Posts

Doanh nghiệp Việt “chậm nhưng chắc” trong thực hành ESG

ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) trở thành yêu cầu bắt buộc trên thị trường toàn cầu. Dù còn nhiều thách thức, doanh nghiệp Việt Nam đang từng bước tiếp cận, thích nghi và chuyển hóa ESG thành lợi thế cạnh tranh dài hạn.

ESG – từ yêu cầu toàn cầu đến bước chuyển tại doanh nghiệp Việt

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu hướng tiêu dùng xanh ngày càng rõ nét, ESG đã không còn là khái niệm mới với cộng đồng doanh nghiệp. Thay vì là một lựa chọn tự nguyện, ESG đang trở thành điều kiện bắt buộc để tham gia các chuỗi cung ứng, thị trường xuất khẩu và hợp tác đầu tư quốc tế.

Tại Việt Nam, theo TS. Nguyễn Phương Nam – chuyên gia đánh giá quốc tế về báo cáo kiểm kê khí nhà kính của Liên hợp quốc (UNFCCC), hoạt động ESG hiện vẫn đang trong giai đoạn đầu và có phần chậm so với xu hướng toàn cầu. Việc đầu tư và thực hành ESG chủ yếu diễn ra tại các tập đoàn lớn, công ty niêm yết, hoặc những doanh nghiệp trong ngành hàng tiêu dùng có mức độ cạnh tranh cao.

ESG Không còn là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp. (Ảnh minh họa)

Nguyên nhân được chỉ ra là do doanh nghiệp Việt chưa có đủ thông tin định hướng rõ ràng về ESG, còn e dè trong việc đầu tư do thiếu hành lang chính sách cụ thể. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tìm được cách để cân bằng ba yếu tố cốt lõi của ESG: môi trường, xã hội và quản trị, dẫn đến việc triển khai còn dàn trải, thiếu trọng tâm.

Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, với sự vào cuộc ngày càng quyết liệt của cơ quan quản lý nhà nước, cam kết mạnh mẽ từ các tổ chức đầu tư tài chính và sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng, ESG tại Việt Nam đang bắt đầu có những bước chuyển mình đáng chú ý.

PGS. TS Nguyễn Đình Thọ – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khẳng định, ESG không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu suất mà còn là chìa khóa để gia tăng uy tín, thương hiệu, mở rộng thị trường và khẳng định vị thế trong “sân chơi” toàn cầu.

Doanh nghiệp Việt chuyển hóa ESG thành giá trị thực tiễn

Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đã chủ động tiếp cận ESG và bước đầu gặt hái được kết quả tích cực. Tại Tập đoàn FPT, ESG đã được đưa vào chiến lược phát triển hơn 10 năm qua. Ông Nguyễn Văn Khoa – Tổng Giám đốc FPT cho biết, từ bốn năm trở lại đây, ESG được triển khai toàn diện từ nội bộ đến hệ sinh thái đối tác. “Đưa ESG vào hoạt động cốt lõi sẽ nâng cao chất lượng vận hành, mở rộng tăng trưởng bền vững, tạo môi trường tốt để thu hút nhân lực trẻ. Đừng coi ESG là gánh nặng, hãy coi đó là cơ hội”, ông Khoa nhấn mạnh.

Ở lĩnh vực sản xuất, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cũng áp dụng các giải pháp giảm phát thải carbon, chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh và tuần hoàn. Kết quả, trong năm 2023, Vinatex đã giảm 2% lượng điện tiêu thụ và 84% lượng chất thải nguy hại so với năm trước.

Với ngành nông nghiệp, Tập đoàn Lộc Trời với triết lý “Cùng nông dân phát triển bền vững” cũng ghi nhận hiệu quả rõ rệt khi chuyển sang sản xuất xanh, giảm phát thải. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp giảm 9%, trong đó chi phí thuốc trừ sâu giảm 23%, chi phí phân bón giảm 5%. Đồng thời, doanh thu tăng 2%, giá bán sản phẩm đầu ra cao hơn 1% so với canh tác truyền thống.

Trong ngành đồ uống, Công ty Heineken Việt Nam đã hoàn toàn chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sinh khối tại cả 6 nhà máy. Các phụ phẩm từ sản xuất bia như bã, men, bùn thải đều được tái chế thành sản phẩm đầu vào cho chuỗi giá trị khác như thức ăn chăn nuôi, phân bón, đất sạch… giúp doanh nghiệp tối ưu hiệu quả kinh tế tuần hoàn.

