Các loài vi khuẩn có thể tái chế rác thải điện tử

Các loài vi sinh vật có thể giúp chúng ta tái chế kim loại quý từ rác thải điện tử.

Rác thải điện tử đang gia tăng với tốc độ chóng mặt trên phạm vi toàn cầu. Theo báo cáo mới đây trong tháng 1 vừa qua của Diễn đàn kinh tế thế giới: “Có đến gần 50 triệu tấn rác thải điện tử mỗi năm – xấp xỉ bằng tổng khối lượng của tất cả tàu bay trên toàn thế giới đã từng được sản xuất, nhưng chỉ có 20% trong số đó được đem đi tái chế”.

Báo cáo cũng chỉ ra rằng nếu không có bất kỳ biện pháp lâu dài nào được áp dụng thì chỉ đến năm 2050, số lượng rác thải điện tử sẽ đạt con số 120 triệu tấn, và đáng nói hơn là loại rác thải này vô cùng có hại cho sức khỏe và môi trường.

Đối diện với thực tế này, các nhà khoa học luôn cố gắng tìm cách giải quyết. Kết quả mà họ đạt được vô cùng bất ngờ: Họ đã tìm thấy một vài chủng vi khuẩn có khả năng tái chế kim loại như vàng, bạc, Paladi, đồng và nhôm.

Giải thích một cách ngắn gọn thì các nhà khoa học đưa vi khuẩn và chất thải điện tử vào chung trong một dung môi và sau một lúc, điều “vi diệu” sẽ xảy ra.

Trong một bài viết đăng trên trang AIP Conference Proceedings vào năm 2017, các nhà nghiên cứu Singapore cho thấy loài vi khuẩn Chromobacterium violaceum có khả năng tái chế vàng có trong rác thải điện tử nhờ vào một loại enzyme đặc biệt có thể phân hủy các hợp chất. Kết quả của phản ứng này tạo ra muối vàng xyanua, và sau đó chỉ cần tách xyanua ra khỏi vàng.

Để tăng tốc độ phản ứng, một nhóm nghiên cứu của trường Đại học Quốc gia Singapore đã tạo ra hai chủng vi khuẩn có khả năng tái chế được nhiều vàng hơn. Chủng tốt nhất có hiệu suất tái chế đạt 30% số vàng, trong khi chủng vi khuẩn tự nhiên chỉ có thể chiết xuất được 11,3%.

Trên thực tế, tỉ lệ tái chế này là chưa cao khi so với phương pháp khác có thể tái chế toàn bộ số vàng, ví dụ như cách nung chảy rác thải điện tử. Thế nhưng phương pháp sử dụng vi khuẩn để tái chế vàng từ rác thải điện tử được xem là phương pháp thân thiện với môi trường hơn và hiệu suất tái chế này có thể cải thiện được.

Các chủng vi khuẩn khác có tên đầy tính khoa học như Delftia acidovorans, Gluconobacter oxydans hay Cupriavidus metallidurans cũng có thể giúp giải phóng số kim loại quý có trong các thiết bị điện tử.

Tuy nhiên trong bài báo đăng trên tạp chí khoa học PNSA, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng vi khuẩn chỉ có thể hỗ trợ quá trình tái chế rác thải điện tử, không thể thay thế được các phương pháp tái chế khác.

Theo Tapchicongthuong.vn (14/2/2019)

Công nghệ sạch có thể tạo ra xăng bằng không khí

Công ty năng lượng sạch Carbon Engineering của Canada đã hợp tác với các nhà khoa học của đại học Harvard (Mỹ) khám phá ra cách chiết xuất một loại nhiên liệu carbon trung tính bằng cách thu giữ carbon dioxide từ không khí và biến nó thành xăng tổng hợp.

Quá trình này được gọi là Air to Fuels (A2F). Nguồn nhiên liệu này hứa hẹn sẽ không có khí thải nhà kính và lượng khí thải carbon bằng không.

