Băng trên các đỉnh núi ở Colombia sắp biến mất vì Trái Đất nóng lên

Các nhà khoa học Colombia ngày 26/5 đã lên tiếng cảnh báo hiện tượng Trái Đất nóng lên sẽ khiến những đỉnh núi cao nhất tại quốc gia Nam Mỹ này mất toàn bộ lớp băng phủ trong vài thập kỷ tới.

Dãy núi Sierra Nevada de Santa Marta đã mất tới 90% diện tích băng phủ của mình. (Ảnh: eltiempo.com)

Dãy núi Sierra Nevada de Santa Marta đã mất tới 90% diện tích băng phủ của mình. (Ảnh: eltiempo.com)

Theo phóng viên TTXVN tại Mỹ Latinh, dãy núi Sierra Nevada de Santa Marta hay “Tuyết Sơn Nữ thánh Marta” đã mất tới 90% diện tích băng phủ của mình. Nếu chiều hướng trên tiếp tục thì tới năm 2030, khu dự trữ sinh quyển thế giới này sẽ mất hoàn toàn lớp băng tuyết phủ đỉnh núi.

Nằm bên bờ biển Caribe với độ cao 5.000 m, Sierra Nevada de Santa Marta là rặng núi ven biển cao nhất thế giới, từng được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên của nhân loại và vùng tuyết phủ của dãy núi này luôn được coi là một vẻ đẹp khác lạ tại Colombia.

Ngoài rặng núi trên, các chuyên gia thuộc Viện Khí tượng thủy văn quốc gia Colombia cũng lo ngại về hiện tượng tiêu cực tương tự tại núi Nevado de Ruiz.

Hiện tại, vòng băng phủ đỉnh của ngọn núi lửa này đã mất 80% diện tích, từ 47km2xuống còn 9,7km2 và có thể sẽ biến mất hoàn toàn chỉ trong vòng 15 năm tới.

Theo thống kê chính thức, hồi năm 1850, Colombia sở hữu 374km2 diện tích băng phủ tại các đỉnh núi cao, tuy nhiên chỉ số này hiện tại chỉ còn ở mức 45km2 và vẫn đang tiếp tục giảm.

Ngoài Santa Marta và Nevado de Ruiz, 4 dãy núi khác tại Colombia đang đối diện nguy cơ tan băng đỉnh núi là Cocuy, Santa Isabel, Tolima và Huila.

Theo TTXVN

Loại bỏ 54 công trình thủy điện vừa và nhỏ

Các công trình này tại Lào Cai, đều có công suất nhỏ, vị trí nằm ở vùng núi cao, trong vùng lõi của vườn Quốc gia Hoàng Liên, rừng già…

(Ảnh minh họa: tinmoitruong.vn)

(Ảnh minh họa: tinmoitruong.vn)

54 công trình thủy điện với tổng công suất lắp máy 120,34 MW đã được tỉnh Lào Cai loại bỏ trong quy hoạch phát triển thủy điện vừa và nhỏ đến năm 2020.

Các công trình này đều có công suất nhỏ, vị trí nằm ở vùng núi cao, trong vùng lõi của vườn Quốc gia Hoàng Liên, rừng già, ảnh hưởng đến nguồn nước, xa điểm đấu nối, xa đường giao thông, suất đầu tư cao, hiệu quả kinh tế thấp. Sau khi loại bỏ các công trình trên, hiện toàn tỉnh còn 70 công trình thủy điện.

Ông Đỗ Trường Giang, Giám đốc Sở Công thương tỉnh Lào Cai cho biết: “Ngay từ đầu năm nay, chúng tôi đã có cuộc gặp gỡ tất cả các chủ đầu tư các công trình thủy điện để nắm bắt tình hình. Chúng tôi cũng căn cứ những kiến nghị của các doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn cho quá trình vận hành. Yêu cầu họ thực hiện nghiêm bảo vệ môi trường, khôi phục, hoàn nguyên môi trường trong quá trình xây dựng nhà máy”.