Để ESG thực sự lan tỏa rộng trong cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia nhấn mạnh vai trò then chốt của chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước. Cụ thể, cần sớm hoàn thiện hệ thống tiêu chí, công cụ đo lường ESG phù hợp với đặc thù doanh nghiệp Việt; đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích về tài chính, tín dụng, thuế và đào tạo nguồn nhân lực xanh.

Về phía doanh nghiệp, điều quan trọng là phải thay đổi tư duy – coi ESG là một khoản đầu tư chứ không phải chi phí. Việc lồng ghép ESG với chuyển đổi số cũng là hướng đi cần thiết, giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hiệu quả sản xuất, giảm tác động đến môi trường và tăng khả năng cạnh tranh bền vững.

Duy Trinh
https://vietq.vn/doanh-nghiep-viet-cham-nhung-chac-trong-thuc-hanh-esg-d232905.html

VNCPC tổ chức hội thảo “Phổ biến tài liệu Hướng dẫn áp dụng kinh tế tuần hoàn cho chất thải rắn ngành Dệt May” 

Ngày 12/12/2024, tại Hà Nội, Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) đã tổ chức hội thảo Phổ biến tài liệu Hướng dẫn áp dụng kinh tế tuần hoàn cho chất thải rắn ngành Dệt May”, với sự tham gia của đông đảo cộng đồng doanh nghiệp ngành Dệt May theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến.

Hội thảo là hoạt động trong nhiệm vụ “Xây dựng tài liệu hướng dẫn thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn cho chất thải rắn ngành Dệt May” thuộc Chương trình hành động quốc gia về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030, được Bộ Công Thương giao cho VNCPC thực hiện.

Đại biểu tham gia hội thảo chụp ảnh lưu niệm.

Phát biểu tại hội thảo TS. Lê Xuân Thịnh – Giám đốc VNCPC cho biết: Trong những năm gần đây, Dệt May là ngành có những bước phát triển vượt trội với kim ngạch xuất khẩu năm 2022 đạt 37,5 tỷ USD. Ngành đã tạo việc làm cho khoảng 2,5 triệu lao động trên khắp cả nước. Song bên cạnh mặt tích cực, Dệt May cũng bị xem là ngành gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Theo một khảo sát tại 30 nhà máy may ở Việt Nam, công đoạn cắt may đã tạo ra hơn 863 tấn vải vụn mỗi tháng. Điều này dẫn đến, gần 5% diện tích bãi chôn lấp đang dùng cho chôn lấp chất thải Dệt May và 20% nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước đến từ quá trình xử lý dệt, nhuộm.

Trong bối cảnh trên, kinh tế tuần hoàn được xem là giải pháp toàn diện, giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời mang lại lợi ích kinh tế – xã hội –  môi trường cho cả quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành Dệt May.

TS. Lê Xuân Thịnh – Giám đốc VNCPC trình bày về lợi ích của kinh tế tuần hoàn.

Cũng tại hội thảo TS. Nguyễn Văn Thông – Nguyên giám đốc Viện nghiên cứu Dệt May đã có bài trình bày về hiện trạng và xu hướng áp dụng kinh tế tuần hoàn đối với ngành Dệt May tại Việt Nam, đặc biệt đối với chất thải rắn.

TS. Nguyễn Văn Thông trình bày về hiện trạng và xu hướng áp dụng kinh tế tuần hoàn đối với ngành Dệt May tại Việt Nam.

Phần trình bày của Ths.Vũ Năng Nam – Thành viên ban soạn thảo về Tài liệu hướng dẫn áp dụng kinh tế tuần hoàn đối với chất thải rắn ngành Dệt May, với các bước áp dụng kinh tế tuần hoàn cho chất thải rắn ngành Dệt May đã nhận được sự đánh giá cao từ cộng đồng doanh nghiệp cũng như các câu hỏi liên quan dành cho ban soạn thảo.

Ths.Vũ Năng Nam hướng dẫn các bước áp dụng kinh tế tuần hoàn cho chất thải rắn ngành Dệt May.