Nói một cách đơn giản là chiết xuất carbon dioxide (CO2) từ không khí, đưa nó qua các quá trình hóa học và tạo ra nhiên liệu hydrocarbon lỏng (Hydrocarbon là các hợp chất hữu cơ chỉ bao gồm hydro và carbon. Dầu và xăng là ví dụ của nhiên liệu hydrocarbon lỏng). Quá trình A2F tạo ra một phiên bản tổng hợp của nhiên liệu hydrocarbon lỏng.

Không khí có thể tạo ra xăng trong tương lai.

Các nhà nghiên cứu của Carbon Engineering sử dụng một thứ gọi là Công nghệ hút khí trực tiếp (DAC), hoạt động giống như các pin năng lượng mặt trời mới cho phép phân tách nước thành nhiên liệu hydro. Các nhà máy tái chế CO2 trích xuất CO2 từ không khí bằng cách sử dụng một tổ hợp khổng lồ của những cánh quạt, rồi kết hợp CO2 với hydrogen lỏng được tách ra từ nước.

Tiếp theo, quá trình kết hợp CO2 với hydro sử dụng công nghệ độc quyền của công ty và nhiên liệu lỏng carbon trung tính như xăng hoặc diesel được sinh ra. Điều này nghĩa là người dùng không phải sửa đổi động cơ xe hiện tại của mình để sử dụng loại xăng tổng hợp này. Ngoài ra, CO2 có thể biến thành thể rắn lưu trữ để sử dụng dần.

Việc hút không khí trực tiếp rất quan trọng bởi vì những phát hiện gần đây cho thấy gần như chúng ta không thể ngăn chặn nhiệt độ toàn cầu tăng hơn 1,5 độ C nếu không ứng dụng một số dạng công nghệ mới trên quy mô lớn.


Tổ hợp khổng lồ của những cánh quạt dùng để trích xuất CO2 từ không khí.

Tuy nhiên, có một vấn đề lớn với nhiên liệu thay thế của Carbon Engineering, cũng là thách thức của bất cứ phát minh nào về nguồn năng lượng mới, đó là chi phí sản xuất. Trong một bản báo cáo đánh giá năng lực sản xuất, công ty này đã chia sẻ rằng quy trình tổng hợp cho một tấn carbon dioxide sẽ mất khoảng 94 – 232 USD trong khi nguồn năng lượng hóa thạch chỉ vào khoảng 20 USD/thùng dầu thô, rẻ hơn rất nhiều so với công nghệ mới.

Công ty tuyên bố rằng trong tương lai họ có thể sản xuất nhiên liệu tổng hợp với giá khoảng 1 USD/lít khi quy mô sản xuất tăng lên. Họ cũng đang làm việc để giảm chi phí bằng cách sử dụng các quy trình và công nghệ công nghiệp có sẵn thay vì chế tạo lại.

Công ty Carbon Engineering thuộc sở hữu của nhiều nhà đầu tư tư nhân, trong đó có tỷ phú Bill Gates. Hiện tại, công nghệ này đang có được sự quan tâm đặc biệt của các ông lớn trong ngành khai thác dầu như tập đoàn Chevron và tập đoàn dầu khí Occidental.

Geoff Holmes, Giám đốc phát triển kinh doanh tại Carbon Engineering chia sẻ: A2F (Air to Fuels) hoàn toàn khả thi vì nó cần đất và nước ít hơn 100 lần so với nhiên liệu sinh học, và có thể được thu nhỏ và đặt ở bất cứ đâu. Nhưng để phổ biến thì sẽ phải giảm chi phí xuống ít hơn so với chi phí khai thác dầu hiện nay, và có thể sẽ khó khăn hơn khi vận động các nước tin và chuyển sang sử dụng loại nhiên liệu mới này.

Theo Vietnamnet.vn (14/2/2019)

Đã tìm ra cách nhanh nhất để biến nhựa thành xăng

Công trình nghiên cứu này sẽ giúp hàng triệu tấn nhựa xả vào môi trường mỗi năm được xử lý thành nhiên liệu cho các phương tiện cơ giới.