Theo Thanh Thủy/VOV.VN

Gian nan hướng đích “khu công nghiệp sạch”

Theo Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn 2050, huyện Mê Linh được quy hoạch là đô thị xanh, đô thị hoa kết hợp với dịch vụ thân thiện. Các khu, cụm công nghiệp được tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, cải tạo hoàn chỉnh theo hướng công nghiệp sạch…

Để làm được điều này, trước hết huyện cần nhanh chóng tháo gỡ các vướng mắc từ các khu công nghiệp, nhất là tình trạng ô nhiễm môi trường về khí thải, nước thải.

Sản xuất yên xe máy tại Công ty TNHH Phong Nam (KCN Quang Minh). (Ảnh: Nhân Dân)

Sản xuất yên xe máy tại Công ty TNHH Phong Nam (KCN Quang Minh). (Ảnh: Nhân Dân)

Gỡ vướng từ các khu công nghiệp

Huyện Mê Linh hiện có ba khu công nghiệp (KCN) gồm: KCN Quang Minh I, II và KCN Kim Hoa. Trong đó, hai KCN Quang Minh I và II đã đi vào hoạt động và thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư. KCN Quang Minh I có diện tích 408 ha, đến nay tỷ lệ lấp đầy đã đạt 80%, thu hút 154 dự án, trong đó có 47 dự án đầu tư nước ngoài, tổng vốn đầu tư 5.060 tỷ đồng và gần 300 triệu USD. KCN Quang Minh II với diện tích 266 ha cũng đã thu hút 48 dự án với tổng vốn đầu tư 2.215 tỷ đồng và gần 35 triệu USD. Riêng KCN Kim Hoa có diện tích 16 ha dù đã được phê duyệt, nhưng đến nay chưa tiến hành giải phóng mặt bằng.

Tuy nhiên, việc khai thác, quản lý các KCN trên địa bàn đang gặp không ít khó khăn. Ở KCN Quang Minh I, trong tổng số 154 dự án, thì có 105 dự án đang đền bù và bốn dự án đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư, hiện còn bảy dự án chưa triển khai giải phóng mặt bằng (GPMB). Một số tuyến đường, hạ tầng cây xanh trong KCN chưa hoàn thành, nguyên nhân là do người dân chưa đồng tình với mức giá đền bù GPMB (mức giá này được tính theo giá của tỉnh Vĩnh Phúc, chỉ hơn 48 nghìn đồng/m2, thấp hơn nhiều so với giá đền bù của TP Hà Nội). Trong 47 dự án phát triển đô thị và nhà ở với tổng diện tích 1.650 ha, công tác GPMB cũng không khả quan hơn khi có hơn 30 dự án vẫn đang trong giai đoạn triển khai hoặc bồi thường GPMB. Tiến độ GPMB trên địa bàn huyện chậm còn có nguyên nhân do việc “trả nợ” đất dịch vụ cho các hộ dân đã bị thu hồi đất phục vụ các dự án hiện gặp nhiều khó khăn, còn thiếu khoảng 20 ha, chủ yếu tập trung ở địa bàn sáu xã và thị trấn. Một số doanh nghiệp thuê đất trong KCN Quang Minh không nộp tiền thuê đất. Tính đến 30-4-2015, đã có 31 doanh nghiệp nợ 780 triệu đồng tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

Điều khiến nhà đầu tư và người dân lo lắng hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là về khí thải, nước thải tại các KCN đang có nguy cơ gia tăng. Tại KCN Quang Minh I, dù đã xây dựng nhà máy xử lý nước thải, chất thải, nhưng do chưa hoàn thiện hệ thống xử lý, cho nên đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, nước sinh hoạt của khu dân cư lân cận. Hơn nữa, việc Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và Phát triển hạ tầng Nam Đức ( đơn vị quản lý KCN Quang Minh I) không giữ lời hứa bảo đảm hạ tầng cơ sở, mà buộc các chủ đầu tư phải trả phí dịch vụ cao khi sử dụng hệ thống xử lý nước thải, chất thải khiến nhiều doanh nghiệp xả nước thải trực tiếp đã làm môi trường thêm ô nhiễm.