Một số hình ảnh về các hoạt động tại hội thảo:

VNCPC

VNCPC đào tạo nâng cao kiến thức về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững khu vực phía Nam

Trong 2 ngày 16-17/11/2023, khóa đào tạo về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững khu vực phía Nam được tổ chức tại Tp.HCM. Khóa đào tạo thuộc Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030 do Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững (Bộ Công Thương) phối hợp cũng Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) thực hiện.

Học viên tham gia khóa học là các cán bộ thuộc Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Trung tâm Khuyến công và tư vấn phát triển công nghiệp trực thuộc Sở Công Thương cùng các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng bền vững khu vực phía Nam.

Ông Cù Huy Quang – Phó Chánh Văn phòng Sản xuất và Tiêu dùng bền vững (Bộ Công Thương) cho biết: Ngoài tập huấn những kiến thức cơ bản để thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững, khóa đào tạo còn góp phần tạo ra mạng lưới chuyên gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững khu vực phía Nam nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển đổi nhanh hơn.

Học viên tham gia khóa đào tạo chụp ảnh lưu niệm cùng giảng viên và ban tổ chức.

Theo đó, nội dung của khóa đào tạo đã tập trung vào các nội dung chính bao gồm: Chủ đề Sản xuất bền vững với trọng tâm là: Sử dụng năng lượng, nước, vật liệu tiết kiệm và hiệu quả, sử dụng hóa chất an toàn và hiệu quả, hướng dẫn sử dụng các công cụ tính toán trong kiểm toán năng lượng…; Kinh tế tuần hoàn; Chủ đề quản lý tài nguyên bền vững; Chủ đề phân phối bền vững và chủ đề tiêu dùng bền vững. Các nội dung được trình bày bởi các chuyên gia đến từ Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc dân cùng các chuyên gia cao cấp của VNCPC.

 “Sau khi tham gia khoá đào tạo này, học viên sẽ được cấp chứng chỉ từ Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững. Đây cũng là tiền đề để Vụ có thể xây dựng và mở rộng mạng lưới về sản xuất tiêu dùng bền vững trên khắp cả nước”, ông Lê Xuân Thịnh – Giám đốc VNCPC cho biết thêm.

Trước đó, khóa đào tạo đã được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 21-22/9, tại Đà Nẵng vào ngày 12-13/10.

Một số hình ảnh về khóa đào tạo tại Tp.HCM

Ông Cù Huy Quang – Phó Chánh Văn phòng Sản xuất và Tiêu dùng bền vững phát biểu khai mạc khóa đào tạo.

Ông Lê Xuân Thịnh – Giám đốc VNCPC giới thiệu về chương trình đào tạo.

Ông Đinh Mạnh Thắng chuyên gia cao cấp về Sử dụng hiệu quả tài nguyên và Sản xuất sạch hơn (RECP) trình bày về Chủ đề Sản xuất bền vững.

Thạc sỹ Bùi Thanh Hùng- Giảng viên đại học Bách khoa Hà Nội trình bày về phần Nhiệt năng.

Học viên tham gia phần trò chơi và nhận phần thưởng từ ban tổ chức.

VNCPC

 

VNCPC thực hiện khóa đào tạo về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững tại Đà Nẵng

Trong 2 ngày (12-13/10/2023), tại Đà Nẵng, Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) tiếp tục phối hợp với Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững (Bộ Công Thương) tổ chức khoá đào tạo cơ bản về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững.
Đây là khóa đào tạo thuộc chương trình hành động quốc gia về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030.
Khóa đào tạo có sự tham gia của 20 cán bộ, đại diện cho các Sở Công Thương, Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển Công nghiệp, các đơn vị tư vấn và đơn vị liên quan thuộc các tỉnh, thành phố khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Học viên tham gia khóa đào tạo Sản xuất và Tiêu dùng bền vững chụp ảnh lưu niệm cùng giảng viên.
Nội dung chính của khóa đào tạo tập trung vào: Chủ đề Sản xuất bền vững với trọng tâm là: Sử dụng năng lượng, nước, vật liệu tiết kiệm và hiệu quả, Sử dụng hóa chất an toàn và hiệu quả, Hướng dẫn sử dụng các công cụ tính toán trong kiểm toán năng lượng…, Kinh tế tuần hoàn; Chủ đề Quản lý tài nguyên bền vững; Chủ đề Phân phối bền vững và Chủ đề Tiêu dùng bền vững.
Một số hình ảnh về khóa đào tạo Sản xuất và Tiêu dùng bền vững tại Đà Nẵng.
Sau khi tham gia khoá đào tạo, các học viên sẽ được cấp chứng nhận từ Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững. Đây chính là cơ sở để Bộ Công Thương xây dựng và mở rộng mạng lưới chuyên gia về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững trên khắp cả nước.
Trước đó, khóa đào về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững khu vực phía Bắc và Bắc Trung bộ đã diễn ra tại Hà Nội vào ngày 21-22/09/2023. Khóa đào tạo khu vực miền Nam sẽ diễn ra vào 16-17/11/2023, tại Tp. HCM.
VNCPC