Mỗi năm, hơn 300 triệu tấn nhựa được đổ ra các bãi rác và môi trường. Loại rác thải này mất hàng trăm năm để tiêu hủy hoàn toàn. Bên cạnh đó, trong thời gian chờ phân hủy, nhựa ảnh hưởng đến sự sống của các loài động vật.

Chính vì vậy, một nhóm các nhà hóa học tại Purdue đã tìm thấy một giải pháp để giúp Trái Đất trong tương lai không chìm trong biển nhựa. Giải pháp này được cho là có tốc độ nhanh và tỷ lệ chuyển hóa cao hơn so với những cách trước đây.

Trang Sustainable Chemistry and Engineering tuần qua vừa công bố một nghiên cứu về việc điều chế polypropylen – một loại nhựa thường được sử dụng trong đồ chơi, thiết bị y tế và bao bì sản phẩm thành nhiên liệu cho các phương tiện giao thông.


Quá trình chuyển đổi mới giúp biến 90% nhựa polypropylen thành xăng, dầu. Ảnh: motherboard.

Chất thải polypropylen chỉ chiếm chưa đến một phần tư trong số 5 tỷ tấn nhựa ước tính tích lũy trên Trái Đất 50 năm qua.

Để biến polypropylen thành nhiên liệu, các nhà nghiên cứu đã sử dụng nước siêu tới hạn – loại nước ở áp suất và nhiệt độ cao để tái chế nhựa. Nhà hóa học Purdue Linda Wang và các đồng nghiệp đã đun nóng nước đến 716 đến 932 độ F ở áp suất lớn hơn khoảng 2.300 lần so với áp suất khí quyển ở mực nước biển.

Khi chất thải polypropylen tinh khiết được thêm vào nước siêu tới hạn, nó được chuyển thành nhiên liệu trong vòng vài giờ, tùy thuộc vào nhiệt độ. Ở khoảng 850 độ F, thời gian chuyển đổi được hạ xuống dưới một giờ.

Sản phẩm phụ của quá trình này bao gồm xăng và dầu giống như dầu diesel. Theo các nhà nghiên cứu, quá trình chuyển đổi của họ có thể đưa 90% chất thải polypropylen của thế giới mỗi năm thành nhiên liệu.

“Xử lý chất thải nhựa nhựa, dù được tái chế hay vứt đi không đồng nghĩa là kết thúc của câu chuyện”, ông Wang Wang nói. Nhựa phân hủy chậm và giải phóng các chất dẻo và hóa chất độc hại vào đất và nước. Đây là một thảm họa bởi vì một khi những chất gây ô nhiễm này chảy ra đại dương, chúng không thể thu hồi.

Thay vì vứt, thu gom và chờ nhựa phân hủy, quy trình chuyển đổi mới này giúp nhựa được sử dụng cho mục đích có lợi hơn. “Việc kiếm được tiền từ việc phân hủy nhựa của thúc đẩy ngành tái chế nhanh chóng áo dụng giải pháp này hơn” ông Wang nói.

Cũng theo ông Wang, thời gian là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến kết quả của xử lý chất thải. Mỗi năm, nếu con người không có hành động gì với rác thải, hàng triệu tấn nhựa được xả vào các đại dương. Tại đây, nhựa bị động vật hoang dã nuốt chửng và giết chết các rạn san hô.

Loại nhựa này nổi tiếng là khó làm sạch và gây ra mối đe dọa cho toàn bộ hệ sinh thái đại dương. Điều này có thể dẫn đến các cuộc khủng hoảng môi trường trên toàn cầu.

Hiện các nhà nghiên cứu vẫn chưa lường trước được những khó khăn của quy trình chuyển đổi nhựa mới này áp dụng ở quy mô lớn. Tuy nhiên, đây vẫn là tương lai của ngành tái chế nhựa của nhân loại.

