Nhiều chính sách thúc đẩy sản xuất sạch hơn

Cùng với Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp (DN) sản xuất và tiêu thụ theo hướng bền vững. Những chính sách này đã góp phần mang lại lợi ích kinh tế và môi trường to lớn không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho toàn xã hội.
Nhiều chính sách thúc đẩy sản xuất sạch hơn
 Hiện nay, phương pháp tiếp cận quản lý môi trường theo hướng phòng ngừa ô nhiễm tại nguồn đang được sử dụng ngày càng rộng rãi ở các nước trên thế giới và đã được lồng ghép vào các chiến lược phát triển của quốc gia.

Ông Tạ Xuân Quang – Cục phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết: “Chính phủ có thể sử dụng rất nhiều các công cụ chính sách để thúc đẩy phát triển sản xuất sạch nhưng chủ yếu dựa trên 3 mặt chính: các công cụ pháp lý (thông qua các quy định của pháp luật để quản lý và bảo vệ môi trường, quy định lượng chất thải mà DN/tổ chức được phép thải ra môi trường cũng như yêu cầu DN/tổ chức/cá nhân tác động đến môi trường phải tuân theo những chuẩn mực nhất định); các công cụ kinh tế (các chính sách về thuế phí, tiền phạt, hỗ trợ tài chính); và các công cụ truyền thông. Hiện chúng ta đã ban hành nhiều chính sách và đều sử dụng các công cụ trên để thúc đẩy các DN tham gia thực hiện sản xuất sạch hơn”.

Cụ thể, công cụ pháp lý là các chính sách thúc đẩy sản xuất sạch hơn như Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 07/09/2009 về phê duyệt Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020, theo đó đến năm 2015 sẽ có 25% DN áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn và phấn đấu đến 2020 có 90% cơ sở sản xuất công nghiệp nhận thức được lợi ích của sản xuất sạch hơn; Nghị định số 45/2012/NĐ-CP về khuyến công nhằm khuyến khích, hỗ trợ áp dụng sản xuất sạch hơn tại các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn; Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 23/6/2014; Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/04/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020…

Công cụ kinh tế – thuế và phí môi trường – là khoản thu của ngân sách nhà nước nhằm điều tiết các hoạt động có ảnh hưởng tới môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường. Mục tiêu của những chính sách này là khuyến khích cải tiến và áp dụng kỹ thuật, công nghệ sạch trong sản xuất chống ô nhiễm, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, nhiên liệu hoặc thay thế bằng nhiên liệu khác ít ô nhiễm hơn cũng như sử dụng nguồn tài chính này cho khắc phục các tác động tiêu cực do chất ô nhiễm gây ra với môi trường. Ngoài ra còn các loại thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên, thuế các bon và các chính sách tài chính ưu đãi cho các DN trong việc đầu tư, đổi mới công nghệ, xử lý và kiểm soát ô nhiễm trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Công cụ truyền thông cũng đã được xây dựng. Việc cho ra đời trang thông tin sản xuất sạch hơn tại địa chỉ http://sxsh.vn là một phần trong những việc mà Bộ Công Thương đã triển khai nhằm cụ thể hóa Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020. Ngoài ra các phương tiện truyền thông từ trung ương đến địa phương cũng đã thường xuyên đăng tải các nội dung thông tin liên quan đến sản xuất sạch hơn. Đây là những công cụ hữu hiệu giúp tuyên truyền, phổ biến và nhân rộng áp dụng mô hình sản xuất sạch hơn trong công nghiệp, góp phần tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường./.

Theo Thu Hường ven.vn

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức về sản xuất sạch hơn cho doanh nghiệp

 Tính đến cuối năm 2014, hà Tĩnh có gần 17.000 cơ sở sản xuất công nghiệp hoạt động trong một số ngành chủ yếu như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, khai thác khoáng sản và vật liệu xây dựng… Việc áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn tại các doanh nghiệp (DN) và cơ sở vẫn chưa tạo được sự chuyển biến rõ nét. Xác định sản xuất sạc hơn sẽ giúp các DN vừa và nhỏ nâng cao sức cạnh tranh, Hà Tĩnh đang ráo riết đẩy mạnh nhiều hoạt động nhằm tạo sự thay đổi về nhận thức và hành động cho các DN trong lĩnh vực này. 

