Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam để hỗ trợ tăng trưởng xanh

Hóa học xanh là khái niệm về phát triển hóa học một cách bền vững (còn gọi là hóa học bền vững), qua đó khuyến khích phát triển các phương pháp và quá trình tạo ra sản phẩm nhằm hạn chế sản xuất và sử dụng các hóa chất độc hại.

Mới đây, Cục Hóa chất (Bộ Công Thương) phối hợp với Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên Môi trường) triển khai dự án “Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam” nhằm hỗ trợ tăng trưởng xanh, giảm thiểu sử dụng, phát thải các chất ô nhiễm khó phân hủy (POPs) và hóa chất nguy hại.

Khởi động dự án “Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam”

Mục tiêu của dự án là nhằm kiến tạo môi trường thuận lợi cho việc giới thiệu hóa học xanh và những ứng dụng hóa học xanh cho các ngành sản xuất tại Việt Nam nhằm mục tiêu giảm thiểu việc sử dụng và phát thải các hóa chất thuộc danh mục kiểm soát của Công ước Stockholm (về POPs) và Công ước Minamata (về thủy ngân), nhằm ngăn chặn ô nhiễm thủy ngân gây tác hại đối với sức khỏe con người và môi trường, dựa trên 12 nguyên tắc của hóa học xanh, bao gồm: Ngăn ngừa chất thải; tối đa hóa tiết kiệm nguyên tử; phát triển các quá trình tổng hợp hóa học ít độc hại hơn; phát triển các sản phẩm và hóa chất an toàn hơn; sử dụng các dung môi và điều kiện phản ứng an toàn hơn; tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng; sử dụng các nguyên liệu có thể tái sinh; tránh làm phát sinh phụ phẩm; sử dụng chất xúc tác để tăng hiệu suất phản ứng; phát triển các hóa chất và sản phẩm có thể phân hủy sau khi sử dụng; quan trắc và phân tích theo thời gian thực tế để ngăn ngừa ô nhiễm; giảm thiểu tối đa khả năng xảy ra tai nạn.

Hóa học xanh góp phần phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.

Dự án “Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam” là dự án đầu tiên về hóa học xanh được triển khai ở Đông Nam Á, được thực hiện trong vòng 3 năm, tập trung vào việc tiếp tục giúp giảm thiểu sử dụng POPs, giảm phát thải không chủ định POPs thông qua hoạt động giới thiệu về các cách tiếp cận hóa học xanh trong 6 ngành công nghiệp tại Việt Nam, bao gồm: Mạ crôm; sản xuất giấy và bột giấy; sản xuất nhựa; dệt; hóa chất bảo vệ thực vật; dung môi – sơn. Những hướng dẫn cụ thể cho từng ngành sẽ được xây dựng, lồng ghép cách tiếp cận hóa học xanh vào các văn bản pháp luật có liên quan.

Trong năm 2018, dự án đặt mục tiêu thiết lập được môi trường thuận lợi cho việc áp dụng thực hành hóa học xanh, giới thiệu các ứng dụng và lợi ích của hóa học xanh cho cán bộ lãnh đạo, công chúng và doanh nghiệp thuộc các ngành tiểu ngành công nghiệp được chọn. Trình diễn thí điểm các giải pháp hoặc công nghệ hóa học xanh nhằm mục đích giảm thiểu sử dụng hoặc phát thải các chất POPs và thủy ngân tại ít nhất 2 doanh nghiệp ở 2 ngành sản xuất, chế tạo. Đánh giá năng lực quốc gia liên quan đến áp dụng hóa học xanh, đánh giá hiện trạng khung pháp lý cho 6 ngành ưu tiên, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn.

Theo scp.gov.vn (8/10/2018)

Doanh nghiệp xi măng tích cực triển khai công nghệ tận dụng nhiệt thừa để phát điện

Xi măng dư cung khá cao; giá điện, than và các nguyên liệu đầu vào không ngừng tăng lên, buộc các doanh nghiệp trong ngành xi măng phải ‘thắt lưng buộc bụng’ tiết kiệm tối đa các chi phí, trong đó có chi phí về năng lượng điện. Tận dụng nhiệt thừa để phát điện đã và đang được các doanh nghiệp xi măng từng bước triển khai.

