Tua bin GE đã sẵn sàng cho dự án phong điện Tây Nguyên

Dự án Phong điện Tây Nguyên đang gấp rút hoàn thiện giai đoạn 1 để khánh thành và kết nối thử nghiệm với hệ thống lưới điện quốc gia vào cuối quý 3 năm nay. Tập đoàn General Electric (GE) Hoa Kỳ là đơn vị cung cấp thiết bị tua bin điện gió cho dự án này.

Theo đó, các tua bin điện gió của GE đã cập cảng của Việt Nam và đang trên đường vận chuyển tới dự án, tại xã Đliê Yang, huyện Ea H’leo, Đắk Lắk để sẵn sàng lắp đặt, hoàn thiện dự án.

Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, Việt Nam là một quốc gia nhiều nắng và gió, được đánh giá có nhiều tiềm năng cực lớn để phát triển năng lượng tái tạo. Năm 2015, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó nhấn mạnh việc khuyến khích, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí CO2. Đây chính là nền tảng, cũng như động lực giúp Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.

Tiếp nối những nỗ lực của chính phủ trong việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, hơn 50 dự án phong điện đã được cấp phép trong khoảng 10 năm qua. Tuy nhiên đến nay 90% các dự án này vẫn chỉ nằm trên giấy. Sự ảm đạm của ngành điện gió có lẽ chấm dứt vào năm 2018 này với việc bổ sung của dự án điện gió Đầm Nại (tháng 1/2018) và dự án Phong điện Tây Nguyên vào nửa cuối năm nay.

Trụ tua bin cập cảng Cam Ranh, Khánh Hòa.

Trang trại Phong điện Tây Nguyên có tổng vốn đầu tư khoảng 13.000 tỷ đồng, tổng công suất 280MW, dự án do Công ty CP giải pháp năng lượng gió HBRE là chủ đầu tư, Công ty CP giải pháp tòa nhà thông minh (IBS) là tổng thầu EPC và Tập đoàn GE là đơn vị cung cấp thiết bị tua bin điện gió. Dự án chia làm 3 giai đoạn, giai đoạn 1 dự kiến sẽ được hoàn thiện và kết nối với hệ thống lưới điện quốc gia vào cuối quý 3 năm nay, với công suất lắp máy 28.8 MW.

Chia sẻ về dự án, đại diện GE tại Việt Nam cho biết: “Tua bin gió mà GE cung cấp cho dự án Phong điện Tây Nguyên là loại tua bin có sải cánh lớn nhất trong các dự án đã và đang xây dựng ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại. Với sải cánh dài gần 57m cho dòng máy phát công suất 2.4MW nên hiệu suất vượt trội so với các dòng máy khác có cùng gam công suất”.

Là một tập đoàn công nghiệp toàn cầu, hoạt động tại hơn 180 quốc gia trên khắp thế giới, GE là một trong những công ty Mỹ đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Tập đoàn này đã có nhiều đóng góp cho các công trình lớn, yêu cầu trình độ và chất lượng công nghệ cao ở Việt Nam.

Đối với dự án Phong điện Tây Nguyên, công nghệ sản xuất của GE cho phép tạo ra những hiệu chỉnh về chiều cao của cột tua bin, kích thước cánh quạt và gam máy, phù hợp với điều kiện riêng của từng vị trí lắp đặt. Đồng thời, khi đi vào vận hành, các tua bin sẽ tiếp tục được quản lý bằng hệ thống quản lý tài sản APM, nhằm dự đoán và ngăn ngừa các sự cố trong quá trình vận hành, cũng như tối thiểu hóa thiệt hại về sản lượng khi xảy ra gián đoạn. Trên cơ sở của những phân tích của hệ thống, đơn vị vận hành có thể chủ động thực hiện công tác khắc phục các lỗi kỹ thuật và tìm kiếm phụ tùng thay thế từ sớm. Điều này giúp tiết kiệm được thời gian, cắt giảm được chi phí, cũng như sản lượng bị thiệt hại, giúp hiệu năng sản xuất có thể tăng 5% và tạo thêm 20% lợi nhuận từ hoạt động sản xuất.

Cánh tua bin được vận chuyển từ cảng quốc tế Phú Mỹ.