Theo Zing.vn (12/2/2019)

Kỳ lạ loại nhiên liệu lỏng giúp lưu giữ năng lượng mặt trời tới 18 năm

Loại nhiên liệu lỏng mới được chế tạo có khả năng lưu giữ năng lượng mặt trời trong thời gian dài lên tới 18 năm.

Năng lượng mặt trời được cho là có lợi ích to lớn đối với việc bảo vệ môi trường, tạo ra thói quen sử dụng năng lượng sạch trong bối cảnh tài nguyên, các nguồn năng lượng truyền thống đang dần cạn kiệt. Tuy nhiên, việc lưu trữ loại năng lượng này trong thời gian dài hiện đang gặp phải nhiều khó khăn.

Mới đây, các nhà khoa học đến từ Đại học Công nghệ Chalmers (Thụy Điển) đã chế tạo thành công một loại nhiên liệu lỏng, được gọi là “nhiên liệu nhiệt mặt trời”. Loại nhiên liệu nỏng này có thể giúp lưu trữ năng lượng mặt trời trong khoảng thời gian lên đến 18 năm.

“Nhiên liệu nhiệt mặt trời giống như một viên pin có thể sạc lại. Nhưng thay vì điện năng, nhiên liệu này có thể lưu trữ ánh sáng mặt trời và tỏa ra nhiệt năng khi được kích hoạt”, Jeffrey Grossman, một kỹ sư trong nhóm nghiên cứu cho biết.

Loại nhiên liệu lỏng mới chế tạo có khả năng lưu giữ năng lượng mặt trời gần hai thập kỷ.

Được biết, loại nhiên liệu nêu trên thực tế là những phân tử ở dạng lỏng. Các phân tử này gồm có carbon, hydro và nitơ. Khi được tác động bởi ánh sáng mặt trời, chúng bắt đầu xảy ra phản ứng khiến liên kết giữa các nguyên tử bị thay đổi, sắp xếp lại và phân tử này biến thành một dạng đầy năng lượng của chính nó, được gọi là một đồng phân.

Năng lượng mặt trời khi đó được lưu trữ dưới dạng các liên kết hóa học mạnh bên trong đồng phân này. Ngay cả khi nhiệt độ giảm xuống nhiệt độ phòng, các liên kết này cũng không bị ảnh hưởng và nó có thể giữ nguyên trạng thái năng lượng trong hàng chục năm.

Khi cần sử dụng đến nguồn năng lượng này, con người chỉ cần đưa nhiên liệu lỏng qua môi trường chất xúc tác. Khi đó các liên kết bị phá vỡ và thay đổi trở về trạng thái phân tử ban đầu, đồng thời giải phóng ra nguồn năng lượng dưới dạng nhiệt, tương đương với lúc mà nó được hấp thụ.

Cơ chế hoạt động của hệ thống nguyên mẫu nhiên liệu lỏng lưu giữ năng lượng mặt trời. 

Nguyên mẫu đầu tiên của hệ thống này đã được xây dựng và đặt trên nóc nhà của trường Đại học Công nghệ Chalmers. Các nhà nghiên cứu cho biết đã có rất nhiều nhà đầu tư tỏ ra quan tâm đến dự án nhiên liệu nhiệt mặt trời này. Đây rất có thể là nhiên liệu của tương lai, một phương pháp giá rẻ giúp lưu trữ năng lượng mặt trời.

Sau hàng loạt thử nghiệm, các nhà khoa học cho biết nhiên liệu nhiệt mặt trời của họ có thể lưu trữ hơn 250 Wh năng lượng mặt trời mỗi kg, gấp đôi công suất năng lượng pin Powerwall của Tesla.

Hiện tại, họ vẫn đang tiếp tục cải tiến loại nhiên liệu nhiệt mặt trời này, với hy vọng có thể làm tăng nhiệt lượng sản sinh ra ở mức tăng thêm 110 độ C, thay vì hơn 60 độ C như hiện nay.

