Chung tay giải quyết ô nhiễm nhựa và nilon

Sáng ngày 12/10, tại Hà Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức lễ phát động Phong trào chống rác thải nhựa với sự phối hợp của các đối tác quốc tế nhằm hưởng ứng chiến dịch làm cho Thế giới sạch hơn năm 2018.

Tham dự lễ phát động có ông Trần Hồng Hà – Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, bà Nguyễn Thị Thu Hà – Ủy viên Ban Chấp hành TƯ Đảng, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam cùng đại diện nhiều bộ, ngành, các hiệp hội, doanh nghiệp sản xuất thương mại có sử dụng vật liệu nhựa, các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ hàng hóa; đại diện các tổ chức quốc tế, đại sứ quán; cùng các cơ quan thông tấn báo chí trung ương.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà phát biểu tại lễ phát động.

Các sản phẩm từ nhựa, nilon ra đời mang lại không ít tiện ích và đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của nhiều người chúng ta. Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, kể từ thập niên 50 của thế kỷ trước, hơn 8,3 tỷ tấn sản phẩm nhựa đã được sản xuất, sử dụng, trong đó khoảng 60% lượng sản phẩm đó được chôn lấp hoặc thải thẳng ra môi trường.

Những đặc tính bền, khó phân hủy của các sản phẩm nhựa, nilon đã và đang gây ô nhiễm môi trường, để lại những hậu quả khôn lường đối với sức khỏe con người và các loài động thực vật trên Trái Đất.

“Ô nhiễm rác thải nhựa, đặc biệt là ô nhiễm rác thải nhựa đại dương đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu. Giảm thiểu chất thải từ nhựa, nilon đã trở thành yêu cầu cấp bách ngay lúc này, trước hết bắt đầu từ việc giảm thiểu tiêu thụ các sản phẩm nhựa và nilon khó phân hủy, đặc biệt là các sản phẩm nhựa dùng một lần” – Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trườngTrần Hồng Hà nhấn mạnh.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng lãnh đạo các tổ chức chính trị xã hội trao cam kết chống rác thải nhựa.

Vì vậy, để tiếp nối các hoạt động hưởng ứng Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn năm 2018, góp phần giải quyết ô nhiễm nhựa, nilon trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức phát động phong trào “Chống rác thải nhựa” nhằm kêu gọi những hành động thiết thực, thay đổi hành vi, thói quen sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần, bao gồm cả túi nilon khó phân hủy, ngay hôm nay và ngay bây giờ.

Tại lễ phát động, ông Kamal Malhotra, Đại diện thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam cho biết: Ô nhiễm nhựa ở châu Á là một vấn đề lớn. Trên thực tế, 60% lượng rác thải nhựa thải ra biển có nguồn gốc từ 6 nước ở châu Á, trong đó có Việt Nam.

Cũng tại Lễ phát động, lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Trung ương Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam và các doanh nghiệp tham dự đã trao các cam kết tham gia “Phong trào chống rác thải nhựa”.

Theo scp.gov.vn (12/10/2018)

Bộ Tài nguyên và Môi trường phát động Phong trào chống rác thải nhựa quy mô toàn quốc

Hưởng ứng Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn năm 2018, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì tổ chức Lễ phát động “Phong trào chống rác thải nhựa” nhằm khởi động cho Chiến dịch có quy mô toàn quốc với sự tham gia của toàn xã hội trong việc ngăn chặn phát sinh rác thải nhựa và túi nilon ra môi trường.

Lễ phát động sẽ diễn ra vào lúc 8h30 sáng thứ sáu, ngày 12/10/2018 tại Hội trường tầng 5 nhà B, trụ sở Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 10 Tôn Thất Thuyết, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì Lễ phát động. Tham dự có đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương và một số Bộ, ngành khác có liên quan; đại diện các tổ chức chính trị – xã hội; các hiệp hội, doanh nghiệp sản xuất thương mại có sử dụng vật liệu nhựa, các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ hàng hóa; đại diện các Tổ chức quốc tế, đại sứ quán; các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường; và các cơ quan thông tấn báo chí.

Trước đó, ngày 11/9/2018, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã phát động đợt thi đua trong toàn Ngành: “Hành động để giảm thiểu ô nhiễm nhựa và ni lông”. Hưởng ứng đợt thi đua này, mỗi cán bộ, công nhân viên chức và người lao động trong toàn Ngành hành động và vận động gia đình, người thân cùng thực hiện “Nói không với sản phẩm nhựa và túi ni lông sử dụng một lần”.