Tọa lạc tại xã Đliê Yang, huyện Ea H’leo, Đắk Lắk, tuy nhiên phần lớn các thiết bị bin vận phải được nhập về thông qua các cảng biển là cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) và càng Phú Mỹ (Bà Rịa – Vũng Tàu). Sau khi được cập cảng và thông quan, các thiết bị này sẽ được vận chuyển về tới vị trí dự án bằng các phương tiện chuyên dụng, với sự hỗ trợ và hướng dẫn của các đơn vị chức năng phụ trách điều tiết giao thông.

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực vận tải, tuyến đường vận chuyển từ cảng về tới dự án phải vượt qua những địa hình đồi núi hiểm trở, đòi hỏi sự khảo sát địa hình kỹ lưỡng trước khi vận chuyển và sự cẩn trọng trong suốt quá trình vận chuyển. Đặc biệt, phải nói tới đoạn đường 12km đi qua đèo Phượng Hoàng – cửa ngõ phía Đông của tỉnh Đắk Lắk. Đoạn đường này một thời từng được ví như con đèo tử thần đối với giới lái xe bởi nó không chỉ có những khúc quanh co, uốn lượn liên tục theo hình ziczac mà còn có độ dốc lên tới 10%. Điều này gây cản trở không nhỏ đối với các xe tải siêu trường siêu trọng, vận chuyển thiết bị của dự án.

Tỉnh lộ 26 đoạn chạy qua đèo Phượng Hoàng với những khúc cua liên tục với độ dốc 10%.

Phát triển năng lượng tái tạo từ gió và mặt trời là hướng đi rất triển vọng cho tỉnh Đắk Lắk, đặc biệt là sau khi có Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về việc tạm dừng xây dựng thủy điện tại Tây Nguyên, được đưa ra tại Hội nghị về các giải pháp khôi phục rừng bền vững vùng Tây Nguyên, nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016-2020 (tổ chức ngày 20/6/2016, tại thành phố Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk).

Theo nangluongvietnam.vn (09/07/2018)

Doanh nghiệp muốn phát triển bền vững phải gắn với tăng trưởng xanh

Là nhận định của nhiều chuyên gia tại hội thảo “Các giải pháp tăng trưởng xanh để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững” do Chi nhánh Phòng TM&CN Việt Nam tại TP.HCM (VCCI-HCM) tổ chức mới đây.

Ông Nguyễn Thế Hưng, Phó Giám đốc VCCI-HCM cho biết, biến đổi khí hậu là vấn đề đang ảnh hưởng lớn đến kinh tế – xã hội toàn cầu, trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề.

Theo thống kê, trung bình mỗi năm, biến đổi khí hậu và thiên tai tại Việt Nam đã làm chết và mất tích trên 300 người, thiệt hại về kinh tế từ 1-1,5% GDP, riêng năm 2017, thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu và thiên tai khoảng 60.000 tỷ đồng.

Biến đổi khí hậu và thiên tai ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp, nhất là trong việc tăng chi phí sản xuất, giảm nhu cầu tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, mất ổn định chuỗi cung ứng, tăng chi phí vốn để khôi phục sản xuất, mất cân bằng về số lượng lao động…

Theo ông Nguyễn Thế Hưng, tăng trưởng xanh là xu hướng tiếp cận trong sản xuất, dịch vụ mang lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp, vừa giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, đảm bảo sự phát triển bền vững. Đây cũng là xu hướng phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế trong giai đoạn sắp tới ở Việt Nam.

Biến đổi khí hậu là vấn đề đang ảnh hưởng lớn đến kinh tế – xã hội toàn cầu, trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề.

Thông tin cụ thể về vấn đề tăng trưởng xanh, PGS-TS Phùng Chí Sỹ, Giám đốc Trung tâm công nghệ môi trường thuộc Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, cho biết, tăng trưởng xanh thể hiện qua thực hiện tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nước, giảm chi phí nhân công, phí môi trường trong sản xuất, giảm phát thải và sử dụng nguyên liệu, vật liệu thân thiện với môi trường.