Đầu tư cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường

Nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, thu hút nhiều hơn nữa các doanh nghiệp đầu tư, sản xuất, huyện Mê Linh xác định trước hết cần giải quyết sớm những vướng mắc ngay từ các KCN. Trong điều kiện cả huyện như một đại công trường, ngổn ngang các công trình xây dựng hiện nay, huyện kiến nghị thành phố hỗ trợ giúp huyện hoàn chỉnh hạ tầng KCN Quang Minh I, xây dựng đường gom KCN với đường Võ Văn Kiệt trước Trung tâm Thương mại Mê Linh Plaza. Đồng thời, có phương án đầu tư, đấu nối đường KCN Quang Minh I với KCN Quang Minh II đoạn cuối Tiền Phong – Quang Minh; xây dựng nhà ở cho công nhân theo hướng đồng bộ. Hướng tới mục tiêu phát triển công nghiệp sạch và để bảo đảm công tác vệ sinh môi trường, huyện sẽ xây dựng hồ chứa nước thải trước khi đưa ra môi trường, hồ điều hòa để dự trữ nước cho KCN, phòng cháy chữa cháy…

Mới đây, tại buổi làm việc với huyện về đầu tư các dự án đô thị mới và phát triển công nghiệp – thương mại trên địa bàn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Ngọc Tuấn yêu cầu huyện đẩy mạnh việc hoàn chỉnh quy hoạch phân khu, cụm công nghiệp, quy hoạch về sử dụng đất, tập trung tháo gỡ khó khăn về GPMB, sớm hoàn thiện các KCN theo đúng quy hoạch, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp xanh, sạch. Nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm vệ sinh môi trường, Phó Chủ tịch thành phố yêu cầu UBND huyện và Ban Quản lý các KCN – khu chế xuất Hà Nội đôn đốc để các doanh nghiệp sản xuất tại KCN đấu nối ngay với hệ thống xử lý nước thải, chấm dứt tình trạng xả thải trực tiếp gây ô nhiễm môi trường.

Đã gần sáu năm huyện Mê Linh sáp nhập về Thủ đô. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, với sự cố gắng cao độ của chính quyền và người dân, kinh tế-xã hội trên địa bàn huyện tăng trưởng khá. Nằm ở cửa ngõ Tây Bắc Thủ đô, Mê Linh có rất nhiều thuận lợi để tiếp nhận các cơ hội đầu tư, phát triển. Huyện cần nhanh chóng đầu tư, hoàn thành cơ sở hạ tầng gắn với cải thiện môi trường để thu hút nhiều hơn nữa các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước.

Theo Nhân Dân

Thúc đẩy phát triển bền vững thị trường cá tra ở Châu Âu

Nhằm giúp các hộ nuôi, doanh nghiệp sản xuất và chế biến cá tra có cơ hội tìm hiểu về thị trường cá tra nước ngoài. Dự án “Xây dựng chuỗi cung ứng cá tra bền vững tại Việt Nam – SUPA” tiếp tục hỗ trợ đoàn doanh nghiệp tham gia các hoạt động tại Hội chợ Thủy sản toàn cầu từ 21-23 tháng 5 năm 2015 tại Brussels (Vương quốc Bỉ).

Đoàn gồm đại diện các đơn vị tham gia dự án, bao gồm: Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC), Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Quỹ bảo tồn thiên nhiên quốc tế tại Việt Nam (WWF-VN) và Áo (WWF-Áo), đại diện 6 doanh nghiệp nuôi và chế biến cá tra và 1 đại diện của Hợp tác xã nuôi cá tra tại tỉnh An Giang.

5

 Các đối tác của dự án đang tiếp các nhà nhập khẩu cá tra ở Châu Âu

Năm 2014 dự án cũng đã tổ chức cho đoàn doanh nghiệp tham gia Hội chợ và kết quả là hầu hết các doanh nghiệp đều có thêm khách hàng mới đến từ Châu Âu và một số quốc gia khác. Đặc biệt khi tham gia sự kiện, đại diện các doanh nghiệp đã được thăm quan một số siêu thị ở Bỉ để tìm hiểu về thị trường cũng như so sánh sản phẩm cá tra của Việt Nam so với các loại sản phẩm khác dưới sự hướng dẫn của chuyên gia nước ngoài. Qua chuyến thăm quan, một doanh nghiệp đã ký kết trực tiếp bán hàng cho siêu thị và đây là lần đầu tiên một doanh nghiệp cá tra Việt Nam bán hàng trực tiếp cho siêu thị không qua các đối tác nhập khẩu trung gian.