Kinh tế tuần hoàn: Hướng đi giúp DN dệt may tối ưu hóa lợi nhuận

Dệt may là một trong những ngành sản xuất gia công có nhiều thế mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên, ngành dệt may đang sử dụng rất nhiều nguồn lực lao động và tài nguyên… Vì vậy, chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn sẽ giúp DN dệt may tối ưu hóa chi phí và lợi nhuận.

Ngành dệt may và mục tiêu xanh hóa

Mới đây, EU, thị trường nhập khẩu trên 4 tỷ USD/năm hàng dệt may Việt Nam, đã đề xuất áp dụng một số quy định sinh thái mới đối với hàng dệt may tiêu thụ tại 27 nước thành viên. Theo đó, hàng dệt may vào EU phải có tuổi thọ cao, có thể tái sử dụng và tái chế được. Tất cả những thông tin trên phải được nhà sản xuất cung cấp cho người tiêu dùng thông qua việc gắn hộ chiếu kỹ thuật số cho từng sản phẩm.

Nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng đã đặt ra mục tiêu “xanh hóa” với kế hoạch đến năm 2023, giảm 15% tiêu thụ năng lượng, 20% tiêu thụ nước. Đến năm 2030, chuyển đổi “xanh hóa” ngành dệt may Việt Nam, đồng thời xây dựng được 30 thương hiệu mang tầm quốc tế.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Cao Hữu Hiếu, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), cho rằng đây là hướng đi mới nhưng đòi hỏi cần có sự đầu tư bài bản, nguồn lực lớn. Lãnh đạo Vinatex cho biết sẽ tập trung phấn đấu giảm 30% lượng nước thải sau nhuộm bằng công nghệ mới; sử dụng lại 30% nước thải sau xử lý cho các công đoạn giặt, rửa, vệ sinh. Đối với ngành sợi, sẽ sử dụng ít nhất 20% xơ polyester tái chế, 15% bông organic để giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Đầu tư điện mặt trời tại các nhà máy đủ điều kiện tự nhiên để phấn đấu 10% lượng điện sử dụng có nguồn gốc từ năng lượng tái tạo…

Tán đồng với quan điểm trên, ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Tổng công ty May 10, cho biết doanh nghiệp cũng bị áp lực bởi chính những khách hàng nhập khẩu, khi họ yêu cầu những tiêu chuẩn về nhà máy xanh, môi trường làm việc cho người lao động, giảm khí thải ô nhiễm, giảm chất thải độc hại. “Hiện nay, toàn bộ hệ thống nhà máy của May 10 về xuất khẩu đều đảm bảo được yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, rất nhiều khách hàng yêu cầu May 10 phải sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên, nguyên liệu tái chế và tự phân hủy sau 5 – 10 năm… Đó cũng chính là mục tiêu May 10 đang tập trung triển khai”, ông Việt nhấn mạnh.

H&M – nhà sản xuất hàng may mặc toàn cầu có 31 nhà cung cấp tại Việt Nam cũng cam kết phát triển chuỗi cung ứng trung hòa các-bon cho các nhà máy chế tạo và chế biến thuộc sở hữu của họ hoặc qua ký hợp đồng thầu phụ với các nhà cung cấp vải, chế biến vải, sản xuất sợi, thuộc da vào năm 2030. Nhãn hàng Nike đã công bố các kế hoạch tương tự, có ảnh hưởng đến trên 100 nhà cung cấp của Nike tại Việt Nam…

Ngành dệt may và những lợi ích khi triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn

Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS): Tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam trong ba tháng đầu năm 2022 đạt hơn 10,6 tỷ USD, tăng gần 20% so với cùng kỳ. Ngành dệt may đang lấy lại đà tăng trưởng, với kịch bản tích cực nhất, khi tình hình dịch bệnh được kiểm soát, tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam sẽ đạt khoảng 42 – 43,5 tỷ USD.