Tăng trưởng xanh là nội dung quan trọng của phát triển bền vững, góp phần thực hiện chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Thực hiện tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giúp giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện chất lượng môi trường, kích thích tăng trưởng kinh tế, phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Đề xuất về giải pháp thực hiện tăng trưởng xanh, PGS-TS Phùng Chí Sỹ cho rằng cần nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại, thay đổi cơ cấu nhiên liệu trong công nghiệp và giao thông vận tải.

Thực hiện giải pháp giảm phát thải khí nhà kính thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững, nâng cao tính cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp.

Bên cạnh đó, cần thực hiện điều chỉnh quy hoạch các ngành sản xuất, hạn chế những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm môi trường và tạo điều kiện phát triển cho các ngành sản xuất xanh mới.

Mỗi doanh nghiệp sản xuất công nghiệp cần chủ động nghiên cứu xây dựng kế hoạch hành động tăng trưởng xanh hướng đến phát triển bền vững trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2050.

Tại hội thảo, nhiều doanh nghiệp cũng đã bày tỏ quan điểm của đơn vị về phát triển doanh nghiệp trong bối cảnh của biến đổi khí hậu, và đề nghị các bộ, ban ngành cần có chính sách ưu đãi về cho thuê đất xây dựng dự án và tăng giá mua điện tư nhân trong lĩnh vực năng lượng mặt trời. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần mạnh tay xử lý các cơ sở sản xuất bẩn, gây ô nhiễm môi trường, đồng thời khuyến khích người dân quan tâm đến thực phẩm sạch, an toàn để bảo vệ sức khỏe.

Theo Mai Nhiệm/tietkiemnangluong.vn (19/4/2018)

Những lợi ích bất ngờ từ tái chế rác

Rác tưởng chừng như là đổ bỏ đi thế nhưng nhiều người đã biến nó thành những sáng chế vô cùng hữu ích như biến rác thành tiền, biến rác thành quần áo, biến rác thành đồ gia dụng hay điện năng…

Israel biến rác thành đồ gia dụng

Rác ở bãi rác lại có thể dùng để chế tạo đồ gia dụng như ghế và thùng rác. Nhưng một công ty ở Israel có tên là UBQ đã kinh doanh về lĩnh vực này, họ còn xin cấp bằng sáng chế đối với quy trình chế tạo này.

Giám đốc điều hành Christopher Swann của UBQ cho biết: “Những thứ mà bạn nhìn thấy ở đây có thể giống như đồ bỏ đi, nhưng chúng tôi muốn biến chúng thành đồ gia dụng như ghế, thùng rác và lọ hoa”.

Theo tổng giám đốc Jack Peggio của UBQ: “Rác ở đây bao gồm cơm thừa, vỏ chuối, xương gà, hamburger, túi nhựa bẩn, hộp bẩn, giấy bẩn, cái gì cũng có. Chúng tôi đã cho sử lý vệ sinh, làm khô, qua gia công tán nhỏ và dùng kỹ thuật độc quyền mang tính cách mạng của chúng tôi để xử lý”.

Hình minh họa.

Rác biến thành dạng viên sau quá trình tán nhỏ nhào trộn để các công ty khác có thể dùng để sản xuất ra sản phẩm.

Chủ tịch Albert Doer của UBQ cho hay: “Trên thực tế, họ có thể sử dụng các thiết bị hiện có để sản xuất những sản phẩm mà họ đã sản xuất, chỉ là nay đã có thể dùng nguyên liệu của công ty chúng tôi, không cần dùng nhựa nữa”.

Biến rác thành tiền

Ở thành phố Kawasaki (Nhật), các doanh nghiệp không chỉ có ý thức bảo vệ môi trường, mà họ còn biến rác thành tiền…

Trường hợp của PRT và nhà máy Ajinomoto tại thành phố Kawasaki chỉ là hai ví dụ điển hình về việc biến rác thành tiền và trách nhiệm phải bảo vệ môi trường. Bởi ở thành phố 1,45 triệu dân, GDP đạt 5,2 nghìn tỷ Yên này, từ năm 1970-1972, 45 nhà máy lớn nhất thành phố đã phải ký với chính quyền về việc cam kết bảo vệ môi trường.