Mục đích của việc tham gia Hội chợ lần này đối với các Doanh nghiệp là được tận mắt thấy các sản phẩm thủy sản của các nước khác trên thế giới, các mô hình nuôi chất lượng, an toàn, các loại máy móc thiết bị hiện đại, trao đổi kinh nghiệm cũng như kết nối thị trường. Dự án SUPA cũng đã thuê một gian hàng phục vụ cho việc quảng bá thông tin và là nơi gặp gỡ trao đổi giữa các nhà buôn, nhà nhập khẩu và doanh nghiệp. Trong gian hàng cũng bố trí các túi đựng catalogue, tờ rơi, các chứng nhận của doanh nghiệp kèm theo đó là các đĩa CD giới thiệu về sản xuất và chế biến cá tra hướng đến việc phát triển bền vững, thân thiện với môi trường để phát cho khách hàng thăm quan.

6

 Doanh nghiệp chế biến cá tra đang đàm phán với khách hàng

Tham dự Hội chợ, Dự án SUPA cùng với các đối tác khác là Trung tâm Xúc tiến nhập khẩu từ những nước đang phát triển – CBI (Bộ Ngoại giao Hà Lan), VASEP và Tổng cục Thủy sản (Bộ NN và PTNT) tổ chức buổi Diễn đàn với chủ đề “Diễn đàn kinh doanh Quốc tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu bền vững cá tra Việt Nam”. Diễn đàn diễn ra trong thời gian Hội chợ nên nhận được sự quan tâm rất lớn từ các tổ chức quốc tế như WWF, các đơn vị chứng nhận thủy sản, các nhà nhập khẩu, bán lẻ từ Hà Lan, Anh, Pháp, các doanh ngiệp sản xuất và chế biến cá tra Việt nam, các cơ quan báo chí là đại diện của Việt Nam tại Châu Âu như Đài truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam. Tại diễn đàn này, về phía Việt Nam Ông Phạm Anh Tuấn (Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản) đã giới thiệu hiện trạng ngành sản xuất chế biến cá tra, các vấn đề cơ bản cần phải cải thiện để hướng tới phát triển bền vững, đặc biệt là giới thiệu Nghị định 36 nhằm kiểm soát, minh bạch thông tin và nâng cao chất lượng cá tra Việt Nam. Qua đây các nhà nhập khẩu, bán lẻ cũng hiểu hơn về cam kết của Chính phủ Việt Nam vì một nền sản xuất bền vững cá tra nói riêng và thủy sản nói chung.

Admin VNCPC

Nâng cao hiệu quả khu công nghiệp, khu kinh tế: Những khó khăn và thách thức mới

Phát triển các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT) ở Việt Nam trong 24 năm qua đã cho chúng ta nhiều bài học về sự thành công, thu được nhiều thành tựu nhưng cũng còn không ít bất cập và khó khăn. Thực tế phát triển các khu này đang đặt ra nhiều thách thức mới…

Báo động về ô nhiễm môi trường

Khu công nghiệp Tằng Loỏng thuộc huyện Bảo Thắng đã được tỉnh Lào Cai coi là “biểu tượng” của sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa địa phương. KCN này đã giải quyết được khá nhiều lao động và có đóng góp không nhỏ vào ngân sách của tỉnh. Thế nhưng, do quy hoạch chắp vá theo kiểu “vừa chạy vừa xếp hàng”, nên kể từ khi hình thành cho đến nay, Tằng Loỏng vẫn đang là điểm “nóng” về gây ô nhiễm môi trường. Các nhà máy trong KCN này trước khi xây dựng đều có báo cáo đánh giá tác động môi trường, hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Nhưng chất lượng lập và thẩm định các báo cáo chưa phù hợp với thực tế. Đặc biệt, công nghệ sản xuất hóa chất, luyện kim tại Khu công nghiệp Tằng Loỏng hầu hết đều dùng công nghệ tương đối lạc hậu, nên ô nhiễm môi trường là khó tránh khỏi.