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức về sản xuất sạch hơn cho doanh nghiệp

Trong những năm qua, Hà Tĩnh đã có bước đột phá về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thu hút nhiều DN công nghiệp vào đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất, chế biến, tạo ra những sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao. Tỉnh đã thu hút nhiều dự án sản xuất công nghiệp trọng điểm mang tầm quốc gia như Khu liên hợp gang thép và Cảng Sơn Dương Fomosa, nhà máy nhiệt điện Vũng Áng… Bên cạnh đó, việc thực hiện các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đã góp phần gia tăng các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Theo số liệu thống kê, đến hết ngày 31/12//2014 toàn tỉnh có gần 17.000 cơ sở sản xuất công nghiệp. Đây là những cơ sở sẽ được tỉnh ưu tiên trong các chương trình triển khai thực hiện Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020 và Quyết định số 3210/QĐ-UBND ngày 04/11/2011 phê duyệt Kế hoạch hành động sản xuất sạch hơn.

Ông Nguyễn Hiền Lương – Phó giám đốc Sở Công thương Hà Tĩnh cho biết: “Trong giai đoạn 2012-2015, Sở Công Thương đã đồng loạt triển khai nhiều giải pháp từ tuyên truyền đến đánh giá nhanh, đánh giá chi tiết sản xuất sạch hơn. Ngân sách của tỉnh dành cho các hoạt động này lên đến 1.465 tỷ đồng. Trong đó, chúng tôi xác định công tác truyền thông đóng vai trò quan trọng vào sự thành công của Chương trình và phải đi trước một bước để từ đó tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức, tiến tới thay đổi trong hành động của DN”.

Theo đó, công tác thông tin tuyên truyền được xây dựng và triển khai thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau như báo, đài truyền hình, bản tin, tờ rơi… Đặc biệt, trong giai đoạn 2012-2015, Hà Tĩnh đã tổ chức được 16 lớp tập huấn với 3.152 lượt người tham dự trong đó có 2.652 lượt người từ các DN, hợp tác xã và hộ sản xuất cá thể. Bên cạnh đó, 20 DN đã được hỗ trợ tập huấn kỹ thuật, 20 DN được hỗ trợ tư vấn đánh giá nhanh về sản xuất sạch hơn, và 01 mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đã được xây dưng tại Cụm làng nghề sản xuất chế biến mộc xã Thái Yên (Đức Thọ).

Cũng theo ông Nguyễn Hiền Lương, thời gian tới, Sở Công Thương sẽ tích cực hướng dẫn DN cách thức tiếp cận, áp dụng các giải pháp sản xuất sạch sạch hơn trong công nghiệp nhằm giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường cũng như xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về sản xuất sạch hơn cho các ngành công nghiệp đặc thù của địa phương như chế biến gỗ, thủy sản, nông sản, rèn, đúc, đồng thời có cơ chế hỗ trợ tài chính cho các DN điển hình thực hiện dựa trên các tiêu chí theo quy định hiện hành.

Theo Minh Kỳ – ven.vn

Các nước G7 hướng tới mục tiêu bỏ dần năng lượng hóa thạch

Lãnh đạo Nhóm bảy nền công nghiệp phát triển (G7) đã thống nhất được mục tiêu cắt giảm phát thải khí CO2 đi đôi với việc từ bỏ dần năng lượng hóa thạch.

ttxvn_andoonhiem

G7 ủng hộ mục tiêu cắt giảm so với năm 2010 khoảng 40-70% lượng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính trên toàn thế giới từ nay đến năm 2050. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Kết quả này được đánh giá là một tiến bộ quan trọng trước thềm Hội nghị quốc tế về khí hậu COP 21 dự kiến diễn ra vào cuối năm nay tại Paris, Pháp.

