lễ Ký kết Ý định thư về hợp tác phát triển năng lượng sạch và hiệu quả năng lượng

Phát biểu tại lễ ký kết, Thứ trưởng Cao Quốc Hưng cho biết, kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao từ năm 1995, quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực. Trên nền tảng Hiệp định về hợp tác kinh tế và kỹ thuật giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ được ký kết năm 2005 cũng như Chiến lược Hợp tác phát triển quốc gia giữa hai nước giai đoạn 2014 đến năm 2018, Hoa Kỳ đẩy mạnh hỗ trợ Việt Nam thực hiện Chương trình năng lượng sạch. Những nỗ lực và thiện chí hợp tác của Hoa Kỳ thông qua USAID sẽ góp phần thúc đẩy ngành năng lượng của Việt Nam phát triển theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường và tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc ký kết Ý định thư sẽ là cơ sở để xây dựng, triển khai các nội dung, dự án hợp tác của hai bên trong thời gian tới.

Thứ trưởng Cao Quốc Hưng phát biểu

Thứ trưởng Cao Quốc Hưng cũng tin tưởng, Ý định thư sẽ được cụ thể hóa bằng những hoạt động hợp tác hiệu quả trong lĩnh vực năng lượng, góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ song phương tốt đẹp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ

Ông Joakim Parker, Giám đốc USAID cho biết, sự hợp tác này nhằm hỗ trợ chiến lược về biến đổi khí hậu của Việt Nam. Đồng thời, hi vọng sự hợp tác này sẽ đem lại kết quả là phát triển năng lượng sạch và cải thiện hiệu quả năng lượng tại Việt Nam.

USAID hỗ trợ những nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu của Việt Nam thông qua một số sáng kiến, trong đó có Dự án Rừng và Đồng bằng Việt Nam, Dự án Năng lượng sạch Việt Nam, Dự án Tăng cường năng lực và cải cách thể chế cho Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, v.v…

Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương

Ứng phó BĐKH gắn với tăng trưởng xanh và bền vững

Sáng ngày 28/7 tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị tổng kết Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) của Bộ Công Thương giai đoạn 2010-2015.

Ứng phó BĐKH gắn với tăng trưởng xanh và bền vững

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động lớn của BĐKH. Công nghiệp, năng lượng, nông nghiệp… là những lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất. Nhận thức rõ vấn đề nên Bộ Công Thương là một trong những đơn vị đầu tiên xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về BĐKH.

Ông Trần Văn Lượng, Chánh Văn phòng BĐKH của Bộ Công Thương cho biết: Bằng nguồn ngân sách thực hiện Chương trình, Bộ Công Thương đã triển khai các hành động trong 6 nhóm nhiệm vụ, dự án và đã đạt được kết quả đáng khích lệ.

Đối với nhóm nhiệm vụ tuyên truyền, đào tạo nâng cao nhận thức: Thông qua 11 nhiệm vụ, các đơn vị đào tạo, truyền thông của Bộ đã xây dựng và tuyên truyền trên 350 tin, bài viết trên các Báo, Tạp chí, trang thông tin điện tử của đơn vị truyền thông thuộc Bộ; Tổ chức trên 10 cuộc hội thảo chuyên ngành về BĐKH; Tổ chức 8 lớp huấn luyện, đào tạo cho hơn 200 lượt cán bộ ở cấp Trung ương, địa phương và các doanh nghiệp ngành công thương về ứng phó BĐKH… Từ các kết quả thực hiện nhiệm vụ này có thể đánh giá nhận thức của một bộ phận các cán bộ, công chức viên chức người lao động của ngành đã được nâng cao.