Khu công nghiệp có nhà ở xã hội cho công nhân thuê như Đặng Xá (Gia Lâm, Hà Nội) còn quá ít. (Ảnh: Tuấn Anh)

Khu công nghiệp có nhà ở xã hội cho công nhân thuê như Đặng Xá (Gia Lâm, Hà Nội) còn quá ít. (Ảnh: Tuấn Anh)

Tình trạng KCN, KKT gây ô nhiễm môi trường như Tằng Loỏng không phải là cá biệt. Theo Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), ô nhiễm môi trường ở các KCN, KKT ở nước ta hiện nay, chủ yếu là do sự ô nhiễm từ môi trường nước, không khí, từ chất thải rắn là chủ yếu. Trong đó, ô nhiễm môi trường nước do nước thải từ KCN trong những năm gần đây là rất lớn, tốc độ gia tăng này cao hơn rất nhiều so với tổng nước thải từ các lĩnh vực khác. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tỷ lệ các KCN có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm 66%, nhiều KCN đã đi vào hoạt động mà hoàn toàn chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc có nhưng không vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống cấp. Trong khi đó, theo ước tính có khoảng 70% trong tổng số hơn một triệu mét khối nước thải ngày, đêm phát sinh từ các KCN được xả thẳng ra nguồn tiếp nhận mà không qua xử lý.

Đất trong KCN, KKT để hoang hóa còn lớn

Nếu ai có dịp đi qua Quốc lộ 5 (Hà Nội-Hải Phòng) sẽ thấy bên đường có khá nhiều KCN, nhưng diện tích đất để cỏ hoang mọc trong các KCN này khá lớn.

Trong báo cáo của  Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra tại cuộc họp Ban chỉ đạo về phát triển KCN, KKT lần thứ 5 diễn ra mới đây do Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì, một danh sách với hàng loạt KCN kém hiệu quả, trong diện “báo động” đã được nhắc tới. Đặc biệt, có một số KCN hiện vẫn chưa chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất lúa sang KCN.

Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau thời gian phát triển nóng, hiện nay tỷ lệ lấp đầy các KCN bình quân của cả nước chỉ vào khoảng 65%. Những vùng có hạ tầng tốt như Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng thì thu hút đầu tư rất tốt, nhưng những vùng mà cơ sở hạ tầng còn yếu kém thì việc thu hút các dự án vào các KCN gặp không ít khó khăn. Trước năm 2009, các KCN ở các địa bàn được coi là khó khăn đều được hưởng các ưu đãi tương đương các địa bàn khó khăn; thuế suất sẽ giảm hơn thuế suất trung bình cho doanh nghiệp. Nhưng sau năm 2009, khi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành thì không còn ưu đãi này nữa. Điều này làm giảm tính hấp dẫn thu hút đầu tư vào KCN. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng e ngại về chi phí tiền thuê đất, đầu tư xây dựng hạ tầng và chi phí các dịch vụ liên quan.

Thiếu nhà ở cho công nhân  

Số liệu thống kê cho thấy, trong hơn 2,4 triệu lao động làm việc tại các KCN, KKT thì có đến hơn 70% là lao động ngoại tỉnh đến từ các vùng nông thôn dẫn đến sức ép về nhà ở, quỹ đất để xây dựng nhà ở cho công nhân trong các KCN, KKT rất cao.

Theo khảo sát của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, hiện mới chỉ có khoảng 20% công nhân lao động trong các KCN, KKT có chỗ ở ổn định, số còn lại vẫn đang phải thuê chỗ ở tạm. Đa số công nhân ngoại tỉnh làm việc tại các KCN, KKT trên cả nước đều phải thuê nhà trọ của tư nhân. Các phòng trọ thuê của tư nhân hầu hết đều rất chật hẹp (diện tích sử dụng bình quân từ 2-3m2/người), điều kiện vệ sinh, môi trường không bảo đảm.