VICEM quyết tâm làm

Theo thống kê, cả nước hiện có 83 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất đạt 98,56 triệu tấn. Nhưng con số chưa dừng lại ở đây, giai đoạn tới, dự kiến sẽ có 3 dây chuyền với công suất 10,1 triệu tấn sẽ đi vào vận hành, gồm Xi măng Sông Lam dây chuyền 3, 4 (giai đoạn 2) của Tập đoàn The Vissai, công suất 3,8 triệu tấn/năm; Xi măng Kaito Hà Tiên của Thai Group công suất 4,5 triệu tấn; Xi măng Tân Thắng (Nghệ An) công suất 1,8 triệu tấn/năm.

Theo các chuyên gia, để sản xuất được 1 tấn clinker, tiêu thụ hết 58 – 60KWh điện; từ clinker để nghiền ra 1 tấn xi măng tiêu thụ khoảng 40KWh. Nếu sử dụng công nghệ nghiền đứng hiện đại thì nghiền 1 tấn xi măng tiêu thụ khoảng 33 – 34KWh. Như vậy, nếu sản xuất và chạy 100% công suất, ngành xi măng sẽ tiêu thụ khoảng trên dưới 100 triệu KWh. Trong bối cảnh giá điện, than và nguyên liệu không ngừng tăng thì chương trình tiết kiệm năng lượng và sử dụng nhiệt thừa để phát điện đã và đang được các doanh nghiệp ngành xi măng quan tâm, triển khai.

Theo thống kê, cả nước hiện có 83 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất đạt 98,56 triệu tấn.

Đi đầu trong ứng dụng công nghệ tận dụng nhiệt thừa để phát điện phải kể đến Holcim Việt Nam và VICEM. Holcim Việt Nam đã đầu tư 18 triệu USD xây dựng trạm phát điện tận dụng nhiệt thừa để phát điện, đáp ứng 25% nhu cầu điện năng cho toàn bộ nhà máy Hòn Chông (Kiên Giang), giảm phát thải khoảng 25.300 tấn CO2/năm. VICEM cũng đang quyết liệt triển khai xây dựng hệ thống tận dụng nhiệt thừa khí thải để phát điện ở các nhà máy sản xuất xi măng.

Theo Chủ tịch Hội đồng thành viên VICEM Lương Quang Khải cho biết, chương trình tiết kiệm năng lượng và tận dụng nhiệt thừa để phát điện thì VICEM vẫn đang triển khai. Mặc dù áp lực sản xuất, áp lực tiền vốn đầu tư nhưng VICEM quyết làm.

Khi được hỏi về tính hiệu quả của dự án, ông Khải chia sẻ, tùy từng dự án mới đánh giá cụ thể tính hiệu quả của dự án. Nhưng trong tình hình giá than, giá điện không ngừng tăng thì các doanh nghiệp sản xuất xi măng buộc phải tính toán, tận dụng nhiệt thừa để phát điện để giảm tiêu hao điện năng và góp phần xử lý môi trường.

Tuyệt đối tránh mua thiết bị cũ, lạc hậu

Chủ tịch Hội đồng thành viên VICEM cho biết, theo tính toán, nếu vốn vay cao, thời gian hoàn vốn sẽ kéo dài. Vì thế VICEM chỉ đạo các đơn vị thành viên, đơn vị nào triển khai dự án tận dụng nhiệt thừa để phát điện thì vốn tự có phải đủ 30% trở lên. Với lãi suất thương mại như hiện nay thì giới hạn vay từ 70% trở xuống sẽ an toàn và giúp các nhà máy nhanh hoàn vốn.