Nhiệm vụ đánh giá tác động của BĐKH, nước biển dâng đến các lĩnh vực ngành Công Thương: Bộ Công Thương đã lựa chọn thực hiện 14 nhiệm vụ, đến nay đã xây dựng được 12 báo cáo kỹ thuật đánh giá tác động của BĐKH, nước biển dâng đến các lĩnh vực công nghiệp, thương mại nhạy cảm. Các lĩnh vực được triển khai gồm: Lĩnh vực công nghiệp, như khai thác than, sản xuất hóa chất, sản xuất thép, khai thác khoáng sản (titan, sắt và apatit), hạ tầng sản xuất và truyền tải ngành điện, lĩnh vực thủy điện, ngành sản xuất giấy và bột giấy, lĩnh vực thương mại; Các Quy hoạch phát triển công nghiệp và Quy hoạch phát triển thương mại bao gồm quy hoạch phát triển hạ tầng và định hướng phát triển…; Đảm bảo an ninh năng lượng cũng được đặt trong bối cảnh BĐKH.

Nhiệm vụ xây dựng và đề xuất các giải pháp cơ chế, chính sách, rà soát, lồng ghép ứng phó BĐKH vào kế hoạch phát triển ngành. Với nguồn kinh phí hơn 5 tỷ đồng, Chương trình đã triển khai 9 nhiệm vụ có tính chất nghiên cứu về các vấn đề: Lồng ghép BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành công thương; Các cơ chế hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo; Các cơ chế hỗ trợ phát triển công nghiệp theo hướng các bon thấp và một số nội dung liên quan đến hàng hóa các bon thấp, thiết bị, công nghệ phát thải thấp.

Nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng phó BĐKH, kiểm soát phát thải khí nhà kính cho ngành Công Thương. Chương trình đã hoàn thành quy trình kiểm kê phát thải khí nhà kính cho ngành thép và ngành hóa chất cơ bản; đồng thời xây dựng các biện pháp kiểm soát phát thải khí nhà kính cho lĩnh vực nhiệt điện đốt than, ngành khai thác và chế biến than, ngành sản xuất phân bón, ngành dệt may và ngành giấy đang được triển khai, dự kiến hoàn thành trong năm nay.

Bên cạnh đó là nhóm nhiệm vụ thí điểm áp dụng mô hình giảm phát thải khí nhà kính trong công nghiệp; Nhiệm vụ hợp tác quốc tế về ứng phó với BĐKH.

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng, Bộ Công Thương – Hoàng Quốc Vượng, Trưởng ban chỉ đạo đã đánh giá cao các hoạt động mà ngành Công Thương đạt được trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH của Bộ Công Thương giai đoạn 2010 – 2015. Thứ trưởng nhấn mạnh, nhiệm vụ của ngành công thương là rất nặng nề trong bối cảnh BĐKH đã trở thành vấn đề mang tính cấp bách, các cơ hội đan xen nhau nhưng các thách thức cũng đòi hỏi sự hợp tác lâu dài không chỉ trong nước mà còn trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh tác động mạnh của BĐKH, ngành Công Thương mong muốn tiếp tục nhận được sự hợp tác của các tổ chức hợp quốc tế, các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế xanh, phát triển các bon thấp…

Theo Báo Công Thương

Thẩm định đề tài “Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sạch hơn trong công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”

Ngày 22/7/2015, Hội đồng khoa học và công nghệ (HĐKH&CN) đã tiến hành thẩm định thuyết minh đề tài “Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sạch hơn trong công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”. Đề tài do Sở Công thương chủ trì; chủ nhiệm đề tài: CN. Lê Tiến Dũng; thời gian thực hiện đề tài là 12 tháng.
 Sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp là một trong những chiến lược quốc gia quan trọng, nhằm giúp nhà nước giảm gánh nặng về quản lý môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm; giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, bảo toàn nguyên liệu và năng lượng góp phần thực hiện mục tiêu hướng đến nền công nghiệp xanh.

Mục tiêu hướng đến của đề tài là góp phần thực hiện các mục tiêu đề ra tại Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị; nâng cao nhận thức, ý nghĩa của việc áp dụng sản xuất sạch hơn vào hoạt động sản xuất công nghiệp.