Theo Science Alert/vietq.vn (28/1/2019)

Xanh hóa ngành dệt may: Cơ hội và thách thức trong tiến trình hội nhập quốc tế

Dệt may là một trong những ngành quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, đóng góp 15% tổng giá trị xuất khẩu và có tốc độ tăng trưởng cao, trung bình đạt trên 12% từ năm 2010 tới 2017. Với hơn 6.000 nhà máy, cung cấp khoảng 3 triệu việc làm trên cả nước, ngành không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế mà còn với xã hội Việt Nam.

Tuy nhiên, đây cũng là một ngành có thể gây ra nhiều tác động lên tới môi trường. Quá trình sản xuất của ngành sẽ phải khai thác, sử dụng và xả thải một lượng nước lớn, đồng thời sử dụng nhiều năng lượng cho việc đun nóng và tạo ra hơi nước. Đây chính là những yếu tố tác động lên nguồn nước và góp phần gia tăng khí phát thải nhà kính.

Tác động tới môi trường

Dệt may là một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu trọng điểm của cả nước. Năm 2017, ngành đã đạt 31,7 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu; năm 2018 dự kiến đạt từ 34 – 34,5 tỷ USD. Mặc dù vậy, đây cũng là một trong những ngành công nghiệp có mức độ phát thải khí nhà kính cao, sau ngành điện và nhiệt, nông nghiệp, giao thông đường bộ và sản xuất dầu khí.

Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam, trung bình mỗi năm, ngành dệt may Việt Nam đang phải chi khoảng 3 tỷ USD cho năng lượng sản xuất, đội giá thành sản xuất lên cao và trở thành một trong những điểm yếu của sản phẩm dệt may Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp (DN) dệt may trong nước có quy mô nhỏ và vừa, tiềm lực tài chính hạn chế nên vẫn duy trì hệ thống công nghệ sản xuất cũ, tiêu tốn nhiều năng lượng. Cơ cấu sử dụng năng lượng của DN Việt Nam cho thấy chủ yếu là sử dụng năng lượng điện (chiếm 70%), năng lượng hóa thạch (29%) và còn lại là năng lượng sinh khối. Quy trình kiểm soát năng lượng và tiết kiệm năng lượng (TKNL) chưa được các chủ DN quan tâm. Do vậy, cải tiến công nghệ sản xuất theo hướng xanh, sạch, giảm thiểu sử dụng năng lượng là giải pháp cần thiết để tăng năng lực cạnh tranh.

Không chỉ sử dụng nhiều năng lượng, ngành dệt may còn gây ô nhiễm nguồn nước do sử dụng chất hóa học độc hại. Để tạo ra các sản phẩm thời trang, nhiều DN đã đầu tư vào các nhà máy dệt, nhuộm. Các nhà máy dệt, nhuộm sử dụng rất nhiều loại hóa chất như axit, dung môi hữu cơ kiềm tính, thuốc nhuộm và chất màu, các hoạt chất bề mặt. Theo nghiên cứu, trong nước thải dệt nhuộm có cả những chất dễ phân giải vi sinh như bột sắn dùng hồ sợi dọc và những chất khó phân giải vi sinh như: Polyvinyl axetat, thuốc nhuộm phân tán, thuốc nhuộm hoạt tính và các chất dùng tẩy trắng vải. Với các loại vải càng sử dụng nhiều xơ sợi tổng hợp như polyester thì càng dùng nhiều thuốc nhộm và các chất hỗ trợ gây khó hoặc không phân giải vi sinh, dẫn tới lượng chất gây ô nhiễm môi trường trong nước thải càng cao.

Những cơ hội và thách thức trong tiến trình hội nhập

Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào thế giới qua các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), các hiệp định thương mại tự do song phương. Dòng vốn FDI được dự báo là sẽ tiếp tục gia tăng mạnh mẽ và ngành may mặc sẽ là một trong những ngành được hưởng lợi. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới chuẩn bị có hiệu lực như CPTPP hay Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đều có quy định về cam kết BVMT, phát thải các bon thấp. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội, để DN hướng đến đầu tư công nghệ sản xuất hiện đại, sản xuất sạch hơn, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm khi xuất khẩu, tăng uy tín thương hiệu đối với người tiêu dùng trong nước.