Ông Satoru Yokota, Giám đốc điều hành Viện nghiên cứu môi trường Kawasaki (Cục Môi trường Kawasaki) cho hay, theo ký kết, các công ty ở thành phố tập trung nhiều tập đoàn lớn trên thế giới này phải có chính sách giảm thiểu ô nhiễm môi trường thông qua việc dùng các nguyên, nhiên liệu giảm thiểu ô nhiễm môi trường dùng cho sản xuất. Việc bảo vệ môi trường được chính quyền thành phố giao nhiệm vụ cho từng quận.

Tuy nhiên, bằng việc đầu tư công nghệ hiện đại, các chất thải đã được tái chế làm thức ăn chăn nuôi, phân bón hóa học… Theo ước tính, riêng hệ thống xử lý nước thải của nhà máy mỗi ngày xử lý được 4 tấn chất thải làm nguyên liệu cho sản xuất phân bón hóa học (trong ảnh là nguyên liệu khô, kết quả xử lý nước thải).

Với một tập đoàn chuyên về thực phẩm hiện có 126 nhà máy, doanh thu 10 tỷ USD mỗi năm, việc xử lý chất thải thành nguyên liệu tái chế là quy trình bắt buộc của tập đoàn, đại diện Ajinomoto nói với VnEconomy.

Khác với PRT có mục tiêu quan trọng là biến rác thành tiền, nhà máy Ajinomoto tại thành phố Kawasaki lại đối mặt với việc phải xử lý nước thải để bảo vệ môi trường. Nhà máy có diện tích 350.000 m2 này hiện là nơi làm việc của 3.000 công nhân.

Vốn đầu tư nhà máy tái chế rác nhựa này là 20 tỷ Yên (khoảng 177 triệu USD, tương đương 3,78 nghìn tỷ đồng). Chi phí đầu tư nhà máy không quá lớn so với quy mô một phần quan trọng nhờ công ty phát minh ra được dây chuyền tái chế, thay vì đi mua. Vì thế, tài sản quý giá nhất của công ty được cho là dây truyền tái chế rác hiện đại.

Từ những chai nhựa bỏ đi, qua quy trình tái chế phức tạp thì cho ra sản phẩm hạt nhựa trắng để tái chế ra chai nhựa mới. Sản phẩm hạt nhựa không được xuất khẩu ra nước ngoài, mà dùng để tái chế cho thị trường trong nước.

Cũng theo bà Toshiko Ito, mỗi năm nhà máy xử lý được 27.500 tấn chai nhựa. Dù chi phí thu mua thấp nhưng bà từ chối trả lời mức doanh thu và lợi nhuận vì đây là “bí mật kinh doanh”.

Hàng ngày, một lượng lớn vỏ chai nhựa được cho vào thùng rác. Ô nhiễm chất thải rắn trở thành một vấn đề của nhiều thành phố. Tuy nhiên, ở thành phố Kawasaki (Nhật), Công ty Pet Refine Technology (PRT) lại đang ăn nên làm ra nhờ việc gom rác thải và chế biến thành vật liệu tái sinh.

Biến rác thải thành quần áo

Người Nhật rất chú trọng và tỉ mỉ trong quy trình phân loại rác. Nếu như ở các nước khác trên thế giới, hầu hết rác thải được phân làm 2 loại chính là tái chế được và không tái chế được, thì ở Nhật, rác thải được chia ra đến 6 loại. Từ rác đốt được, rác không đốt được, rác cồng kềnh đến rác độc hại… tất cả sẽ được phân loại thành từng nhóm riêng biệt đ hay nguể đem đi tái chế.

Cũng nhờ quá trình này cùng ới công nghệ hiện đại, người Nhật đã áp dụng những kỹ thuật vô cùng tiên tiến để xử lí rác thải. Không chỉ giúp giải quyết rác thải hiệu quả, người ta còn chế tạo ra những thành phẩm đặc sắc. Nhờ đó, việc biến rác thải thành quần áo, gạch lát đườngyên liệu cho ngành khác trở nên thuận tiện hơn.

Hình minh họa.