Theo tuyên bố chung ngày 8/6 bế mạc Hội nghị thượng đỉnh G7 tại Bayern (Đức), G7 ủng hộ mục tiêu cắt giảm so với năm 2010 khoảng 40-70% lượng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính trên toàn thế giới từ nay đến năm 2050.

Bên cạnh đó, bảy cường quốc công nghiệp còn cam kết nỗ lực giữ nhiệt độ Trái Đất tăng không quá 2 độ C so với giai đoạn tiền công nghiệp, cũng như huy động 100 tỷ USD mỗi năm từ nay đến năm 2020 nhằm hỗ trợ các sáng kiến giữ gìn khí hậu chung.

Bốn trong số bảy nước mong muốn đẩy mạnh hơn nữa các cam kết nỗ lực điều tiết lượng khí CO2 phát thải trong hoạt động kinh tế thế giới bằng cách chuyển đổi lĩnh vực năng lượng của mình từ nay đến năm 2050. Nói cách khác là giảm tối đa trong khả năng cho phép của mỗi nước việc sử dụng các loại năng lượng hóa thạch như than đá, dầu mỏ và khí đốt, đồng thời thay thế vào đó là các loại nhiên liệu có thể tái tạo.

Hiện các nước G7 (Mỹ, Canada, Nhật Bản, Pháp, Đức, Italy và Anh) chiếm 10% dân số thế giới, nhưng phát thải lượng khí CO2 bằng 1/4 của cả hành tinh. Chính vì vậy, những cam kết nói trên được giới chuyên gia đánh giá là một tiến bộ quan trọng.

Bà Jenifer Morgan, chuyên gia khí hậu của Viện nghiên cứu Tài nguyên Thế giới (World Ressources Institute), nhận định đây là một tuyên bố mang tính lịch sử, “báo hiệu kết thúc kỷ nguyên của các loại năng lượng hóa thạch” và là lần đầu tiên, lãnh đạo các nước G7 tìm được tiếng nói chung trong việc đặt mục tiêu vì một nền kinh tế phi carbon.

Mảng thảo luận về khí hậu tại Hội nghị thượng đỉnh G7 lần này được kỳ vọng như một tín hiệu tích cực trước Hội nghị COP 21 của Liên hợp quốc tại Paris vào tháng 12 tới. Hội nghị quốc tế về khí hậu này có nhiệm vụ xác định bước đi tiếp theo nhằm giới hạn nhiệt độ ấm lên trên toàn cầu./.

Theo TTXVN Việt Nam

Hà Lan nghiên cứu phát triển hệ thống sản xuất điện từ lúa nước

Các nhà khoa học Hà Lan cho biết họ đang phát triển một hệ thống mang tính cách mạng để một ngày nào đó có thể giúp các ngôi làng xa xôi hẻo lánh trên toàn thế giới tự sản xuất được điện sinh hoạt một cách ổn định từ các loại cây trồng dưới nước, chẳng hạn lúa nước.

Nhà khoa học Marjolein Helder bên công trình thử nghiệm của mình (Nguồn: AFP)

Nhà khoa học Marjolein Helder bên công trình thử nghiệm của mình (Nguồn: AFP)

Theo nhà khoa học Marjolein Helder, người đồng sáng lập cơ sở Plant-e tại thành phố Wageningen miền Đông Hà Lan – nơi chuyên tạo ra các sản phẩm sản sinh năng lượng từ các loài thực vật sống, hệ thống nói trên được phát triển dựa theo nguyên tắc tận dụng nguồn năng lượng hữu cơ dư thừa do thực vật tạo ra trong quá trình quang hợp.

Trong quá trình này, năng lượng được giải phóng qua rễ cây, các vi sinh vật hấp thụ nguồn năng lượng này và giải phóng các electron. Xác định được cơ chế này, các nhà khoa học đã đặt các điện cực carbon gần rễ cây để chúng kết hợp với các electron và tạo ra nguồn điện.