Tuy nhiên, muốn tận dụng tốt các cơ hội xuất khẩu, nhiều chuyên gia cho rằng doanh nghiệp cần phải tự chủ được nguồn cung nguyên phụ liệu, đáp ứng yêu cầu của các Hiệp định thương mại thế hệ mới (FTA).

Đặc biệt, ngành dệt may Việt Nam cần phát triển theo mô hình kinh tế tuần hoàn dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hoàn toàn không giống với cách nhìn của nền kinh tế tuyến tính truyền thống với nguyên lý “khai thác, sản xuất và thải bỏ sau tiêu thụ”, đang làm cạn kiệt tài nguyên và tạo ra một lượng lớn chất thải.

Về cơ bản, nền kinh tế tuần hoàn thúc đẩy sử dụng hiệu quả tài nguyên, tái sử dụng và khép kín chu trình sản xuất nhằm mục đích giảm nguyên liệu và năng lượng đầu vào, kéo dài vòng đời sản phẩm, giảm thiểu phát sinh chất thải và giảm tác động xấu đến môi trường. Nền kinh tế tuần hoàn nhất quán với các nguyên tắc 3R: Giảm thiểu, Tái sử dụng và Tái chế.

Như vậy, triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn, các DN dệt may sẽ có nhiều lợi ích và cơ hội, đó là: Giảm thiểu việc sử dụng các nguồn tài nguyên không tái tạo như nước, năng lượng, nhiên liệu hóa thạch và nguyên liệu thô; Giảm sự phụ thuộc vào các nước khác, sự phụ thuộc này có thể dẫn tới những căng thẳng về chính trị toàn cầu; Giảm đáng kể lượng phát thải khí nhà kính, giảm thiểu những tác động của biến đổi khí hậu; Thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và mô hình; Gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, tiết kiệm cho người tiêu dùng; Tạo ra các cơ hội kinh tế; Tạo việc làm mới (trong lĩnh vực đổi mới, thiết kế, tái chế và sáng tạo).

Mặc dù có nhiều lợi ích và tiềm năng, song theo các chuyên gia việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn không phải là một quá trình đơn giản, đặc biệt đối với ngành có chuỗi cung ứng phức tạp và rộng khắp trên thế giới như ngành dệt may.

Theo https://vinatex.com.vn/san-xuat-va-tieu-thu-hang-det-may-trong-nen-kinh-te-tuan-hoan; https://vneconomy.vn/doanh-nghiep-det-may-xanh-hoa-hay-se-bi-tut-lai-phia-sau.htm

Hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và sản xuất tuần hoàn

Ngày 13/8, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) đã phối hợp với Trung tâm thương mại quốc tế (ITC) tổ chức Hội thảo trực tuyến “Khởi động hợp phần: Sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và sản xuất tuần hoàn”. Sự kiện nằm trong khuôn khổ dự án “Thương mại vì sự phát triển bền vững – T4SD”.

Hội thảo trực tuyến “Khởi động hợp phần: Sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và sản xuất tuần hoàn (RECP)” nhằm tập trung nâng cao nhận thức và xây dựng năng lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ về thực hành sản xuất, chế biến, kinh doanh theo hướng bền vững. Nội dung đào tạo, gồm: Đánh giá mức tiêu thụ tài nguyên thực tế; thiết kế chiến lược riêng về sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và sản xuất tuần hoàn; tiếp cận công nghệ và tài chính “xanh” để có thể thực hiện chiến lược kinh doanh.

Phát biểu khai mạc sự kiện, ông Hoàng Minh Chiến- Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (XTTM) cho hay, đại dịch Covid-19 đã tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội toàn cầu, thay đổi nhận thức của người dân trên toàn thế giới. Làm sâu sắc hơn nhận thức về mô hình tăng trưởng hướng đến phát triển bền vững. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia trên thế giới như các nước thuộc EU, Nhật Bản, Hàn Quốc,… đang chuyển đổi mạnh mẽ sang kinh tế tuần hoàn. Tại Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định xây dựng kinh tế tuần hoàn là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030”.


Ông Hoàng Minh Chiến- Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương): Việt Nam đang hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.