Với công suất một tấn mỗi giờ, nhà máy xử lí rác ở quận Mitano đã tái chế nhựa PET vô cùng hiệu quả. Từ những chai nhựa bỏ đi, người ta đã tái chế lại thành các chai nhựa mới hoặc biến chúng thành sợi văn phòng. Những sợi này được dệt và may thành những bộ quần áo vô cùng bắt mắt. Với tính ứng dụng cao, sợi văn phòng từ nhựa PET sẽ có mặt trong nhiều sản phẩm may mặc trong tương lai.

Biến rác thải thành điện năng

Không phải đâu xa, ngay tại Việt Nam, lần đầu tiên một dây chuyền công nghệ biến rác thải thành điện năng đã được thực nghiệm thành công tại Khu công nghiệp Đồng Văn I, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Theo công nghệ điện rác WTE (CNĐR), rác thải rắn sẽ được xử lý bằng phương pháp khí hóa thiếu oxy tạo ra khí gas tổng hợp (syngas) để phát điện theo CNĐR. Ưu điểm của phương pháp này là sử dụng dây chuyền khép kín, không tốn quỹ đất để chôn lấp và không cần phải phân loại rác đầu nguồn. Khi chuyển hóa rác thành khí gas tổng hợp không phát sinh mùi, nước; ổn định và an toàn suốt quá trình vận hành.

Theo báo cáo của công ty HMC, trong đợt chạy khảo nghiệm từ ngày 21/9 đến 25/10/2016, nhà máy này đã tiếp nhận và xử lý sạch 208 tấn rác thải rắn không phân loại do công ty Môi trường đô thị Hà Nam cung cấp.

Phần khí gas tổng hợp thu được đã được dùng để chạy ba tổ máy phát điện công suất 550 KVA, 680 KVA, thắp sáng cho toàn bộ hệ thống chiếu sáng hàng rào của nhà máy liên tục trong 12 tiếng/ngày (trong 10 ngày). Từ ngày 17/10/2016, nhà máy đã chính thức đấu điện chiếu sáng cho KCN Đồng Văn I từ 17h30 đến 6h sáng ngày hôm sau, trong 7 ngày liên tục.

Trao đổi với Dân trí, ông Đặng Đình Thoảng, Giám đốc Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Hà Nam, đây là công nghệ cơ bản được đánh giá là ưu việt, Việt Nam có nhiều công nghệ điện rác, tuy nhiên HMC là đơn vị được đánh giá hoàn thiện hơn cả, thực tế cho thấy công ty này đã xử lý được rác và dùng năng lượng thu được để phát được điện.

Tuy nhiên, để nhân rộng công nghệ trên ra toàn quốc hay có thể xuất khẩu được cần phải đánh giá lại quá trình hoàn thiện dây chuyền công nghệ này từ chịu lực, áp suất, tính an toàn, tính bền vững, các chất độc hại, khí thải có an toàn không… và sự đánh giá này phải được Hội đồng khoa học kỹ thuật Quốc gia đánh giá.

Theo moitruongvadothi.vn

Hơn 200 triệu USD phát triển năng lượng tái tạo

Theo Cục Điện lực và năng lượng tái tạo, với quy mô kinh tế hiện nay và tốc độ tăng trưởng kinh tế trên dưới 7%/năm, nhu cầu năng lượng nói chung và điện nói riêng của Việt Nam trong thời gian tới là rất lớn. 

Để đáp ứng nhu cầu năng lượng, Việt Nam từ một nước xuất khẩu tịnh năng lượng đã trở thành nước nhập khẩu tịnh về năng lượng và ngày càng phụ thuộc nhập khẩu nguồn than và khí hóa lỏng từ nước ngoài.

Trong bối cảnh này, việc phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam là xu thế tất yếu nhằm đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng, giảm sự phụ thuộc vào than nhập khẩu…

Điện gió, nguồn năng lượng tái tạo thực hiện thành công tại Bạc Liêu Ảnh: CAO THĂNG

Để phát triển năng lượng tái tạo, Bộ Công thương đã triển khai dự án “Phát triển năng lượng tái tạo” (REDP) với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB) và Cục Hợp tác kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO). Dự án REDP có tổng kinh phí 204,272 triệu USD; trong đó, nguồn vốn tài trợ không hoàn lại là 2,272 triệu USD. Mục tiêu của dự án REDP nhằm phát triển các nguồn năng lượng tái tạo cấp lên lưới điện quốc gia, trên cơ sở thương mại, đảm bảo phát triển bền vững.