Theo đó, các nội dung thực hiện bao gồm: Khảo sát sơ bộ, phân tích lựa chọn 02 mô hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh để đánh giá khả năng áp dụng SXSH; triển khai đánh giá chi tiết SXSH tại 02 doanh nghiệp theo 05 bước: tổ chức và lập kế hoạch, chuẩn bị đánh giá, đánh giá, phân tích khả thi, tổng kết quá trình đánh giá; triển khai thực nghiệm áp dụng SXSH tại mô hình.

Sản phẩm dự kiến đạt được gồm phiếu khảo sát và bảng biểu tổng hợp; các báo cáo đánh giá về khả năng áp dụng SXSH, kết quả áp dụng SXSH, đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội; báo cáo tổng kết đề tài.

HĐKH&CN đánh giá về cơ bản chủ nhiệm đề tài đã có sự chuẩn bị chu đáo về các nội dung liên quan, các bước triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, HĐKH&CN cũng đã góp ý đề chủ nhiệm đề tài và cơ quan chủ trì hoàn thiện đầy đủ hơn các nội dung trong bản thuyết minh; cần lựa chọn doanh nghiệp mang tính đại diện cho tỉnh Quảng Trị để xây dựng mô hình ứng dụng khoa học công nghệ vào SXSH.

Theo dostquangtri.gov.vn

Năng suất tăng nhờ áp dụng chương trình sản xuất sạch vào ngành may

Các doanh nghiệp may áp dụng chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng hơn qua đó góp phần làm tăng năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm.

Hiện nay, làn sóng dịch chuyển đầu tư và thương mại dệt may từ các khu vực Trung Mỹ, Nam Mỹ, Nam Phi, Đông Âu, Nam Tây Âu… sang các nước sản xuất dệt may châu Á khá rõ nét. Tuy nhiên, tình hình cạnh tranh giữa các nước châu Á cũng rất khốc liệt. Thêm vào đó các rào cản kỹ thuật về lao động, môi trường, chống bán phá giá… từ các thị trường nhập khẩu lớn như Mỹ, Tây Âu mỗi ngày một thêm phức tạp. Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp dệt may trong nước cũng đã ý thức được tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin, bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng chú ý chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.

Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp dệt may đều có trang web, giao dịch qua e-mail, áp dụng các phần mềm quản lý và phần mềm nghiệp vụ, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thiết kế và sản xuất sản phẩm. Để đạt mục tiêu phát triển bền vững, lấy xuất khẩu làm trọng tâm, ngành dệt may nỗ lực nghiên cứu áp dụng các công nghệ, nguyên liệu mới để tạo ra các sản phẩm dệt có tính năng khác biệt. Áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm dệt may. Chẳng hạn, Trước đây, trong ngành nhuộm vải khách phải đem mẫu tới cho nhuộm thử, doanh nghiệp gửi trả mẫu khách duyệt mới tiến hành làm đại trà. Quy trình này chiếm hết cả tuần. Giờ nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, doanh nghiệp có thể làm việc với khách hàng qua mạng và nhuộm thử mẫu trên máy, khách đồng ý là có thể tiến hành sản xuất.

Năng suất, chất lượng được tập trung khi doanh nghiệp tiết kiệm năng lượng chi phí nhờ chương trình sản xuất sạch

Năng suất, chất lượng được tập trung khi doanh nghiệp tiết kiệm năng lượng chi phí nhờ chương trình sản xuất sạch 

Bên cạnh đó, các chương trình sản xuất tiết kiệm năng lượng giúp doanh nghiệp tập trung hơn vào năng suất, chất lượng sản phẩm. Là một trong những doanh nghiệp ngành dệt may tiên phong đầu tư, sử dụng những sản phẩm công nghệ thân thiện với môi trường, Tổng công ty CP dệt may Hà Nội (Hanosimex) đã đầu tư gần 223,5 triệu đồng lắp đặt thiết bị tiết kiệm điện cho máy may 3S. Ưu điểm của thiết bị này giúp giảm công suất động cơ lúc hoạt động không tải, đồng thời động cơ luôn hoạt động trong tình trạng tối ưu, hiệu suất cao và tiết kiệm điện trong suốt quá trình thấp tải.

