Tăng cường và truyền điện cho bê tông in 3D nhờ graphene oxit

Các cấu trúc bê tông in 3D được cho là xây dựng nhanh hơn và rẻ hơn so với cấu trúc truyền thống, nhưng chúng không phải lúc nào cũng bền chắc. Vấn đề đó có thể sớm được giải quyết bằng cách thêm graphene oxit, chất này cũng có thể được sử dụng để phát hiện các vết nứt.

Thông thường các tòa nhà bê tông, cầu và công trình khác được tạo ra bằng cách đổ bê tông ướt vào các khuôn gỗ (còn gọi là khuôn) và khuôn này sẽ được lấy ra khi bê tông đã cứng lại. Ngược lại, việc in 3D cấu trúc như vậy liên quan đến việc đổ các lớp bê tông ép đùn liên tiếp để liên kết với nhau khi chúng cứng lại. Tuy nhiên, liên kết giữa các lớp đó đôi khi trở thành điểm yếu, làm giảm độ bền tổng thể của cấu trúc.

Trong nỗ lực giải quyết vấn đề đó, các nhà khoa học từ Đại học RMIT của Úc và Đại học Melbourne đã thử thêm oxit graphene vào xi măng dùng làm chất kết dính trong bê tông in 3D. Graphene oxit là dạng bị oxy hóa của graphene, nó là tấm nguyên tử carbon dày một nguyên tử liên kết với nhau theo mô hình tổ ong.


Liều lượng graphene oxit cao hơn làm giảm cường độ và khả năng làm việc của bê tông.

Sau khi thử nghiệm với các lượng khác nhau, người ta phát hiện rằng khi thêm graphene oxit với liều lượng 0,015% trọng lượng của xi măng, bê tông thu được có khả năng liên kết giữa các lớp tốt hơn. Sự gia tăng này tạo ra gia tăng 10% về sức mạnh tổng thể.

“Graphene oxit có các nhóm chức năng trên bề mặt của nó, giống như những vết dính trên bề mặt vật liệu có thể bám vào những thứ khác”, PGS. TS. GS. Jonathan Trần cho hay.

Những điểm dính này chủ yếu được tạo thành từ các nhóm chức năng khác nhau có chứa oxy, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho nó liên kết mạnh hơn với các vật liệu khác như xi măng. Liên kết mạnh mẽ này có thể cải thiện cường độ tổng thể của bê tông.

Ngoài ra, vì graphene có tính dẫn điện cao nên có thể truyền dòng điện qua bê tông cứng. Người ta hy vọng một ngày nào đó chức năng này có thể được sử dụng trong hệ thống phát hiện vết nứt, trong đó, ngay cả những vết nứt nhỏ nhất cũng có thể làm gián đoạn mạch điện chạy qua kết cấu bê tông.

Trong các nghiên cứu trước đây, graphene oxit đã được sử dụng để tạo thành lớp phủ bảo vệ trên bê tông và để tăng cường độ liên kết của các sợi mặt nạ vụn được sử dụng để tăng cường bê tông.

Hà My
https://vietq.vn/graphene-oxit-dung-de-tang-cuong-va-truyen-dien-cho-be-tong-in-3d-d216873.html

AI đang gây ảnh hưởng đến môi trường như thế nào?

Công nghệ Trí tuệ nhân tạo (AI) mang lại không chỉ tiềm năng đổi mới mà còn đặt ra những thách thức nghiêm trọng đối với môi trường như lãng phí tài nguyên, phát sinh khí thải và những nguy cơ ô nhiễm khác.

Theo OpenAI, sức mạnh tính toán cần để đào tạo các mô hình AI tiên tiến tăng gấp đôi sau mỗi 3,4 tháng kể từ năm 2012. Dự kiến đến năm 2040, ngành Công nghệ thông tin và truyền thông sẽ chiếm 14% tổng lượng khí thải toàn cầu, với trung tâm dữ liệu và mạng truyền thông đóng góp lớn.

Nghiên cứu mới của Đại học Massachusetts cũng chỉ ra rằng quá trình đào tạo mô hình AI tiêu tốn lượng nước sạch đáng kể. Theo kết quả nghiên cứu, việc huấn luyện có thể tạo ra khoảng 626.000 pound (~284 tấn) carbon dioxide, tương đương với khoảng 300 chuyến bay khứ hồi giữa New York và San Francisco.

Các nghiên cứu trước đó đã nhắc tới việc những mô hình AI năng lực cao như ChatGPT có khả năng để lại “dấu chân carbon” lớn (gây tác động lớn tới môi trường), vẫn có ít người chú ý tới hoạt động tiêu thụ nước của các hệ thống này.

Theo đó, nghiên cứu mang tên “Khiến cho AI bớt khát nước hơn” của nhóm các nhà khoa học tới từ Đại học Colorado Riverside và Đại học Texas Arlington của Mỹ, chưa qua thẩm định của các chuyên gia trong ngành, được đăng tải trên chuyên trang khoa học arXiv. Nghiên cứu ước tính rằng trung tâm dữ liệu, được sử dụng để thực hiện việc giao tiếp giữa ChatGPT với người dùng, sẽ tiêu tốn 500ml nước sạch cho mỗi cuộc trò chuyện gồm từ 20 tới 50 câu hỏi.