Tính năng của hệ thống trên vượt trội hơn hẳn so với năng lượng gió và năng lượng mặt trời bởi nó có thể liên tục tạo ra năng lượng kể cả vào ban đêm và kể cả khi không có gió. Tất cả những gì cần có để hệ thống này sản xuất được điện năng chỉ là một loài thực vật phát triển trong môi trường nước, chẳng hạn như cây đước mọc ở đầm lầy hay cây lúa nước…

Việc sản xuất điện chỉ chấm dứt nếu vùng nước đó trở nên khô hạn hoặc bị đóng băng. Tuy nhiên, chỉ cần được bổ sung nước hoặc đợi băng tan chảy, quá trình sản xuất điện năng sẽ được nối lại.

Cựu Bộ trưởng Môi trường Hà Lan Jacqueline Cramer nhận định mặc dù đây mới chỉ là bước khởi đầu và vẫn còn rất nhiều điều cần được phát triển, nhưng hệ thống nói trên có tiềm năng rất lớn.

Nếu được phát triển đúng hướng, hệ thống này có thể cung cấp điện năng cho các khu vực xa xôi hẻo lánh, thậm chí có thể lắp đặt tại các thành phố cũng như các vùng nông thôn, để cung cấp nguồn điện sạch.

Theo bà Cramer, việc tạo ra nguồn điện từ các loài thực vật không phải là phát hiện mới, song điều đặc biệt ở đây là hệ thống mà các nhà khoa học Hà Lan đang phát triển không gây hại cho cây trồng.

Theo TTXVN

Siết chặt quy hoạch, quản lý các khu công nghiệp

Các khu công nghiệp (KCN) đóng vai trò “đầu tàu” trong phát triển kinh tế đất nước, là động lực quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ. Tuy nhiên, quá trình xây dựng và phát triển các KCN đang nảy sinh một số bất cập, hạn chế như tỷ lệ lấp đầy các KCN ở nhiều địa phương còn thấp, ô nhiễm môi trường,… gây bức xúc cho người dân địa phương. Điều đó đặt ra vấn đề, cần rà soát kỹ hơn quy hoạch cũng như các dự án KCN để có thể sớm khắc phục bất cập, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động, đầu tư tại các KCN hiện nay.

Bài 1: Những khu công nghiệp bỏ hoang

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH – ĐT), đến hết năm 2014, cả nước có 295 KCN được thành lập, nhưng chỉ 212 KCN đi vào hoạt động, 83 KCN vẫn đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng (GPMB) và xây dựng cơ bản. Tổng diện tích đất có thể cho thuê lên đến 56 nghìn ha, nhưng các KCN chỉ cho thuê vỏn vẹn 26 nghìn ha; còn tỷ lệ lấp đầy tại các KCN đã đi vào hoạt động mới đạt khoảng 65%.

Bờ xôi, ruộng mật để cỏ mọc

Năm 2007, Tập đoàn Compal (Đài Loan, Trung Quốc) được tỉnh Vĩnh Phúc chính thức trao giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) xây dựng nhà máy sản xuất máy tính xách tay, thiết bị hỗ trợ cá nhân kỹ thuật số và điện thoại di động tại KCN Bá Thiện (huyện Bình Xuyên). Đây là một dự án công nghiệp công nghệ thông tin có quy mô hoành tráng nhất trong khu vực thời bấy giờ, với mức đầu tư ban đầu dự kiến khoảng 500 triệu USD, mỗi năm cho ra đời bốn triệu sản phẩm với doanh thu hàng tỷ USD và tạo việc làm cho hơn 30 nghìn lao động tại địa phương,… Tuy nhiên, khi đến khảo sát tận nơi, chúng tôi mới hiểu không như những gì mô tả trong dự án. Trên tổng diện tích 327 ha đất của KCN Bá Thiện được tỉnh Vĩnh Phúc tự bỏ tiền GPMB, nằm trơ trọi duy nhất một nhà máy của Compal với diện tích gần 100 ha (tính cả “sân vườn”), còn lại phần lớn là đất hoang, được người dân tận dụng để thả bò hoặc đổ rác thải xây dựng.