Dự án REDP đã hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong công tác đầu tư xây dựng dự án năng lượng tái tạo; hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước hoàn thiện khung chính sách pháp lý về năng lượng tái tạo, tập trung giải quyết một số rào cản đối với việc huy động nguồn vốn thương mại để phát triển năng lượng tái tạo; cung cấp, hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực ở các trường đại học chuyên ngành, cơ quan, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực phát triển năng lượng tái tạo.

Theo sggp.org.vn

Hội nghị Bàn tròn về sản xuất sạch hơn và tiêu dùng bền vững năm 2018

Sáng ngày 06 tháng 7 năm 2018 tại thành phố Đà Nẵng, Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị bàn tròn về sản xuất sạch hơn và tiêu dùng bền vững, Hội nghị có sự tham dự là đại diện lãnh đạo của các Vụ, Cục thuộc Bộ Công Thương và Bộ tài Nguyên Môi trường cùng với lãnh đạo Sở Công Thương, các Trung tâm tư vấn sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng của các địa phương cả nước.

Ông Hoàng Quốc Vượng – Thứ trưởng Bộ Công Thương phát biểu tại Hội nghị.

Tại Hội nghị Bộ Công Thương đánh giá kết quả đạt được từ hoạt động SXSH cơ bản đạt các mục tiêu đề ra cho giai đoạn 2009-2018, có 55% doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đã biết về SXSH, 24% doanh nghiệp áp dụng SXSH giảm suất tiêu hao nguyên nhiên liệu, 73% Sở Công Thương có cán bộ hỗ trợ hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn. Mạng lưới SXSH tại các địa phương gồm có 47 Trung tâm (TKNL, SXSH, Khuyến công) trên cả nước có hoạt động hỗ trợ SXSH và 355 chuyên gia về SXSH tại các Sở Công Thương của 63 tỉnh, thành.

Bộ Công Thương ghi nhận các địa phương đã tiếp tục triển khai hoạt động SXSH bằng nguồn ngân sách địa phương sau khi chương trình hỗ trợ từ Đan Mạch kết thúc vào năm 2011, đây cũng là hoạt động giúp cho chương trình triển khai không bị gián đoạn cho đến nay.

Ra đời cách đây 2 năm, Chương trình sản xuất sản xuất và tiêu dùng bền vững hiện mới có 02 địa phương là Hà Nội và Đồng Nai đã xây dựng kế hoạch hành động, song Hội nghị tin rằng giai đoạn tiếp theo đến năm 2030, sự kết hợp giữa SXSH và sản xuất tiêu dùng bền vững sẽ mang lại kết quả quan.

Thời gian qua, việc triển khai chương trình sản xuất sạch hơn và tiêu dùng bền vững triển khai có nhiều thuận lợi khi lồng ghép với các hoạt động khác của Khuyến công như: Chuyển giao công nghệ và ứng dụng máy móc tiên tiến, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp; Xây dựng hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn. Càng thuận lợi hơn khi được tư vấn triển khai chương trình từ mạng lưới Khuyến công của các địa phương, ông Hoàng Chính Nghĩa – Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương phát biểu tại Hội nghị.

Theo PGS, TS Trần Văn Nhân cần nghiên cứu cấp các chứng nhận về SXSH cho các doanh nghiệp phù hợp.

Chia sẻ kinh nghiệm tại Hội nghị, PGS.TS Trần Văn Nhân – Giám đốc Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) cho biết, khi tiếp cận doanh nghiệp, cần khai thác và báo cáo sâu về lợi ích kinh tế khi doanh nghiệp tham gia SXSH nhằm tạo động lực lớn và doanh nghiệp tham gia chặt chẽ hơn; Cần nghiên cứu cấp các chứng nhận về SXSH cho các doanh nghiệp phù hợp.