Hiện TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai chỉ mới giải quyết được khoảng 10% số công nhân có nhu cầu về nhà ở. Nhà trọ xung quanh các KCN của Đồng Nai, Bình Dương có những phòng chỉ rộng 12m2. Điều kiện vệ sinh ở các khu nhà trọ thiếu thốn, đơn điệu, cũ và xuống cấp. Tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, các cơ quan chức năng của hai thành phố lớn nhất nước cũng đã có nhiều cố gắng để xây dựng nhà ở xã hội bán hoặc cho công nhân thuê, nhưng số lượng vẫn còn quá ít so với nhu cầu của công nhân trong các KCN, KKT.

Theo quy hoạch phát triển các KCN, KKT ở Việt Nam, đến năm 2020 tổng số công nhân, lao động tại các KCN, KKT đạt khoảng 7,2 triệu. Số công nhân, lao động tại các KCN, KKT cả nước có nhu cầu về chỗ ở đến năm 2020 là khoảng 4,2 triệu người, tương đương khoảng 33,6 triệu mét vuông nhà ở. Để đạt được mục tiêu này quả là thách thức rất lớn cho các địa phương có KCN, KKT.

Để góp phần giải quyết nhà ở cho công nhân tại các KCN, KKT, tiến sĩ Nguyễn Chơn Trung, nguyên Trưởng ban quản lý Khu công nghiệp-khu chế xuất TP Hồ Chí Minh (Hepza) cho rằng, quy hoạch KKT, KCN phải đồng bộ và gắn với việc xây dựng khu đô thị mới.

Theo Báo Điện tử Quân đội Nhân dân

Giải pháp tiết kiệm điện cho doanh nghiệp

Giá điện tăng hồi giữa tháng 3 trong bối cảnh các doanh nghiệp chưa hết khó khăn. Do đó, bản thân các doanh nghiệp đã tự nâng cao ý thức tiết kiệm điện để cân bằng chi phí đầu vào, hạn chế việc tăng giá hàng hóa.

Đầu vào tăng, đầu ra khó tăng

Mặc dù giá điện tăng 7,5% từ ngày 16/3 nhưng phải đến nửa cuối tháng 4, khi nhận các hóa đơn tiền điện trong tay thì các doanh nghiệp (DN) mới thấy rõ tác động trực tiếp của việc tăng giá điện lên chi phí hoạt động.

Lắp đặt, cải tạo thiết bị nhằm tiết kiệm điện tại Nhà máy nước Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). Ảnh: Ngọc Hà - TTXVN

Lắp đặt, cải tạo thiết bị nhằm tiết kiệm điện tại Nhà máy nước Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). Ảnh: Ngọc Hà – TTXVN

Công ty CP May Sơn Việt (TP Hồ Chí Minh) có hàng trăm máy may công nghiệp và các máy hơi vận hành dây chuyền sản xuất tiêu tốn nhiều điện năng. Trung bình mỗi tháng, DN này chi 40 – 50 triệu đồng tiền điện. Trong tháng 4 vừa qua, giá điện tăng 7,5% nên DN phải chi thêm 3 – 3,7 triệu đồng. Ông Hà Xuân Anh, Chủ tịch HĐQT công ty cho biết, mặc dù nguyên tắc đầu vào tăng giá thì giá thành sản phẩm đến tay người tiêu dùng cũng sẽ tăng theo. Tuy nhiên, không phải DN nào cũng có thể “mạnh dạn” tăng giá trong thời điểm hiện nay.

Ngành xi măng cũng đang trong tình cảnh tương tự. Ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng cho biết, giá điện tăng khiến các lĩnh vực phụ trợ liên quan đến xi măng cũng tăng theo. Theo tính toán, ngành xi măng phải điều chỉnh giá bán tăng 17.000 – 20.000 đồng/tấn thì mới hòa vốn. “Nhưng tăng giá vô cùng khó bởi phải tính đến người tiêu dùng cũng như giá quốc tế. Hơn nữa, các DN còn phải ‘nhìn nhau’ bởi nếu chỉ DN mình tăng giá thì sẽ không bán được”, ông Cung cho biết.