Tương tự, Công ty May Tiên Hưng (Hưng Yên) đã lắp đặt 2 bơm nhiệt để thay thế lò hơi; sử dụng 35 đèn LED thay thế đèn compact; lắp đặt biến tần cho hệ thống bơm… Các thiết bị này đã giúp công ty tiết giảm được 177,6 triệu đồng/năm chi phí năng lượng.

Hai công ty nói trên chỉ là hai trong nhiều công ty áp dụng chương trình sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng, nhờ đó mà công ty hoạt động trong tình trạng tối ưu, đạt hiệu suất và năng suất, chất lượng cao.

Việc đầu tư cho các sản phẩm công nghệ thân thiện với môi trường không phải lúc nào cũng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư dài nhưng lợi ích mang lại vô cùng lớn. Lợi ích này không chỉ đơn thuần giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí trong sản xuất, mà còn chung tay góp phần hướng tới mục tiêu phát triển bền vững của ngành dệt may.

Theo Phương Khanh – vietq.vn

Giải pháp sản xuất sạch hơn: “8 giải pháp vàng” cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

Việc tham gia áp dụng và thực hiện sản xuất sạch hơn (SXSH) sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) một cách mạnh mẽ; tạo được lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường. Mặt khác, khi tham gia thực hiện SXSH, DN công nghiệp sẽ nhận được sự khuyến khích và được hưởng chính sách ưu đãi tài chính của Nhà nước.

Bên trong nhà máy dệt may thuộc Tập đoàn Esquel Group tại Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore ở Thuận An, Bình Dương

Bên trong nhà máy dệt may thuộc Tập đoàn Esquel Group tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore ở Thuận An, Bình Dương

Hưởng ứng xu thế chung của thế giới

Ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Canada, Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch từ những năm 1985-1990 đã áp dụng SXSH. Các nước ở châu Á và Đông Âu như Ấn Độ, Singapore, Thái Lan, Ba Lan, Tiệp, Hungari… từ năm 1993 trở lại đây.

Khái niệm SXSH vào Việt Nam bắt đầu từ những năm 1996 qua dự án của Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP). Với sự hỗ trợ của Chính phủ Thụy Sĩ và Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc UNIDO, năm 1998 Việt Nam đã thành lập Trung tâm SXSH Việt Nam đặt tại Viện Khoa học Công nghệ & Môi trường thuộc Đại học Bách khoa Hà Nội. Trung tâm này đã có những hoạt động thúc đẩy, quảng bá SXSH trong công nghiệp ở Việt Nam như: Đào tạo các chuyên gia tư vấn về SXSH, đưa SXSH vào chương trình đào tạo của một số trường đại học, tiến hành trình diễn đánh giá SXSH tại một số cơ sở sản xuất thuộc nhiều ngành công nghiệp, đào tạo nâng cao trình độ về SXSH cho các cán bộ kỹ thuật.

Từ năm 2000, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) đã có những hoạt động triển khai thực hiện SXSH, tham gia trong dự án “Những chiến lược và cơ chế khuyến khích đầu tư SXSH tại các nước đang phát triển” của UNEP, là đầu mối tổ chức hợp phần “Quá trình đầu tư cho SXSH” của dự án này. Bộ đã tổ chức các khóa đào tạo cho các cán bộ chủ chốt ngành công nghiệp trong cả nước về SXSH, cách lập dự án đầu tư và khai thác nguồn vốn. Một số cơ quan khoa học trong bộ đã tổ chức nghiên cứu và tham gia các hoạt động đào tạo, phổ biến thông tin, điều tra, khảo sát tiềm năng SXSH của một số cơ sở sản xuất công nghiệp.