Ông Khải khuyến cáo, nếu đầu tư, các nhà máy xi măng nên sử dụng công nghệ dung môi, kỹ thuật tiên tiến; tránh mua các thiết bị cũ, lạc hậu. Đây là yếu tố rất quan trọng làm nên hiệu quả và quá trình vận hành sau này của dự án. Công nghệ hiện đại, thiết bị tốt, bền nên được ưu tiên hàng đầu.

Hiện một số Công ty, một số nhà môi giới đứng ra tư vấn, bán thiết bị, hình thức thực hiện dự án theo mô hình xây dựng – chuyển giao. Ông Khải khuyến cáo nếu thực hiện theo hình thức này sẽ khó quản lý, vì nhiệt thừa là một bộ phận của nhà máy.

Chủ tịch Hội đồng thành viên VICEM cho rằng, các nhà máy xi măng nên tự thực hiện để sau sẽ tốt hơn trong quản lý vận hành, đồng thời quản lý được công nghệ, thiết bị. VICEM cũng đánh giá hiệu quả và làm từng dự án, tránh làm theo phong trào sẽ bị môi giới ép giá. Những đơn vị có nguồn nhiệt lớn và có tiềm năng tài chính được lựa chọn triển khai trước. Sau đó nghiên cứu đánh giá dự án trên cơ sở thực tế nhằm đưa ra lộ trình phù hợp đảm bảo tính hiệu quả.

Theo baoxaydung.com.vn

Độc đáo công nghệ bụi thông minh với vô số ứng dụng

Hãy tưởng tượng một thế giới nơi các thiết bị không dây chỉ nhỏ như một hạt muối song vẫn có cảm biến, máy ảnh và nhiều cơ chế truyền thông để truyền dữ liệu mà chúng thu thập để xử lý.

Thế giới nói trên sẽ không còn là tưởng tượng ngày nay với hệ thống vi điện cơ (MEMS), thường được gọi là vi vật thể. MEMS đã xuất hiện và có thể sẵn có tại một khu phố Tây phương.

Theo Forbes, MEMS được trang bị cảm biến thu nhỏ, có thể phát hiện mọi thứ từ ánh sáng, rung động đến nhiệt độ. Với lượng năng lượng đáng kinh ngạc được đóng gói trong kích thước nhỏ chỉ vài milimet, MEMS bao gồm chức năng cảm biến, một nguồn cung cấp năng lượng tự động hóa, khả năng tính toán và truyền thông không dây. Với kích thước nhỏ như thế, thiết bị có thể bay trong môi trường hệt như một hạt bụi.

Dù nhỏ nhưng MEMS lại có rất nhiều “võ”. Vài tính năng tiêu biểu của MEMS là: Thu thập dữ liệu gồm áp lực, áp suất, độ ẩm, âm thanh và nhiều hơn nữa từ cảm biến; xử lý dữ liệu cho hệ thống máy tính; lưu trữ dữ liệu trong bộ nhớ; truyền thông không dây dữ liệu đến đám mây, cơ sở hoặc các MEMS khác.

Bụi thông minh có tiềm năng được sử dụng để thu thập thông tin về bất kỳ môi trường nào.

Vì các thành phần cấu tạo thiết bị này được in 3D theo một khối từ máy in 3D thương mại, chúng có thể xử lý số lượng phức tạp đáng kinh ngạc cùng một số rào cản trước đó trong việc in cực nhỏ. Ống kính quang học được tạo ra để các cảm biến thu nhỏ này có thể đạt được hình ảnh có chất lượng tốt nhất.

Bụi thông minh có tiềm năng được sử dụng để thu thập thông tin về bất kỳ môi trường nào. Vì thế, nó có thể tác động và thay đổi nhiều mặt trong các ngành công nghiệp, từ an toàn cho đến tuân thủ năng suất. Nó giống như việc nhân rộng công nghệ internet vạn vật (IOT) ra hàng triệu, hàng tỉ lần.