Vừa xua bò trên chính khu đất của KCN, cô Vũ Thị Trầm, ngụ tại thôn Vinh Tiến, xã Bá Hiến (huyện Bình Xuyên) nói với vẻ chán chường: Trước kia, đây là ruộng “bờ xôi ruộng mật”, từ khi Nhà nước thu hồi đất làm KCN, đất ruộng bị san phẳng rồi bỏ hoang, nông dân chúng tôi thấy xót xa lắm! Cũng theo cô Trầm, mất nghề nông, nhà cô cũng như nhiều gia đình khác đều trông mong thời điểm KCN đi vào hoạt động để thanh niên trong thôn có việc làm, kinh tế dịch vụ trong vùng phát triển, người dân nhờ đó ổn định cuộc sống. Ầy vậy mà nhà máy xây xong chỉ hoạt động cầm chừng hoặc đóng cửa, cứ như được dựng lên chỉ để… giữ đất. “Miệng ăn, núi lở, mấy chục triệu đồng tiền đền bù cũng đã hết sạch từ lâu mà chồng tôi còn bị đau ốm, nhà tôi ngày càng khó khăn. Bây giờ còn sức, tôi còn thả được bò hay đi làm thuê để kiếm sống, chứ nay mai già yếu thì không biết sống bằng cái gì?”, cô Trầm thở dài.

Theo kết quả khảo sát, tình trạng đất các KCN được đưa vào sử dụng đạt thấp so với quy hoạch là hiện tượng không chỉ xảy ra ở Vĩnh Phúc, mà còn ở hầu hết các địa phương. Tại Đồng Nai, một trong những địa phương có nhiều KCN nhất cả nước, mặc dù tỷ lệ lấp đầy bình quân các KCN đi vào hoạt động đạt mức khá cao (gần 76%), song tại một số nơi, nhất là các huyện miền núi, tỷ lệ lấp đầy rất thấp. Cụ thể, KCN Tân Phú (huyện Tân Phú) được thành lập cách đây hơn tám năm với quy mô 54 ha, trong đó 35 ha làm công nghiệp, nhưng đến nay mới chỉ cho thuê được hơn sáu ha (khoảng 18%). Người dân trong vùng cho biết, một ha đất sản xuất nông nghiệp ở đây đem lại thu nhập gần một trăm triệu đồng mỗi năm, nay bị bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, trong khi người dân không có đất để sản xuất, cuộc sống khó khăn thêm bội phần.

Tương tự, KCN Sông Mây giai đoạn 2 (huyện Trảng Bom) được thành lập từ năm 2007, quy mô 224 ha, đến nay chưa có một nhà máy nào mọc lên. Đáng nói, KCN Nhơn Trạch 6, xã Long Thọ (huyện Nhơn Trạch) với quy mô 315 ha nhưng vẫn chưa có nhà đầu tư nào vào tìm hiểu, thuê đất để sản xuất, kinh doanh. Theo thống kê, riêng tại xã Long Thọ, có hơn một nghìn hộ dân bị ảnh hưởng do thu hồi đất làm các KCN.

Câu chuyện của cô Trầm ở Vĩnh Phúc, của những người dân ở Đồng Nai cũng chính là hoàn cảnh chung của nhiều gia đình nông dân nằm trong các dự án KCN bị thu hồi đất tại nhiều địa phương trên khắp cả nước đang trông chờ các KCN đi vào hoạt động để có công ăn việc làm, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế nhiều hộ gia đình đã lâm vào cảnh “chạy ăn từng bữa”, hoặc rời bỏ quê hương lên thành phố mưu sinh, trong khi chính mảnh ruộng của mình bị bỏ hoang.