Lãnh đạo Cục XTTM cũng cho hay, hiện phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp nhiều rào cản trong chuyển dịch đi lên kinh tế tuần hoàn, như: Chưa có tư duy và nhận thức đầy đủ về kinh tế tuần hoàn, thiếu cam kết và kiên trì từ lãnh đạo, thiếu thông tin, hạn chế về nguồn nhân lực và tài chính. Cục XTTM đang từng bước triển khai các hoạt động huấn luyện, đào tạo, tư vấn, hỗ trợ xây dựng kế hoạch đi lên kinh tế tuần hoàn và các sự kiện thiết thực hỗ trợ cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong thời kỳ Covid-19 và trong thời gian tới.

Chia sẻ về những lợi ích trực tiếp dành cho doanh nghiệp khi tham gia dự án, bà Ann-Kathrin Zotz- Quản lý toàn cầu Dự án T4SD, ITC, cho biết, doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ: Tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của các chủ thể trong chuỗi giá trị thông qua giảm chi phí sản xuất và tăng năng suất; tạo cơ hội kinh doanh mới thông qua việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới; tạo cơ hội tiếp cận tài chính “xanh”.


Bà Ann-Kathrin Zotz, Quản lý toàn cầu Dự án T4SD, ITC: Doanh nghiệp được hưởng nhiều lợi ích khi tham gia RECP.

Tất cả những lợi ích trên để giúp doanh nghiệp tiến tới mục tiêu xa hơn là phát triển kinh tế tuần hoàn. Đây là mô hình tiêu thụ, sản xuất trong đó tái sử dụng nguyên liệu và sản phẩm hiện hữu càng lâu càng tốt. Theo cách đó, có thể sử dụng nguồn tài nguyên nước, năng lượng… một cách hiệu quả.

Thế giới hiện có nhiều xu hướng, trong đó có nhu cầu minh bạch hoá và khả năng truy suất sản phẩm ngày càng tăng lên trong chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị trước khi sản phẩm được đưa ra thị trường và tới tay người tiêu dùng. Cùng đó là xu hướng tuân thủ theo các tiêu chuẩn để hướng tới để sản xuất bền vững. Theo bà Ann-Kathrin Zotz, nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng ngày một lớn hơn, khó hơn, nhất là yêu cầu về sản xuất bền vững đòi hỏi sự tham gia và tuân thủ từ các nhà sản xuất.

Tuy nhiên, để hợp phần cũng như dự án thành công, điều quan trọng là sự cam kết tham gia của doanh nghiệp trong việc giữ liên lạc với chuyên gia, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho chuyên gia đến làm việc. Thời điểm hiện tại, dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, dựa trên tình hình thực tế, dự án sẽ điều chỉnh linh hoạt các kế hoạch thực hiện cho phù hợp để đảm bảo an toàn cho đội ngũ chuyên gia và doanh nghiệp.


Hội thảo trực tuyến “Khởi động hợp phần: Sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và sản xuất tuần hoàn (RECP)” thu hút sự quan tâm của đông đảo doanh nghiệp.

Với những lợi ích mang lại, hợp phần RECP, cũng như dự án T4SD thu hút sự quan tâm đông đảo của cộng đồng doanh nghiệp. Tại sự kiện, các chuyên gia cũng đã giải đáp nhiều ý kiến liên quan đến các chương trình đào tạo, kiến thức về sử dụng tài nguyên hiệu quả, phương thức cập nhật thông tin, thời gian thực hiện dự án…

Một trong những nội dung được doanh nghiệp quan tâm là nguồn tài chính cho thực hiện hợp phần, bà Nguyễn Bảo Thoa- Quản lý dự án T4SD tại Việt Nam thông tin, quý cuối cùng của năm 2021, hợp phần tài chính xanh sẽ đi vào thực hiện. Như vậy, ngay sau khi hợp phần RECP kết thúc và xác định ra khâu nào phải đầu tư, cải tiến thì ngay lập tức đội ngũ tư vấn về tài chính xanh và ngân hàng, các tổ chức tài chính sẽ phối hợp hoàn chỉnh các khâu đó.

Việt Nga

https://congthuong.vn/ho-tro-doanh-nghiep-su-dung-hieu-qua-nguon-tai-nguyen-va-san-xuat-tuan-hoan-162349.html?fbclid=IwAR2pSExVQFmIj8WLs9gFw6ORiK4qV8YPM4UYBEo01rn2i-szS3_uUGDZMIU