Theo Hải Anh/Scp.gov.vn (11/10/2018)

Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam để hỗ trợ tăng trưởng xanh

Hóa học xanh là khái niệm về phát triển hóa học một cách bền vững (còn gọi là hóa học bền vững), qua đó khuyến khích phát triển các phương pháp và quá trình tạo ra sản phẩm nhằm hạn chế sản xuất và sử dụng các hóa chất độc hại.

Mới đây, Cục Hóa chất (Bộ Công Thương) phối hợp với Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên Môi trường) triển khai dự án “Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam” nhằm hỗ trợ tăng trưởng xanh, giảm thiểu sử dụng, phát thải các chất ô nhiễm khó phân hủy (POPs) và hóa chất nguy hại.

Khởi động dự án “Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam”

Mục tiêu của dự án là nhằm kiến tạo môi trường thuận lợi cho việc giới thiệu hóa học xanh và những ứng dụng hóa học xanh cho các ngành sản xuất tại Việt Nam nhằm mục tiêu giảm thiểu việc sử dụng và phát thải các hóa chất thuộc danh mục kiểm soát của Công ước Stockholm (về POPs) và Công ước Minamata (về thủy ngân), nhằm ngăn chặn ô nhiễm thủy ngân gây tác hại đối với sức khỏe con người và môi trường, dựa trên 12 nguyên tắc của hóa học xanh, bao gồm: Ngăn ngừa chất thải; tối đa hóa tiết kiệm nguyên tử; phát triển các quá trình tổng hợp hóa học ít độc hại hơn; phát triển các sản phẩm và hóa chất an toàn hơn; sử dụng các dung môi và điều kiện phản ứng an toàn hơn; tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng; sử dụng các nguyên liệu có thể tái sinh; tránh làm phát sinh phụ phẩm; sử dụng chất xúc tác để tăng hiệu suất phản ứng; phát triển các hóa chất và sản phẩm có thể phân hủy sau khi sử dụng; quan trắc và phân tích theo thời gian thực tế để ngăn ngừa ô nhiễm; giảm thiểu tối đa khả năng xảy ra tai nạn.

Hóa học xanh góp phần phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.

Dự án “Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam” là dự án đầu tiên về hóa học xanh được triển khai ở Đông Nam Á, được thực hiện trong vòng 3 năm, tập trung vào việc tiếp tục giúp giảm thiểu sử dụng POPs, giảm phát thải không chủ định POPs thông qua hoạt động giới thiệu về các cách tiếp cận hóa học xanh trong 6 ngành công nghiệp tại Việt Nam, bao gồm: Mạ crôm; sản xuất giấy và bột giấy; sản xuất nhựa; dệt; hóa chất bảo vệ thực vật; dung môi – sơn. Những hướng dẫn cụ thể cho từng ngành sẽ được xây dựng, lồng ghép cách tiếp cận hóa học xanh vào các văn bản pháp luật có liên quan.

Trong năm 2018, dự án đặt mục tiêu thiết lập được môi trường thuận lợi cho việc áp dụng thực hành hóa học xanh, giới thiệu các ứng dụng và lợi ích của hóa học xanh cho cán bộ lãnh đạo, công chúng và doanh nghiệp thuộc các ngành tiểu ngành công nghiệp được chọn. Trình diễn thí điểm các giải pháp hoặc công nghệ hóa học xanh nhằm mục đích giảm thiểu sử dụng hoặc phát thải các chất POPs và thủy ngân tại ít nhất 2 doanh nghiệp ở 2 ngành sản xuất, chế tạo. Đánh giá năng lực quốc gia liên quan đến áp dụng hóa học xanh, đánh giá hiện trạng khung pháp lý cho 6 ngành ưu tiên, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn.

Theo scp.gov.vn (8/10/2018)

Doanh nghiệp xi măng tích cực triển khai công nghệ tận dụng nhiệt thừa để phát điện

Xi măng dư cung khá cao; giá điện, than và các nguyên liệu đầu vào không ngừng tăng lên, buộc các doanh nghiệp trong ngành xi măng phải ‘thắt lưng buộc bụng’ tiết kiệm tối đa các chi phí, trong đó có chi phí về năng lượng điện. Tận dụng nhiệt thừa để phát điện đã và đang được các doanh nghiệp xi măng từng bước triển khai.