Ô nhiễm môi trường

Nhiều dự án KCN còn “ngắc ngoải” ngay từ đầu do gặp vướng mắc khâu GPMB và triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng, điển hình như các dự án KCN Minh Quang, Vĩnh Khúc, Ngọc Long (Hưng Yên); các KCN Phú Mỹ 3, Long Sơn (Bà Rịa – Vũng Tàu) hay KCN Đức Hòa III – Liên Thành và Đông Nam Á (Long An),… Trưởng ban Quản lư các KCN tỉnh Hưng Yên Phạm Thái Sơn chia sẻ: Các KCN Minh Quang, Vĩnh Khúc được thành lập và cấp GCNĐT trước năm 2009, nhưng do các quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, thu hồi đất,… khiến chi phí bồi thường tăng cao so với thời điểm lập dự án, chủ đầu tư phải nghiên cứu, đánh giá lại dự án khiến thời gian kéo dài. Nhưng các dự án này phần lớn vẫn còn nằm trên giấy, vẫn là đất ruộng, nên không gây thiệt hại nhiều cho nông dân. Còn tại nhiều nơi khác, tình trạng GPMB theo kiểu “xôi đỗ” đang là nỗi bức xúc không chỉ của người dân địa phương, mà còn khiến chính chủ đầu tư các dự án “đau đầu”.

Bà Nguyễn Thị Thảo Nhi, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thanh Bình Phú Mỹ (chủ đầu tư KCN Phú Mỹ 3, Bà Rịa – Vũng Tàu) cho biết, hiện dự án đã chậm tiến độ hai năm so với kế hoạch, nhưng không thể đẩy nhanh hơn vì vướng GPMB. Cụ thể, trong tổng số 999 ha đất của dự án, mới chỉ đền bù và thu hồi được hơn 688 ha. Phần diện tích đã đền bù không liền thửa cũng là nguyên nhân gây khó khăn trong việc thi công san lấp mặt bằng, không thể giao thầu thi công các hạng mục kỹ thuật.

Khu công nghiệp Cẩm Điền - Lương Điền (huyện Cẩm Giàng, Hải Dương)  bị bỏ hoang. (Ảnh: Nhân Dân)

Khu công nghiệp Cẩm Điền – Lương Điền (huyện Cẩm Giàng, Hải Dương) bị bỏ hoang. (Ảnh: Nhân Dân)

Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường từ các KCN mới là tình trạng đáng báo động nhất, gây ra thiệt hại không nhỏ về kinh tế cũng như những hiểm họa khôn lường về sức khỏe cho người dân các địa phương có KCN. Theo báo cáo của Ban Quản lư các KCN tỉnh Đồng Nai, vấn đề giải quyết môi trường cho các KCN trên địa bàn tỉnh đang gặp nhiều khó khăn, nhất là KCN Biên Hòa 1 với quy mô 335 ha nằm dọc sông Đồng Nai. Hiện tại, trừ một số nhà đầu tư thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường, còn rất nhiều nhà máy chưa quan tâm và chưa xử lư ô nhiễm triệt để, khiến tình trạng ô nhiễm do KCN Biên Hòa 1 gây ra hết sức nghiêm trọng, hàng loạt chỉ tiêu nước thải và khí thải xả vào môi trường tự nhiên vượt giới hạn cho phép hàng chục, hàng trăm lần. Theo thống kê, mỗi ngày, 97 DN đang hoạt động tại KCN Biên Hòa 1 xả ra hơn 9.000 m3nước thải; trong đó, chỉ có hơn 1.000 m3 nước thải được đấu nối qua KCN Biên Hòa 2 để xử lư, gần 8.000 m3 nước thải còn lại được DN tự xử lư, xả trực tiếp ra sông Đồng Nai. Nguồn nước sông Đồng Nai vì thế bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng nghiêm trọng việc cung cấp nước sạch cho TP Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận.

Ngoài ra, số liệu quan trắc quốc gia tại KCN Biên Hòa 1 (gần Nhà máy Vicasa) cho thấy, nồng độ ô nhiễm bụi dao động từ 0,42 đến 0,55 mg/m3, trung bình 0,496 mg/m3, vượt tiêu chuẩn cho phép; nồng độ khí độc SO2, NO2, CO cũng ở mức “báo động đỏ”. KCN Biên Hòa 1 được hình thành đã khá lâu và được xem là KCN hình thành sớm nhất cả nước, do quy hoạch không đồng bộ, hệ thống hạ tầng xuống cấp nghiêm trọng, việc sửa chữa chỉ được thực hiện một cách chắp vá. Bên cạnh đó, trong KCN Biên Hòa 1 còn nhiều vấn đề như việc sắp xếp các nhà máy lộn xộn, việc sản xuất của nhà máy này ảnh hưởng sản phẩm của nhà máy khác, việc xả khí thải của các nhà máy sản xuất khiến một số nhà máy sử dụng nhiều lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng… Đơn cử, tại KCN Biên Hòa 1, nhà máy sữa nằm kế bên nhà máy sản xuất bình ắc-quy, nhà máy sản xuất đường hoạt động gần nhà máy sản xuất gạch, bê-tông và hóa chất,…

Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tỷ lệ các KCN có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm khoảng 70%, nhiều KCN đi vào hoạt động chưa triển khai xây dựng hệ thống trạm xử lư cục bộ hoặc có nhưng không vận hành. Ước tính, khoảng 70% trong tổng số một triệu m3 nước thải mỗi ngày phát sinh từ các KCN đang được xả thẳng ra môi trường mà không qua bất kỳ một khâu xử lư nào.

Năm 2014, cả nước có năm KCN mới được thành lập với quy mô 655 ha, mở rộng bảy KCN với quy mô 1.007 ha, thu hồi giấy GCNĐT của hai KCN với quy mô 359 ha và chuyển đổi một KCN với quy mô 92 ha sang mô hình cụm công nghiệp. Tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN tăng thêm trong năm 2014 đạt 6.000 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện tăng thêm 4.300 tỷ đồng. Lũy kế đến cuối năm 2014, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 3,525 tỷ USD và 184.370 tỷ đồng; trong đó, vốn đầu tư đã thực hiện các dự án đạt 2,022 tỷ USD và 79.217 tỷ đồng, tương ứng 57% và 43% tổng vốn đầu tư đã đăng ký.(Nguồn: Bộ KH – ĐT)

Năm 2014, cả nước khởi công xây dựng mới 14 nhà máy xử lý nước thải tập trung, hoàn thành và đưa vào hoạt động 32 nhà máy với tổng công suất tăng thêm 183 nghìn m3/ngày đêm so với năm 2013. Như vậy, đến hết năm 2014, đã có 177 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động, tổng công suất 728 nghìn m3/ngày đêm, 34 nhà máy đang trong quá trình xây dựng, công suất 116 nghìn m3/ngày. Trong khi đó, theo mục tiêu QH đề ra, đến hết năm 2015, 100% số KCN đang hoạt động sẽ có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn về môi trường.

(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường)

Theo Báo Nhân Dân

Ngắm thành phố xanh dùng năng lượng mặt trời ở Dubai

Ở Dubai sẽ có một thành phố thân thiện với môi trường, các công trình sử dụng năng lượng mặt trời.

01062015_tpxanhdungNLmattroi

Tập đoàn Intercontinental Hotels Group vừa công bố dự án thành phố bền vững sử dụng năng lượng thân thiện với môi trường ở Dubai. Trong khu vực này sẽ có khách sạn Indigo sử dụng năng lượng mặt trời cho mọi hoạt động như một phần của tham vọng phát triển thành phố bền vững.

Dự kiến khách sạn này sẽ mở cửa đầu năm 2017 với 170 phòng. 100% nhu cầu năng lượng của khách sạn, khách hàng và các hoạt động sử dụng năng lượng mặt trời. Thậm chí, nước thải của khách sạn sẽ được tái chế. Tất cả các chất thải sẽ được phân loại tại nguồn và đưa đi tái chế.

Thay vì trồng cỏ gây tốn nước, thực vật bản địa có khả năng chống chịu nắng hạn sa mạc sẽ được trồng để tạo thảm xanh cho khu vực này.

Dịch vụ xe buýt đưa đón khách bằng năng lượng mặt trời có sẵn trong khách sạn, giúp kết nối du khách với phố phường Dubai.

01062015_tpxanhdungNLmattroi2

01062015_tpxanhdungNLmattroi3

01062015_tpxanhdungNLmattroi4

01062015_tpxanhdungNLmattroi5

Theo Nghi Anh/ VTC News