Cải tiến công nghệ trong sản xuất đáp ứng yêu cầu về tiết kiệm năng lượng.

Dệt may Việt Nam đang xuất khẩu sang 4 thị trường lớn là: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và bắt đầu đẩy mạnh hàng hóa vào thị trường mới như Trung Quốc hay Nga. Từ tháng 3/2018, Việt Nam gia nhập CPTPP, mở ra cơ hội để tăng cường xuất khẩu vào những thị trường phi truyền thống như Canada và Ôxtrâylia. Tuy nhiên, sản phẩm dệt may Việt Nam đang chịu áp lực cạnh tranh lớn về giá thành, chi phí sản xuất và tiêu chuẩn an toàn môi trường, sức khỏe người lao động.

TKNL, giảm phát thải đang được coi là hàng rào thương mại lớn của ngành dệt may Việt Nam khi thâm nhập thị trường quốc tế. Hiện nay, một số thị trường lớn như: Mỹ, Liên minh châu Âu đang có quy định về dán nhãn các bon, trong đó, yêu cầu các nhà nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu về mức độ phát thải các bon trên dây chuyền công nghệ sản xuất ra sản phẩm dệt may. Các nghiên cứu cho thấy, ngành dệt may đang chiếm 11% tổng nhu cầu năng lượng trong các ngành kinh tế công nghiệp và phát thải khoảng 5 triệu tấn CO2. Công nghiệp dệt may của Việt Nam vẫn nằm trong nhóm nước có cường độ sử dụng năng lượng lớn nhất thế giới, bởi theo tính toán, cứ 1 đồng sản xuất phải mất 1 đồng cho chi phí năng lượng. Có đến gần 200 DN dệt may thuộc diện DN phát thải trọng điểm (tiêu thụ 1.000 tấn CO2 quy đổi). Hiện nay, đa số DN dệt may đã tiếp nhận yêu cầu dán nhãn các bon trên sản phẩm từ nhà nhập khẩu. Bên cạnh đó, nhiều thương hiệu lớn trên thế giới cũng bắt đầu ưu tiên lựa chọn những đối tác DN thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Để chủ động ứng phó rào cản kỹ thật ngày càng nghiêm ngặt, Nhà nước cần tạo điều kiện cho DN phối hợp với các nhà khoa học, tổ chức tín dụng để tiếp cận nguồn vốn, khoa học công nghệ về tiết kiệm điện năng; nhân rộng những mô hình TKNL hiệu quả. Các Bộ, ngành liên quan cần thiết phải xây dựng quy định tiêu chuẩn năng lượng tối thiểu cho từng lĩnh vực; hình thành tín chỉ thương mại về các bon; thị trường mua bán tín chỉ các bon; tiêu chuẩn hiệu suất… Đối với các DN cần phải thay đổi tư duy về TKNL trong giảm chi phí và hạ giá thành sản xuất, chủ động tiếp cận chính sách và các chương trình hỗ trợ phát thải thấp. Về lâu dài, cần có cơ chế hoạt động minh bạch cho các công ty dịch vụ năng lượng, công ty tìm kiếm giải pháp tài chính hỗ trợ DN triển khai giải pháp TKNL, từng bước hình thành quỹ quay vòng vốn cho DN.

Xanh hóa ngành dệt may

Trong thời gian qua, Hiệp hội Dệt May Việt Nam phối hợp với WWF – Tổ chức Quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên triển khai một Dự án “Xanh hóa ngành dệt may Việt Nam thông qua cải thiện quản lý nước và năng lượng bền vững” nhằm thúc đẩy quản lý lưu vực sông tốt hơn, góp phần cải thiện chất lượng nguồn nước và sử dụng năng lượng bền vững. Dự án này là một phần của dự án “Thúc đẩy giảm thiểu tác động thông qua chuỗi cung ứng dệt may”, được tài trợ bởi HSBC, nhằm xanh hóa ngành dệt may tại Trung Quốc, Bangladesh, Ấn Độ và Việt Nam.