Một số ví dụ ứng dụng bụi thông minh trong thực tế kinh doanh và cuộc sống có thể kể đến là: Giám sát thiết bị để tạo điều kiện bảo trì kịp thời hơn; xác định điểm yếu và sự ăn mòn trước khi hệ thống hỏng; cho phép giám sát không dây con người và sản phẩm vì mục đích an ninh, bảo mật; tăng cường kiểm soát hàng tồn kho với MEMS để theo dõi sản phẩm từ kệ trong cơ sở sản xuất đến đóng gói, vận chuyển đến nơi bán lẻ.

Trong y tế, bụi nhân tạo có thể được dùng trong quy trình chẩn đoán mà không cần phẫu thuật, dùng để theo dõi các thiết bị giúp người khuyết tật tương tác với nhiều công cụ giúp họ sống một cách độc lập. Giới nghiên cứu tại Đại học California Berkeley còn công bố nghiên cứu về tiềm năng bụi thần kinh, một hệ thống cấy ghép được rắc lên não người để cung cấp phản hồi về chức năng não bộ.

Dù có nhiều ứng dụng độc đáo, bụi thông minh cũng còn không ít tồn tại, chẳng hạn như mối lo ngại về quyền riêng tư, giá cả và sự kiểm soát. Nhiều người hiểu về sản phẩm này lo ngại về các vấn đề riêng tư, vì bụi thông minh là các cảm biến siêu nhỏ, có thể ghi lại mọi thứ mà chúng được lập trình để ghi nhận. Vì quá nhỏ nên chúng rất khó để phát hiện.

1 tỉ hạt bụi thông minh được triển khai trong một khu vực có thể rất khó để được quản lý, truy xuất nếu cần. Cũng vì quá nhỏ nên bạn sẽ rất khó phát hiện ra chúng nếu không hay về sự hiện diện của chúng. Cuối cùng, như bất kỳ công nghệ mới nào, chi phí để thiết lập hệ thống bụi thông minh bao gồm nhiều vệ tinh và các yếu tố cần thiết khác là cao. Vì rào cản chi phí, công nghệ có thể khó đến được với số đông trong tương lai gần.

Theo Tapchicongthuong/Thanhnien.vn 

Việt Nam thúc đẩy sử dụng vật liệu xây dựng xanh trong các công trình

Sử dụng vật liệu xanh là xu hướng của các công trình hiện đại để phát triển bền vững. Trên thế giới hiện nay, nhiều quốc gia và thành phố lớn đang giảm dần việc sử dụng vật liệu xây dựng gây hại đến môi trường. Việt Nam cũng đi theo xu hướng này bằng việc thúc đẩy nhanh việc sử dụng vật liệu xây dựng xanh trong các công trình.

Các vật liệu xây dựng mới đang được quan tâm phát triển gồm: vật liệu xây không nung, các loại sơn sinh thái, tấm thạch cao, vật liệu cách nhiệt… Cụ thể, nước ta đã sản xuất được khoảng 24 tỷ viên gạch, tiết kiệm được hơn 1.800 ha đất, 3,6 triệu tấn than và giảm phát thải trên 13 triệu tấn khí nhà kính.

Ảnh minh họa (Nguồn: Báo Xây dựng)

Theo Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam, đến năm 2030, toàn ngành vật liệu xây dựng phải có công nghệ sản xuất tiên tiến, tự động hóa ở mức ngày càng cao; tiêu hao nguyên liệu và năng lượng thấp; chất lượng sản phẩm cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế và có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, đặc biệt là đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường.

Ông Tống Văn Nga, Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam cho biết, sẽ tập trung vào các giải pháp để chế tạo ra các sản phẩm vật liệu xây dựng xanh phục vụ cho xây dựng trước mắt và lâu dài.

“Hy vọng rằng ngành công nghiệp vật liệu xây dựng của nước ta, với sự đóng góp tích cực của các chuyên gia đầu ngành về quản trị, kỹ thuật, hợp tác quốc tế cũng sẽ có những bước tiến nhảy vọt trong việc lựa chọn công nghệ chế tạo và hợp tác chế tạo ra các dây chuyền thiết bị tiên tiến, đổi mới trong quản trị doanh nghiệp và thương mại để ngày càng có nhiều sản phẩm vật liệu xây dựng xanh”, ông Nga nhấn mạnh.