VICEM quyết tâm làm

Theo thống kê, cả nước hiện có 83 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất đạt 98,56 triệu tấn. Nhưng con số chưa dừng lại ở đây, giai đoạn tới, dự kiến sẽ có 3 dây chuyền với công suất 10,1 triệu tấn sẽ đi vào vận hành, gồm Xi măng Sông Lam dây chuyền 3, 4 (giai đoạn 2) của Tập đoàn The Vissai, công suất 3,8 triệu tấn/năm; Xi măng Kaito Hà Tiên của Thai Group công suất 4,5 triệu tấn; Xi măng Tân Thắng (Nghệ An) công suất 1,8 triệu tấn/năm.

Theo các chuyên gia, để sản xuất được 1 tấn clinker, tiêu thụ hết 58 – 60KWh điện; từ clinker để nghiền ra 1 tấn xi măng tiêu thụ khoảng 40KWh. Nếu sử dụng công nghệ nghiền đứng hiện đại thì nghiền 1 tấn xi măng tiêu thụ khoảng 33 – 34KWh. Như vậy, nếu sản xuất và chạy 100% công suất, ngành xi măng sẽ tiêu thụ khoảng trên dưới 100 triệu KWh. Trong bối cảnh giá điện, than và nguyên liệu không ngừng tăng thì chương trình tiết kiệm năng lượng và sử dụng nhiệt thừa để phát điện đã và đang được các doanh nghiệp ngành xi măng quan tâm, triển khai.

Theo thống kê, cả nước hiện có 83 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất đạt 98,56 triệu tấn.

Đi đầu trong ứng dụng công nghệ tận dụng nhiệt thừa để phát điện phải kể đến Holcim Việt Nam và VICEM. Holcim Việt Nam đã đầu tư 18 triệu USD xây dựng trạm phát điện tận dụng nhiệt thừa để phát điện, đáp ứng 25% nhu cầu điện năng cho toàn bộ nhà máy Hòn Chông (Kiên Giang), giảm phát thải khoảng 25.300 tấn CO2/năm. VICEM cũng đang quyết liệt triển khai xây dựng hệ thống tận dụng nhiệt thừa khí thải để phát điện ở các nhà máy sản xuất xi măng.

Theo Chủ tịch Hội đồng thành viên VICEM Lương Quang Khải cho biết, chương trình tiết kiệm năng lượng và tận dụng nhiệt thừa để phát điện thì VICEM vẫn đang triển khai. Mặc dù áp lực sản xuất, áp lực tiền vốn đầu tư nhưng VICEM quyết làm.

Khi được hỏi về tính hiệu quả của dự án, ông Khải chia sẻ, tùy từng dự án mới đánh giá cụ thể tính hiệu quả của dự án. Nhưng trong tình hình giá than, giá điện không ngừng tăng thì các doanh nghiệp sản xuất xi măng buộc phải tính toán, tận dụng nhiệt thừa để phát điện để giảm tiêu hao điện năng và góp phần xử lý môi trường.

Tuyệt đối tránh mua thiết bị cũ, lạc hậu

Chủ tịch Hội đồng thành viên VICEM cho biết, theo tính toán, nếu vốn vay cao, thời gian hoàn vốn sẽ kéo dài. Vì thế VICEM chỉ đạo các đơn vị thành viên, đơn vị nào triển khai dự án tận dụng nhiệt thừa để phát điện thì vốn tự có phải đủ 30% trở lên. Với lãi suất thương mại như hiện nay thì giới hạn vay từ 70% trở xuống sẽ an toàn và giúp các nhà máy nhanh hoàn vốn.

Ông Khải khuyến cáo, nếu đầu tư, các nhà máy xi măng nên sử dụng công nghệ dung môi, kỹ thuật tiên tiến; tránh mua các thiết bị cũ, lạc hậu. Đây là yếu tố rất quan trọng làm nên hiệu quả và quá trình vận hành sau này của dự án. Công nghệ hiện đại, thiết bị tốt, bền nên được ưu tiên hàng đầu.

Hiện một số Công ty, một số nhà môi giới đứng ra tư vấn, bán thiết bị, hình thức thực hiện dự án theo mô hình xây dựng – chuyển giao. Ông Khải khuyến cáo nếu thực hiện theo hình thức này sẽ khó quản lý, vì nhiệt thừa là một bộ phận của nhà máy.