Các nhà khoa học còn tạo ra một bộ khung để ước tính lượng nước sẽ bị tiêu thụ, trong quá trình làm mát các máy chủ đang chạy những hệ thống AI cao cấp như ChatGPT. Cụ thể, chỉ riêng quá trình đào tạo mô hình GPT-3, công ty Microsoft có thể đã tiêu thụ một lượng nước đáng kinh ngạc là 700.000 lít nước sạch. Theo mô hình quy đổi, lượng nước này đủ để phụ vụ việc sản xuất 370 chiếc ôtô BMW hoặc 320 chiếc xe điện Tesla. Microsoft đã hợp tác chặt chẽ với OpenAI, công ty đứng đằng sau ChatGPT. Gần đây Microsoft được cho là đã đầu tư tới 10 tỷ USD vào công ty.

Các nhà khoa học lưu ý rằng các mô hình AI năng lực cao khác như LaMDA của Google có thể tiêu thụ một lượng nước “đáng kinh ngạc” lên tới hàng triệu lít. Vì vậy các doanh nghiệp cần chấp nhận trách nhiệm về việc quản lý tài nguyên nước và khí thải của họ khi sử dụng AI.

Trong khi đó, ứng dụng của AI như ô tô không người lái và máy bay giao hàng gây ra đe dọa đến động vật và môi trường tự nhiên. Tự động hóa được thúc đẩy bởi AI có thể dẫn đến tăng tiêu thụ năng lượng và sản sinh lượng chất thải, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trong nông nghiệp, sự triển khai của AI có thể dẫn đến lạm dụng thuốc trừ sâu và phân bón, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học và ô nhiễm môi trường.

Dự đoán của diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), đến năm 2050, tổng lượng rác thải điện tử sẽ vượt quá 120 triệu tấn. Để giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của AI, cần có quy định nghiêm ngặt và thực hành có đạo đức. Tối ưu hóa thuật toán và phần cứng là chìa khóa để giảm tiêu thụ năng lượng của hệ thống AI. Các doanh nghiệp và nhà nghiên cứu cũng cần hợp tác chặt chẽ để tìm ra giải pháp đa ngành và bền vững, đảm bảo rằng sự tiến bộ công nghệ không gây hại đến môi trường.

Về phía doanh nghiệp, bà Corina Standiford, người phát ngôn của Google khẳng định đang tìm kiếm cách giảm năng lượng và khí thải carbon từ hoạt động AI, cần có sự can thiệp của các cơ quan quản lý và chính phủ để đảm bảo rằng các doanh nghiệp áp dụng AI theo cách có lợi cho môi trường và xã hội. Các nỗ lực cộng đồng và sự nhận thức từ công dân cũng quan trọng để đẩy mạnh sự chuyển đổi đối với AI thông minh và bền vững.

Duy Trinh (t/h)
https://vietq.vn/ai-dang-gay-anh-huong-den-moi-truong-nhu-the-nao-d216691.html

Tận dụng dầu thừa làm nhiên liệu hàng không bền vững

Dầu thừa từ các nhà hàng được lọc sơ, thu gom, đưa đến một nhà máy để tinh chế thành dầu công nghiệp.

Công ty Sichuan Jinshang Environmental Protection (SJEP) phát triển quy trình xử lý lượng lớn dầu lẩu đã qua sử dụng bị thải bỏ và chuyển đổi thành nhiên liệu hàng không. Theo giám đốc Ye Bin, công ty đang sản xuất tới 150.000 tấn dầu công nghiệp hàng năm từ các nhà hàng lẩu và quán ăn khác tại Thành Đô.

Thông thường vào buổi tối sau khi khách hàng rời đi, người phục vụ của nhà hàng bắt đầu đổ nước lẩu vào một bộ lọc đặc biệt để tách dầu khỏi nước. Tiếp theo, những người thu gom do SJEP thuê, với tạp dề dày và găng tay cao su dài đến khuỷu tay sẽ đến lấy những thùng đựng dầu mỡ này. Họ có thể ghé qua hàng trăm cửa hàng trong đêm.

Dầu lẩu sau đó được đưa đến một khu công nghiệp ở ngoại ô thành phố, nơi có nhà máy của SJEP. Dầu được dẫn vào các thùng lớn và trải qua quá trình tinh lọc để loại bỏ nước và tạp chất còn sót lại, trở thành dầu công nghiệp trong suốt màu vàng. Nhiên liệu này sẽ được xuất khẩu cho khách hàng, chủ yếu ở châu Âu, Mỹ, Singapore. Họ sẽ tiếp tục xử lý dầu để tạo thành “nhiên liệu hàng không bền vững” (SAF).