Không chỉ các DN sản xuất mà các DN khối dịch vụ cũng đang lo lắng không kém khi chi phí đầu vào bị đội lên. Đại diện chuỗi siêu thị điện máy Media Mart (Hà Nội) cho biết, mỗi tháng, chi phí sử dụng điện của cả hệ thống là khoảng 500 triệu đồng. Khi giá điện tăng 7,5%, công ty phải trả thêm hơn 37 triệu đồng cho hệ thống chiếu sáng, demo hình ảnh tivi, âm thanh, chạy thử sản phẩm… Tại hệ thống siêu thị máy tính Trần Anh, điện năng tiêu tốn khoảng 5% tổng chi phí đầu tư hằng tháng.

Hiện các siêu thị này đều cam kết không tăng giá sản phẩm, thay vào đó là kế hoạch tiết kiệm điện. Ông Vũ Vinh Phú, Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội, ước tính mỗi tháng, các siêu thị lớn phải tốn vài trăm triệu đồng, siêu thị nhỏ cũng phải chi vài chục triệu đồng tiền điện. Bởi vậy, tiết kiệm điện là giải pháp bắt buộc cho tình thế hiện nay.

Đối với các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, các DN đã bố trí lại không gian nhà xưởng, triển khai mở thêm các lỗ thông gió để hạn chế dùng quạt; thay đổi một số tấm lợp nhà nhựa trắng để tận dụng tối đa ánh sáng tự nhiên; nhắc nhở các công nhân chỉ sử dụng các thiết bị máy móc khi thật cần thiết. Còn với các nhà máy công nghiệp nặng (trong ngành thép, xi măng…) tiêu tốn nhiều điện năng, khi mà việc thay thế các dây chuyền công nghệ chưa thể thực hiện bởi rào cản tài chính thì các DN đã rà soát, duy tu bảo dưỡng hệ thống dây chuyền, thiết bị sản xuất để giảm tổn thất điện năng; đẩy mạnh sản xuất vào ca đêm để hưởng giá điện thấp điểm.

Kiểm toán năng lượng

Theo khảo sát mới đây của Sở Công Thương Hà Nội thực hiện tại 92 DN trọng điểm, khoảng 60% DN đã thực hiện việc kiểm toán năng lượng và đã có cán bộ chuyên trách quản lý năng lượng. Điều này cho thấy các DN đã tự có ý thức tiết kiệm điện để hạn chế những tác động của việc tăng giá điện gây ra đối với hoạt động sản xuất.

Năm nay là năm cuối cùng triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2013 – 2015, Hà Nội đặt mục tiêu tiết kiệm 6 – 9% tổng mức điện năng tiêu thụ. TS Đào Hồng Thái, Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm năng lượng Hà Nội cho biết, từ năm 2014, Hà Nội đã tập trung hỗ trợ cho các DN sản xuất tiêu thụ nhiều năng lượng, thực hiện kiểm toán năng lượng cho 15 cơ sở sản xuất công nghiệp, tư vấn 76 giải pháp tiết kiệm năng lượng.

“Đối với các khu công nghiệp và chế xuất, thành phố đã hỗ trợ các DN tại các khu công nghiệp Thăng Long, Quang Minh thúc đẩy việc sử dụng trang thiết bị tiết kiệm năng lượng, tập trung vào công nghiệp hỗ trợ thuộc các lĩnh vực: điện – điện tử, viễn thông, cơ khí, vật liệu. Trong đó, tư vấn cho 5 DN 28 giải pháp tiết kiệm năng lượng, giúp tiết kiệm 3,55 tỷ đồng/năm. Đối với các cụm, điểm công nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm, trung tâm đã hướng dẫn 20 đơn vị xây dựng báo cáo tình hình sử dụng năng lượng và tự đánh giá khu vực tiêu hao nhiều năng lượng tại đơn vị; hỗ trợ tư vấn cho 6 đơn vị giải pháp tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, giúp tiết kiệm gần 720 triệu đồng/năm”, ông Thái cho biết.

Từ nay đến cuối năm, Hà Nội sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ nhiều hoạt động hỗ trợ DN tiết kiệm điện, tập trung vào giải pháp đổi mới công nghệ, ứng dụng phương pháp quản lý tiên tiến…

Theo Hoàng Dương/ Báo Tin tức