Chủ tịch Hội đồng thành viên VICEM cho rằng, các nhà máy xi măng nên tự thực hiện để sau sẽ tốt hơn trong quản lý vận hành, đồng thời quản lý được công nghệ, thiết bị. VICEM cũng đánh giá hiệu quả và làm từng dự án, tránh làm theo phong trào sẽ bị môi giới ép giá. Những đơn vị có nguồn nhiệt lớn và có tiềm năng tài chính được lựa chọn triển khai trước. Sau đó nghiên cứu đánh giá dự án trên cơ sở thực tế nhằm đưa ra lộ trình phù hợp đảm bảo tính hiệu quả.

Theo baoxaydung.com.vn

Độc đáo công nghệ bụi thông minh với vô số ứng dụng

Hãy tưởng tượng một thế giới nơi các thiết bị không dây chỉ nhỏ như một hạt muối song vẫn có cảm biến, máy ảnh và nhiều cơ chế truyền thông để truyền dữ liệu mà chúng thu thập để xử lý.

Thế giới nói trên sẽ không còn là tưởng tượng ngày nay với hệ thống vi điện cơ (MEMS), thường được gọi là vi vật thể. MEMS đã xuất hiện và có thể sẵn có tại một khu phố Tây phương.

Theo Forbes, MEMS được trang bị cảm biến thu nhỏ, có thể phát hiện mọi thứ từ ánh sáng, rung động đến nhiệt độ. Với lượng năng lượng đáng kinh ngạc được đóng gói trong kích thước nhỏ chỉ vài milimet, MEMS bao gồm chức năng cảm biến, một nguồn cung cấp năng lượng tự động hóa, khả năng tính toán và truyền thông không dây. Với kích thước nhỏ như thế, thiết bị có thể bay trong môi trường hệt như một hạt bụi.

Dù nhỏ nhưng MEMS lại có rất nhiều “võ”. Vài tính năng tiêu biểu của MEMS là: Thu thập dữ liệu gồm áp lực, áp suất, độ ẩm, âm thanh và nhiều hơn nữa từ cảm biến; xử lý dữ liệu cho hệ thống máy tính; lưu trữ dữ liệu trong bộ nhớ; truyền thông không dây dữ liệu đến đám mây, cơ sở hoặc các MEMS khác.

Bụi thông minh có tiềm năng được sử dụng để thu thập thông tin về bất kỳ môi trường nào.

Vì các thành phần cấu tạo thiết bị này được in 3D theo một khối từ máy in 3D thương mại, chúng có thể xử lý số lượng phức tạp đáng kinh ngạc cùng một số rào cản trước đó trong việc in cực nhỏ. Ống kính quang học được tạo ra để các cảm biến thu nhỏ này có thể đạt được hình ảnh có chất lượng tốt nhất.

Bụi thông minh có tiềm năng được sử dụng để thu thập thông tin về bất kỳ môi trường nào. Vì thế, nó có thể tác động và thay đổi nhiều mặt trong các ngành công nghiệp, từ an toàn cho đến tuân thủ năng suất. Nó giống như việc nhân rộng công nghệ internet vạn vật (IOT) ra hàng triệu, hàng tỉ lần.

Một số ví dụ ứng dụng bụi thông minh trong thực tế kinh doanh và cuộc sống có thể kể đến là: Giám sát thiết bị để tạo điều kiện bảo trì kịp thời hơn; xác định điểm yếu và sự ăn mòn trước khi hệ thống hỏng; cho phép giám sát không dây con người và sản phẩm vì mục đích an ninh, bảo mật; tăng cường kiểm soát hàng tồn kho với MEMS để theo dõi sản phẩm từ kệ trong cơ sở sản xuất đến đóng gói, vận chuyển đến nơi bán lẻ.

Trong y tế, bụi nhân tạo có thể được dùng trong quy trình chẩn đoán mà không cần phẫu thuật, dùng để theo dõi các thiết bị giúp người khuyết tật tương tác với nhiều công cụ giúp họ sống một cách độc lập. Giới nghiên cứu tại Đại học California Berkeley còn công bố nghiên cứu về tiềm năng bụi thần kinh, một hệ thống cấy ghép được rắc lên não người để cung cấp phản hồi về chức năng não bộ.