“Thời gian sắp tới tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho hoạt động sản xuất tiêu dùng bền vững; Xây dựng cơ chế khuyến khích người tiêu dùng thông thái, nhà sản xuất thay đổi phương thức sản xuất nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, tác động đến môi trường thấp nhất trong hoạt động chuỗi giá trị sản phẩm; Xây dựng và phát triển mạng lưới tư vấn địa phương bền vững; Xây dựng chỉ tiêu cụ thể để có cơ sở đánh giá kết quả chương trình” đó cũng là nội dung ông Hoàng Quốc Vượng – Thứ trưởng Bộ Công Thương nhấn mạnh trong kết luận tại Hội nghị.

Theo sxsh.vn

4,1 tỷ USD hỗ trợ giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu

Mới đây, tại thành phố Đà Nẵng đã diễn ra Phiên khai mạc toàn thể Đại hội đồng Quỹ môi trường toàn cầu lần thứ 6.

Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tham dự và có bài phát biểu khai mạc.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam Trần Hồng Hà được bầu làm Chủ tịch, điều hành Kỳ họp lần thứ 6 Đại hội đồng GEF.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu nhấn mạnh Trái Đất – ngôi nhà chung của nhân loại, đang phải chịu nhiều tác động nghiêm trọng do suy thoái, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây ra.

Do vậy, nếu chúng ta không có những giải pháp tổng thể, các quốc gia, dân tộc và mọi người dân sẽ phải gánh chịu những hậu quả khôn lường.


Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các đại biểu tham dự kỳ họp. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Thách thức to lớn đó cũng chính là cơ hội để nhân loại phải nhìn nhận, đánh giá lại con đường và mô hình phát triển, từ đó tạo ra những thay đổi trong nhận thức và hành động để môi trường sống tự nhiên trên toàn cầu mãi trường tồn, những giá trị văn hóa, lịch sử cao đẹp của bao thế hệ của chúng ta sẽ được gìn giữ, trao truyền cho các thế hệ mai sau.

Và hơn hết là để chúng ta cùng đoàn kết hiện thực hóa ước vọng của biết bao thế hệ người dân không phân biệt màu da, dân tộc về một “Hành tinh có sức chống chịu tốt, bền vững và tràn đầy sức sống.”

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đánh giá cao việc trong gần ba thập kỷ kể từ khi thành lập đến nay, Quỹ Môi trường toàn cầu đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết các thách thức to lớn về môi trường, biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là sự hỗ trợ của Quỹ GEF dành cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế về nguồn lực, Chính phủ Việt Nam đã kiên quyết triển khai lồng ghép các hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, huy động nguồn lực, sự sáng tạo, chung tay của cả cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Kiên quyết không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế, làm ảnh hưởng tới phát triển bền vững.

Bày tỏ sự cảm ơn chân thành đến Quỹ Môi trường toàn cầu và các quốc gia thành viên GEF, các đối tác phát triển, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mong muốn Việt Nam tiếp tục nhận được nhiều hơn nữa sự tư vấn, hợp tác, hỗ trợ nguồn lực quý báu của các bạn.

Để góp phần vào thảo luận của Kỳ họp lần thứ 6, Đại hội đồng GEF, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nêu một số nội dung quan trọng để các đại biểu thảo luận: cần nhận diện cụ thể những thách thức chính về môi trường đối với nhân loại hiện nay, từ đó đề ra được chính sách ưu tiên nhằm giải quyết một cách tổng thể, hiệu quả những thách thức đó; cần đánh giá được hiệu quả của cơ chế hỗ trợ và hợp tác hiện nay, từ đó có những cải tiến mang tính đột phá, đặc biệt trong khâu huy động và phân bổ nguồn lực để hỗ trợ các quốc gia thành viên, nhất là những quốc gia đang phải đối mặt với những thách thức to lớn do suy thoái, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra; cần đề xuất được những dự án tổng hợp mang tính toàn cầu, liên vùng, liên lĩnh vực nhằm giải quyết các nguyên nhân sâu xa của ô nhiễm, suy thoái môi trường, suy giảm đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu…; cũng như cần có các dự án trọng điểm để giải quyết những vấn đề cấp bách hiện nay như vấn đề rác thải nhựa nói chung, rác thải nhựa đại dương nói riêng…

Bà Naoki Ishii, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Quỹ Môi trường toàn cầu cảm ơn Ngài Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, vì đã chủ trì tổ chức Đại Hội đồng GEF, tham dự và phát biểu tại Phiên khai mạc.