Dự án sẽ được triển khai từ năm 2018 tới 2020 với mục tiêu là chuyển đổi ngành dệt may tại Việt Nam thông qua tham gia vào các chính sách quản lý ngành và môi trường để mang lại lợi ích xã hội, kinh tế và bảo tồn cho Việt Nam và toàn bộ khu vực sông Mê Công, nơi tập trung gần 50% nhà máy may mặc của cả nước. Trọng tâm chính của Dự án là cải thiện hiệu suất nước và năng lượng, từ đó giảm thiểu tác động của ngành lên tới môi trường. Dự án sẽ hợp tác với các DN để khuyến khích họ chủ động tham gia hơn vào công tác quản lý sông Mê Công, quy hoạch năng lượng bền vững và tạo cơ hội cho các DN này thảo luận về kế hoạch hành động chung nhằm đầu tư và phát triển ngành dệt may một cách bền vững.

Việt Nam cũng cam kết giảm phát thải nhà kính từ nay đến 2030. Do vậy, xanh hóa thành công ngành may mặc Việt Nam sẽ góp phần vào thực hiện mục tiêu về quản trị nguồn nước và sử dụng năng lượng hiệu quả. Sự ra đời của Dự án vào đúng thời điểm mà ngành công nghiệp dệt may đang cần củng cố hệ thống quản lý, nâng cao các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội. Cùng với đó, các DN cũng sẽ phải cải tiến công nghệ sản xuất theo hướng xanh, sạch, giảm thiểu sử dụng năng lượng để phù hợp với môi trường kinh doanh toàn cầu nếu không muốn mất đi khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Lê Thị Hường – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 11/2018)

Ấn Độ phát động Chiến dịch cải thiện không khí tại hơn 100 thành phố

Chất lượng không khí tại quốc gia hơn 1,25 tỷ dân đã xuống cấp nhanh chóng trong những năm gần đây, trong đó thủ đô New Delhi và 13 thành phố khác của Ấn Độ lọt vào danh sách 15 thành phố ô nhiễm nhất do Liên Hợp Quốc đánh giá.

Bộ trưởng Môi trường Ấn Độ Harsh Vardhan cho biết, Chiến dịch làm sạch không khí sẽ tập trung vào 102 thành phố, nhằm giảm hàm lượng hạt bụi siêu nhỏ. Các hạt bụi nhỏ lơ lửng là nguyên nhân làm gia tăng các bệnh như ung thư phổi, tim mạch và viêm phế quản cấp.

Ấn Độ đang phải hứng chịu tình trạng ô nhiễm không khí nặng nề (Ảnh: Livemint)

Chính phủ Ấn Độ đã chi 42 triệu USD để thực hiện kế hoạch nhằm giảm bớt các nguồn gây ô nhiễm chính như khí thải giao thông, công nghiệp, bụi xây dựng và tình trạng đốt rác thải nông nghiệp.

Các tổ chức môi trường từ lâu chỉ trích chính phủ chậm trễ trong cuộc chiến chống ô nhiễm đã dè dặt hoanh nghênh kế hoạch mới này.

Không khí độc hại được cho là gây ra 1,24 triệu ca tử vong sớm ở Ấn Độ trong năm 2017 và hàng chục triệu người đối mặt với các rủi ro về sức khỏe. 20 triệu cư dân ở New Delhi hàng năm phải hít thở trong bầu không khí bị khói mù bao phủ trong những tháng mùa Đông khi nông dân ở các vùng phụ cận đốt rươm rạ sau thu hoạch.

Theo Nguyệt Minh/tapchimoitruong.vn