Theo Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP), SXSH được định nghĩa là việc áp dụng liên tục chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường vào các quá trình sản xuất, sản phẩm và dịch vụ nhằm nâng cao hiệu suất sinh thái và giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường. Đối với quá trình sản xuất: SXSH bao gồm bảo toàn nguyên liệu và năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc hại; giảm về lượng và tính độc hại của tất cả các chất thải ngay tại nguồn thải; Đối với sản phẩm: SXSH bao gồm việc giảm các ảnh hưởng tiêu cực trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm, từ khâu thiết kế đến thải bỏ; Đối với dịch vụ: SXSH đưa các yếu tố về môi trường vào trong thiết kế và phát triển dịch vụ.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ chú trọng đến hiệu quả năng lượng

Theo xu thế chung của thế giới, các DN công nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đã không ngừng đầu tư đổi mới công nghệ, tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập. Mới đây, vào sáng 5-6, tại Hà Nội đã diễn ra tọa đàm với chủ đề “Chính sách năng lượng và việc sử dụng năng lượng tiết kiệm tại DNVVN”. Tọa đàm do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức.

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hải, Trưởng ban Chính sách Dịch vụ công – CIEM cho biết, trong giai đoạn 2011-2014, tốc độ sử dụng năng lượng luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Khi giá điện tăng, giá xăng ở mức cao, các DN buộc phải tăng chi phí sản xuất/dịch vụ.

Các DNVVN chiếm đến 40% tổng mức tiêu thụ năng lượng trong lĩnh vực công nghiệp. Một số lĩnh vực như gạch, gốm và chế biến thực phẩm, tiềm năng tiết kiệm năng lượng ở mức tương đối cao, trên 30%. Trong khi đó, đối với các lĩnh vực như sản xuất xi măng và nông nghiệp, tiềm năng này ở mức trên 50%.

Để khắc phục tình trạng này, các DNVVN cần đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị để tăng hiệu quả sử dụng năng lượng.

Bà Đỗ Thị Tú Anh, Tổng Thư ký Hội DN trẻ Hà Nội cho biết, năng lượng là một trong những cấu phần hình thành nên giá thành sản phẩm. Vì vậy, các DN cần có phương án sử dụng năng lượng hợp lý để giảm giá thành sản phẩm, giúp DN tăng tính cạnh tranh trên thị trường.

Các chuyên gia SXSH đã khẳng định SXSH chính là cơ hội, là giải pháp của các DN vừa và nhỏ mang lại lợi ích kinh tế cho cơ sở sản xuất, đồng thời giải quyết các vấn đề môi trường. Với “8 cơ hội vàng”: Một là, SXSH làm giảm giá thành sản phẩm thông qua: Nâng cao hiệu quả sản xuất và nguồn lực; giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu, nước và năng lượng đầu vào; tận dụng được các sản phẩm phụ; Hai là, giảm chi phí liên quan đến thu gom và xử lý chất thải do giảm lượng chất thải phát sinh vì DN chú trọng đến phòng ngừa ô nhiễm hơn là khắc phục ô nhiễm; Ba là, thực hiện tốt hơn các yêu cầu pháp lý về môi trường; Bốn là, tăng cường ý thức của người lao động về bảo vệ môi trường, cải thiện môi trường làm việc, góp phần bảo vệ sức khỏe người lao động; Năm là, cải thiện hình ảnh của DN về trách nhiệm xã hội và tuân thủ luật pháp. Giúp DN tạo dựng sự tin tưởng đối với các bên liên quan (khách hàng, nhà cung cấp, nhà quản lý, địa phương…) trên các lĩnh vực; Sáu là, tạo ra các cơ hội thị trường mới và hấp dẫn; Bảy là, SXSH còn gắn liền với: Hệ thống quản lý môi trường, Quản lý chất lượng tổng hợp, Quản lý sức khỏe và an toàn và Tám, cũng là lợi ích lớn nhất trong giai đoạn hội nhập hiện nay, đó là thị trường quốc tế không chỉ yêu cầu về chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm mà còn là đòi hỏi về khía cạnh môi trường và trách nhiệm xã hội của DN. Chính vì vậy, SXSH là công cụ hữu hiệu cho DN nâng cao tính cạnh tranh và chỗ đứng trên thị trường do chất lượng sản phẩm tốt hơn và uy tín hơn.