Cũng theo thông tin từ Hội Vật liệu xây dựng, Việt Nam sẽ thúc đẩy mạnh hơn để phát triển vật liệu xây dựng xanh đến năm 2030. Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách khuyến khích còn chưa được phát triển mạnh mẽ, do tính cạnh tranh của cơ chế thị trường nên chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất, kết quả đưa các sản phẩm vào sản xuất còn hạn chế. Do vậy, việc thúc đẩy nhanh, mạnh hơn nữa việc phát triển vật liệu xanh là vô cùng cần thiết.

“Để việc sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng xanh đạt được kết quả như kỳ vọng, thời gian tới cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như đầu tư đổi mới công nghệ; đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu. Đồng thời tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền. Việc cung cấp thông tin đầy đủ, khách quan về lợi ích, ưu nhược điểm, những kết quả, bài học thành công và không thành công trong việc sản xuất, sử dụng các sản phẩm vật liệu xây dựng xanh sẽ giúp khách hàng tiếp cận nhiều hơn đối với sản phẩm này. Từ đó, các mô hình sản xuất sẽ được mở rộng để dần thay thế các loại vật liệu xây dựng truyền thống”, Phó Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam Thái Duy Sâm nhấn mạnh.

Theo Văn phòng SXSH và SXTDBV

TP HCM có tiềm năng lớn để phát triển điện mặt trời

TP HCM được đánh giá là một trong những tỉnh thành có tiềm năng lớn để phát triển ngành năng lượng mặt trời và là nơi có các hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ ứng dụng thực tiễn nguồn năng lượng mặt trời quy mô lớn nhất nước.

Theo khảo sát của Tổng Công ty Điện lực TP HCM (EVNHCMC) thì tổng công suất lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời tại TP HCM đến tháng 6/2017 khoảng 33MW. Trong đó, hiện toàn thành phố có khoảng 17.340 bình nước nóng năng lượng mặt trời, góp phần cắt giảm được công suất hệ thống khoảng 31MW. Và công suất lắp đặt pin mặt trời hiện nay trên địa bàn thành phố ước tính đạt 2MWp, trong đó 1.838,2 kWp đã nối lưới, được phân bố ở hai đối tượng chính gồm tòa nhà các cơ quan và doanh nghiệp 1.607,2 kWp (chiếm 87,5%) và hộ gia đình 231 kWp (chiếm 12,5%).


Doanh nghiệp điện mặt trời giới thiệu sản phẩm tại Triển lãm Quốc tế hàng đầu về ngành Tiết kiệm Năng lượng và Năng lượng Tái tạo tại Việt Nam (RE & EE Vietnam 2018) tại TPHCM.

TP HCM có điều kiện khí hậu rất phù hợp để phát triển điện mặt trời, nắng quanh năm, dù mùa mưa thì trong ngày vẫn có nắng. Theo đó, cường độ bức xạ mặt trời trung bình của TP HCM là khá cao nên có tiềm năng phát triển và ứng dụng năng lượng mặt trời tương đối lớn. Ước tính tổng bức xạ theo phương ngang (GHI) trung bình hằng năm tại khu vực phía Nam (trong đó có TP HCM) là 4,8-5,5 (kWh/m2/ngày).

Tuy nhiên, do quỹ đất hạn chế nên việc phát triển điện mặt trời tại TP HCM không khả thi đối với các nhà máy điện có công suất lớn chiếm nhiều diện tích đất mà chủ yếu xem xét tập trung theo hướng phát triển ứng dụng hệ thống pin mặt trời cho các tòa nhà (hộ gia đình, các tòa nhà chung cư, các trung tâm hành chính của thành phố).

Theo Sở Công Thương thành phố thì hiện đề án “Quy hoạch phát triển điện lực TP HCM giai đoạn 2016-2025, có xét đến năm 2035” quy hoạch điện mặt trời tại TP HCM có tổng công suất lắp đặt giai đoạn đến 2025 là khoảng 8,5MW và giai đoạn đến 2035 là khoảng 13,3MW.