Bà Naoki Ishii cho biết, bản thân rất ấn tượng tới kết quả của công cuộc đổi mới của Việt Nam từ năm 1986, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng chưa từng thấy, 5,5% trong gần ba thập niên và trở thành một nước có thu nhập trung bình.

Hơn nữa, Việt Nam đã làm được điều này với sự ổn định và chất lượng; tỉ lệ nghèo đói đã giảm từ 50% xuống chỉ còn 3% và người dân Việt Nam giờ đây có sức khỏe và một nền giáo dục tốt hơn so với nhiều nước ở ngưỡng trên mức thu nhập trung bình.

Đó là một thành tựu to lớn của Việt Nam. Trong quá trình phát triển này, Việt Nam cũng đã phải chịu đựng sự suy thoái đất và rừng, ô nhiễm không khí và nguồn nước; đồng thời nhận thức rất rõ về sự cần thiết phải quan tâm đến môi trường; về sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam không hy sinh môi trường cho tăng trưởng kinh tế, cũng như khuyến khích năng lượng sạch, tăng trưởng xanh, vì các đại dương xanh và khỏe mạnh.

Nhấn mạnh tới vai trò của Quỹ Môi trường toàn cầu trong suốt 25 năm qua đồng hành trong việc giải quyết các vấn đề môi trường ở nhiều nơi, nhiều quốc gia trên thế giới, bà Naoki Ishii thừa nhận rằng thành công trong quá khứ này là không đủ và chúng ta phải thay đổi.

Chúng ta phải chuyển đổi các hệ thống kinh tế chủ chốt; chuyển đổi hệ thống lương thực và sử dụng đất; chuyển đổi các thành phố; chuyển đổi hệ thống năng lượng – để chuyển sang một nền kinh tế tuần hoàn.

Chúng ta phải khôi phục lại các hệ sinh là nền tảng cho phát triển xã hội và kinh tế của chúng ta. Muốn thế, cần phải dựa trên sự liên kết giữa nhiều cơ quan, đối tác liên quan – chính là sức mạnh của sự hợp tác – sự hợp tác của 183 quốc gia thành viên, 18 cơ quan lớn với mạng lưới đối tác mạnh để thực hiện 5 Công ước bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội, các trường đại học và viện nghiên cứu…

Chính vì vậy, GEF-7 chính là cơ hội để cùng thay đổi. Với 29 nhà tài trợ, GEF đã có sự bảo đảm về 4,1 tỷ USD trong bốn năm tới cho rất nhiều chương trình hỗ trợ giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu.

Kỳ họp Đại hội đồng GEF-6 diễn ra trong 2 ngày 27 – 28/6/2018, tập trung vào việc thảo luận, hoàn thiện các Văn kiện hợp tác GEF; Báo cáo về Quỹ Biến đổi khí hậu Đặc biệt (SCCF)/Quỹ Ủy thác cho các nước kém phát triển (LCDF); Báo cáo chiến lược dài hạn của GEF; Báo cáo của Ban Tư vấn về Khoa học và Kỹ thuật; Đánh giá và thẩm định các chính sách trong việc vận hành Quỹ; Báo cáo của các nước thành viên tham gia GEF.

Đồng thời cũng sẽ thông qua kết quả các Phiên họp hội nghị bàn tròn cấp cao về một số chủ đề trọng tâm như phát triển kinh tế xanh lam; quản lý đất đai; hóa chất, chất thải và thủy ngân; thành phố bền vững; động vật hoang dã…; và thông qua Văn kiện hợp tác GEF.

Cũng trong ngày 27/6, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã hội kiến với Tổng thống Nauru, Tổng thống Marshalls và Tổng thống Guyana; tiếp Lãnh đạo của các tổ chức quốc tế như UNDP, ADB, UNIDO, WB và tập đoàn Unilever tại Đại hội đồng Quỹ Môi trường toàn cầu GEF lần thứ 6.

Theo Vietnamplus.vn