Dù có nhiều ứng dụng độc đáo, bụi thông minh cũng còn không ít tồn tại, chẳng hạn như mối lo ngại về quyền riêng tư, giá cả và sự kiểm soát. Nhiều người hiểu về sản phẩm này lo ngại về các vấn đề riêng tư, vì bụi thông minh là các cảm biến siêu nhỏ, có thể ghi lại mọi thứ mà chúng được lập trình để ghi nhận. Vì quá nhỏ nên chúng rất khó để phát hiện.

1 tỉ hạt bụi thông minh được triển khai trong một khu vực có thể rất khó để được quản lý, truy xuất nếu cần. Cũng vì quá nhỏ nên bạn sẽ rất khó phát hiện ra chúng nếu không hay về sự hiện diện của chúng. Cuối cùng, như bất kỳ công nghệ mới nào, chi phí để thiết lập hệ thống bụi thông minh bao gồm nhiều vệ tinh và các yếu tố cần thiết khác là cao. Vì rào cản chi phí, công nghệ có thể khó đến được với số đông trong tương lai gần.

Theo Tapchicongthuong/Thanhnien.vn 

Việt Nam thúc đẩy sử dụng vật liệu xây dựng xanh trong các công trình

Sử dụng vật liệu xanh là xu hướng của các công trình hiện đại để phát triển bền vững. Trên thế giới hiện nay, nhiều quốc gia và thành phố lớn đang giảm dần việc sử dụng vật liệu xây dựng gây hại đến môi trường. Việt Nam cũng đi theo xu hướng này bằng việc thúc đẩy nhanh việc sử dụng vật liệu xây dựng xanh trong các công trình.

Các vật liệu xây dựng mới đang được quan tâm phát triển gồm: vật liệu xây không nung, các loại sơn sinh thái, tấm thạch cao, vật liệu cách nhiệt… Cụ thể, nước ta đã sản xuất được khoảng 24 tỷ viên gạch, tiết kiệm được hơn 1.800 ha đất, 3,6 triệu tấn than và giảm phát thải trên 13 triệu tấn khí nhà kính.

Ảnh minh họa (Nguồn: Báo Xây dựng)

Theo Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam, đến năm 2030, toàn ngành vật liệu xây dựng phải có công nghệ sản xuất tiên tiến, tự động hóa ở mức ngày càng cao; tiêu hao nguyên liệu và năng lượng thấp; chất lượng sản phẩm cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế và có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, đặc biệt là đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường.

Ông Tống Văn Nga, Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam cho biết, sẽ tập trung vào các giải pháp để chế tạo ra các sản phẩm vật liệu xây dựng xanh phục vụ cho xây dựng trước mắt và lâu dài.

“Hy vọng rằng ngành công nghiệp vật liệu xây dựng của nước ta, với sự đóng góp tích cực của các chuyên gia đầu ngành về quản trị, kỹ thuật, hợp tác quốc tế cũng sẽ có những bước tiến nhảy vọt trong việc lựa chọn công nghệ chế tạo và hợp tác chế tạo ra các dây chuyền thiết bị tiên tiến, đổi mới trong quản trị doanh nghiệp và thương mại để ngày càng có nhiều sản phẩm vật liệu xây dựng xanh”, ông Nga nhấn mạnh.

Cũng theo thông tin từ Hội Vật liệu xây dựng, Việt Nam sẽ thúc đẩy mạnh hơn để phát triển vật liệu xây dựng xanh đến năm 2030. Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách khuyến khích còn chưa được phát triển mạnh mẽ, do tính cạnh tranh của cơ chế thị trường nên chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất, kết quả đưa các sản phẩm vào sản xuất còn hạn chế. Do vậy, việc thúc đẩy nhanh, mạnh hơn nữa việc phát triển vật liệu xanh là vô cùng cần thiết.

“Để việc sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng xanh đạt được kết quả như kỳ vọng, thời gian tới cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như đầu tư đổi mới công nghệ; đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu. Đồng thời tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền. Việc cung cấp thông tin đầy đủ, khách quan về lợi ích, ưu nhược điểm, những kết quả, bài học thành công và không thành công trong việc sản xuất, sử dụng các sản phẩm vật liệu xây dựng xanh sẽ giúp khách hàng tiếp cận nhiều hơn đối với sản phẩm này. Từ đó, các mô hình sản xuất sẽ được mở rộng để dần thay thế các loại vật liệu xây dựng truyền thống”, Phó Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam Thái Duy Sâm nhấn mạnh.

Theo Văn phòng SXSH và SXTDBV