Rõ ràng, qua thực tế phát triển công nghiệp nói chung, ở Bình Dương nói riêng, việc tham gia áp dụng và thực hiện SXSH sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của DN đặc biệt là DNVVN một cách mạnh mẽ; tạo được lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường. Mặt khác, khi tham gia thực hiện SXSH, DN công nghiệp còn nhận được chính sách ưu đãi tài chính của Nhà nước và sự ưu tiên chọn lựa của những khách hàng khó tính.

Theo Bảo Anh – baocungcau.vn

Những doanh nghiệp điển hình sản xuất sạch hơn

Lần thứ hai, Công ty FrieslandCampina Việt Nam nhận được giải thưởng Sách Xanh Bình Dương, do có nhiều nỗ lực đóng góp tích cực hiệu quả vào công tác bảo vệ môi trường (BVMT).
Các nhà máy của FrieslandCampina Việt Nam đều có hệ thống xử lý chất thải (nước thải, bụi, khí thải, tiếng ồn) đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường cho phép, luôn thực hiện xử lý chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và chất thải nguy hại theo đúng quy định.

Thiết kế và xây dựng tách riêng hệ thống thoát nước mưa; nước thải sản xuất, nước thải sinh hoạt được thu gom và đưa về hệ thống xử lý nước thải để xử lý trước khi ra môi trường. Nhờ vậy, nước thải từ nhà máy luôn nằm trong tiêu chuẩn cho phép và đạt tiêu chuẩn loại A-QCVN 24:2009 (loại cho phép nước xả được xả vào các nguồn tiếp nhận là các nguồn nước dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt) của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Trong năm 2014, FrieslandCampina Việt Nam đã tài trợ cho dự án Green Talk thuộc Tổ chức UNESCO-CEP để thực hiện tuyên truyền thông điệp “Không xả rác” tới cộng đồng, chương trình “Giờ xanh” toàn quốc trong tháng 5 vừa qua và nhiều hoạt động ý nghĩa khác. Trước đó, năm 2013, FrieslandCampina Việt Nam đã trở thành đơn vị tiên phong trong việc sử dụng bao bì có nguồn gốc là tài nguyên tái sinh. Công ty đã sử dụng bao bì sản phẩm có logo của FSC (Forest Stewardship Council) là chứng nhận bao bì sử dụng có nguồn gốc từ rừng tái sinh.

Như FrieslandCampina Việt Nam, Công ty Cổ phần Tôn Đông Á có nhà máy đặt tại số 5, đường số 5, Khu công nghiệp Sóng Thần 1, phường Dĩ An, TX. Dĩ An với tổng diện tích nhà xưởng hơn 35.000m2. Với 2 dây chuyền mạ kẽm, 3 dây chuyền mạ màu và 1 dây chuyền mạ hợp kim nhôm kẽm công nghệ NOF với tổng công suất thiết bị 250.000 tấn/năm. Các dây chuyền được thiết kế theo công nghệ tiên tiến, sử dụng nhiên liệu sạch thân thiện môi trường. Với phương châm “Chất lượng – Uy tín – Phát triển bền vững”, công ty luôn thực hiện và tuân thủ tốt các quy định của pháp luật trong lĩnh vực BVMT, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, cải tiến công nghệ dây chuyền sản xuất, sử dụng các nguồn nhiên liệu thân thiện với môi trường. Hiện nay, các dây chuyền sản xuất của Công ty Cổ phần Tôn Đông Á đã chuyển sang sử dụng các nguồn nhiên liệu sạch: khí CNG (Compressed Natural Gas), năng lượng sinh khối (Biomass) để sử dụng thay thế nguồn nhiên liệu cũ là LPG và dầu FO, DO.

Theo baocungcau.vn