Các tấm pin mặt trời lắp đặt nhà dân ở TP HCM (ảnh minh họa)

Hiện cơ chế hỗ trợ giá bán điện mặt trời nối lưới (quy mô lớn) có giá bán 2.086 đồng/kWh tương đương 9,35 UScents/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). EVN có trách nhiệm mua toàn bộ sản lượng điện mặt trời nối lưới. Theo quy định thì giá bán điện mặt trời nối lưới được điều chỉnh theo biến động của tỉ giá đồng/USD. Và cơ chế hỗ trợ giá bán này chỉ có hiệu lực đến ngày 30/06/2019.

Đối với dự án điện mặt trời trên mái nhà thì thực hiện cơ chế bù trừ điện năng (net-meterring) sử dụng hệ thống công tơ hai chiều. Theo đó trong một chu kỳ thanh toán, lượng điện phát ra từ các dự án trên mái nhà lớn hơn lượng điện tiêu thụ sẽ được chuyển sang chu kỳ thanh toán kế tiếp.

Khi kết thúc năm hoặc khi kết thúc hợp đồng mua bán điện, lượng điện phát dư sẽ được bán cho bên mua điện với giá bán điện 2.086 đồng/kWh tương đương 9,35 UScents/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). Hằng năm, căn cứ vào tỉ giá, Bộ Công Thương ban hành giá mua bán điện mặt trời đối với sự án trên mái nhà cho năm tiếp theo.

Dựa trên các phân tích định lượng và định tính về hiệu quả của chương trình năng lượng mặt trời trên mái nhà đối với TP HCM cho thấy, TP HCM có thể trở thành trung tâm và tiên phong trong ngành công nghiệp năng lượng mặt trời ở Việt Nam. Đồng thời, chương trình phát triển năng lượng mặt trời sẽ tận dụng các mái nhà (hiện chưa được sử dụng) vào các hoạt động kinh doanh, tạo thu nhập cho người dân thành phố. Qua đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân trong việc lắp đặt, bảo dưỡng và vận hành các hệ thống năng lượng mặt trời. Đây cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố có được kinh nghiệm trong ngành công nghiệp năng lượng mặt trời mở rộng kinh doanh đến các địa phương khác trên cả nước.

Theo Thiên Thanh/petrotimes.vn (24/9/2018)

Thủ tướng yêu cầu kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Chỉ thị số 27/CT-TTg về một số giải pháp cấp bách tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.

Nhằm tăng cường quản lý hoạt động nhập khẩu, sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu từ xa, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu và sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường không cấp mới Giấy xác nhận, không gia hạn Giấy xác nhận đối với đơn vị nhận ủy thác nhập khẩu phế liệu; chỉ xem xét cấp mới, cấp lại Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất đối với đơn vị nhập khẩu phế liệu để sử dụng trực tiếp làm nguyên liệu sản xuất khi chứng minh được nhu cầu và năng lực sử dụng phế liệu.

Không cấp phép nhập khẩu phế liệu về chỉ để sơ chế

Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục rà soát, hoàn thiện, bổ sung và xây dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu theo hướng quy định chặt chẽ các điều kiện bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất; không cấp phép cho các cơ sở sản xuất nhập khẩu phế liệu về chỉ để sơ chế, xử lý và bán lại nguyên liệu; thực hiện ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu trước khi phế liệu được nhập vào lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam. Rà soát các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam đã tham gia, rà soát các quy định về quản lý nhập khẩu hàng hóa nhóm 2 là phế liệu nhập khẩu tại Việt Nam để không trái với các cam kết quốc tế.

Đồng thời, rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất nhằm quản lý chặt chẽ chất lượng phế liệu nhập khẩu, đồng thời để thuận lợi cho công tác giám định phế liệu nhập khẩu, hoàn thành và ban hành trong quý III/2018.

Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tổ chức thanh tra, kiểm tra đánh giá toàn diện công tác cấp Giấy chứng nhận/Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu của các tổ chức được cấp Giấy chứng nhận/Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của các tổ chức được chỉ định tham gia chứng nhận phù hợp quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật nếu phát hiện vi phạm.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tăng cường quản lý việc nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu. Ảnh: báo Thanh niên

Ngăn chặn hàng phế liệu nhập khẩu không đáp ứng quy định

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chỉ đạo cơ quan Hải quan tập trung lực lượng cho thông quan nhanh các lô hàng phế liệu nhập khẩu của tổ chức, cá nhân đã có Giấy chứng nhận/Giấy xác nhận đủ điều kiện bảo vệ môi trường trong nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất còn hiệu lực và hạn ngạch nhập khẩu.

Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Hải quan áp dụng các biện pháp ngăn chặn từ xa các lô hàng phế liệu nhập khẩu không đáp ứng các quy định của pháp luật Việt Nam; hướng dẫn các hãng tàu/đại lý hãng tàu khi khai thông tin e-Manifest trước khi tàu cập cảng phải khai đầy đủ thông tin cụ thể về chủ hàng tại Việt Nam đối với phế liệu nhập khẩu (tên doanh nghiệp, mã số thuế, địa chỉ, số của Giấy chứng nhận/Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất…), mô tả hàng hóa phải thể hiện đầy đủ để xác định được loại phế liệu thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất…

Buộc tái xuất các lô hàng lợi dụng nhập khẩu phế liệu để đưa chất thải vào Việt Nam

Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương rà soát, bổ sung quy định về việc tạm dừng các hoạt động tạm nhập, tái xuất, quá cảnh, trung chuyển hàng hóa là phế liệu nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật; kiên quyết buộc tái xuất các lô hàng lợi dụng nhập khẩu phế liệu để đưa chất thải vào Việt Nam, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan rà soát, áp dụng hoặc đề xuất áp dụng biện pháp tạm ngừng hoạt động tạm nhập, tái xuất, quá cảnh, trung chuyển hàng hóa là phế liệu vào lãnh thổ Việt Nam phù hợp với tình hình thực tế; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan nghiên cứu áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với quy định của WTO đối với việc nhập khẩu phế liệu.

Bộ Công Thương chỉ đạo cơ quan quản lý thị trường theo thẩm quyền tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động buôn bán và sử dụng phế liệu nhập khẩu; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng cho các tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu về việc kể từ ngày 01/10/2018 không cho phép phế liệu nhập khẩu thông qua các cửa khẩu bằng đường bộ và đường sắt vào Việt Nam.

Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các cơ quan liên quan thông báo cho các doanh nghiệp kinh doanh cảng biển, chủ tàu, chủ hãng vận tải biển chỉ được đưa xuống tàu để vận chuyển về Việt Nam những đơn hàng có Giấy chứng nhận/Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu (còn hiệu lực) nhằm phòng ngừa vận chuyển phế liệu bất hợp pháp từ xa ngoài biên giới; Chủ tàu, chủ hãng vận tải biển phải chịu trách nhiệm đối với lô hàng phế liệu đang vận chuyển của tổ chức, cá nhân không có Giấy chứng nhận/Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu; doanh nghiệp kinh doanh cảng biển không cho hàng hóa dỡ xuống cảng biển Việt Nam khi chủ tàu và chủ hàng không xuất trình được Giấy chứng nhận/Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất còn hiệu lực, hạn ngạch nhập khẩu và chưa thực hiện ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo quy định; chịu trách nhiệm về việc cho phép bốc dỡ các lô hàng phế liệu nhập khẩu nêu trên.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ xem xét cấp mới, cấp lại Giấy xác nhận đối với đơn vị nhập khẩu sử dụng trực tiếp phế liệu làm nguyên liệu sản xuất khi chứng minh được nhu cầu và năng lực sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Gửi Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất và các thông báo về lô hàng phế liệu nhập khẩu theo thẩm quyền trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Cổng thông tin Một cửa quốc gia.

Theo Bảo Lâm/vietq.vn (19/9/2018)