 Nhân viên nhà hàng ở Thành Đô đổ nồi nước lẩu lẫn dầu xuống phễu lọc để tái chế. Ảnh: AFP

SAF đóng vai trò quan trọng giúp khử carbon trong ngành hàng không, lĩnh vực đóng góp 2% lượng khí thải CO2 toàn cầu vào năm 2022, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA). Nhưng loại nhiên liệu này vẫn chưa phổ biến, chỉ chiếm chưa đến 0,1% tổng lượng nhiên liệu hàng không được tiêu thụ, do chi phí xử lý cao và số nhà cung cấp còn khá ít.

Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA) ước tính, sử dụng rộng rãi SAF có thể đóng góp khoảng 65% vào việc giảm lượng khí thải để giúp ngành hàng không đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. SJEP cũng dự định phát triển cơ sở sản xuất SAF riêng, sử dụng thiết bị từ công ty Mỹ Honeywell để sản xuất 300.000 tấn mỗi năm.

Mô hình hoạt động của SJEP là một phần trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm giải quyết lượng rác thải thực phẩm khổng lồ do dân số 1,4 tỷ người tạo ra. Theo một nghiên cứu năm 2021 trên tạp chí Nature, tại Trung Quốc, khoảng 350 triệu tấn nông sản – hơn 1/4 sản lượng hàng năm trở thành rác thải do bị các nhà hàng, siêu thị hoặc người tiêu dùng vứt bỏ.

Tại các bãi chôn lấp, rác thải thực phẩm thối rữa tạo ra khí methane làm nóng khí quyển nhanh hơn hầu hết vật liệu khác, theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ. Đây là vấn đề đau đầu với các thành phố Trung Quốc và là mối đe dọa lớn với mục tiêu khí hậu toàn cầu. Trung Quốc đã khẳng định sẽ giải quyết vấn đề này với kế hoạch giảm phát thải khí methane, kêu gọi triển khai những dự án xử lý rác thải thực phẩm sáng tạo trên cả nước trong vài năm tới.

Bảo Lâm
https://vietq.vn/tan-dung-dau-thua-lam-nhien-lieu-hang-khong-ben-vung-d216295.html

Phát triển bê tông tự phục hồi vá các vết nứt bằng vi khuẩn

Bê tông có vẻ chắc chắn và bền lâu nhưng lại dễ bị hư hỏng trước các yếu tố tự nhiên. Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại Đại học Drexel đã chứng minh một loại bê tông tự phục hồi được gắn sợi sinh học sử dụng vi khuẩn để vá các vết nứt khi chúng hình thành.

Bê tông rất dễ chế tạo, chắc chắn và trong điều kiện lý tưởng, bền trong thời gian dài. Tuy nhiên ở thực tế bê tông thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thời tiết có thể gây các vết nứt. Đó là lúc rắc rối bắt đầu, khi sự dao động nhiệt độ khiến các vết nứt rộng hơn trong khi độ ẩm gây ra nhiều quá trình khác nhau có thể ăn mòn bê tông.

Do đó, các kết cấu bê tông cần được bảo trì liên tục, điều này có thể tốn kém và bất tiện cũng như làm tăng tác động môi trường của việc chế tạo vật liệu này.

Đó là lúc BioFiber của Drexel xuất hiện. Những sợi polymer này không chỉ hoạt động như chất gia cố vật lý mà còn có tuổi thọ kép quan trọng như một cơ chế tự phục hồi. Các sợi được phủ một lớp hydrogel chứa nội bào tử dạng vi khuẩn không hoạt động có thể chịu được môi trường khắc nghiệt, sau đó tự hồi sinh khi mọi thứ trở nên thoải mái hơn. Lớp hydrogel sau đó được phủ một lớp vỏ polymer mỏng.

Bê tông sợi sinh học có thể sử dụng như bất kỳ loại bê tông nào khác, nhưng siêu năng lực bí mật của nó chỉ lộ rõ sau này, khi và nếu nó bị nứt. Khi nước chạm tới BioFiber, hydrogel sẽ nở ra và thoát ra khỏi lớp vỏ, đẩy lên bề mặt. Trong quá trình này, vi khuẩn đang ngủ say được đánh thức và chúng bắt đầu ăn carbon và canxi từ bê tông xung quanh. Quá trình này tạo ra canxi cacbonat, một loại vật liệu kết dính có tác dụng lấp đầy và vá lại vết nứt.


Hình ảnh kính hiển vi điện tử quét màu của bê tông tự phục hồi BioFiber đang hoạt động.

Amir Farnam, nhà nghiên cứu chính của nhóm cho biết: “Đây là sự phát triển thú vị cho những nỗ lực không ngừng nhằm cải thiện vật liệu xây dựng bằng cách sử dụng nguồn cảm hứng từ thiên nhiên. Hàng ngày, chúng ta thấy rằng các cấu trúc bê tông cũ kỹ đang gặp phải những hư hỏng làm giảm tuổi thọ sử dụng và đòi hỏi phải sửa chữa tốn kém. Hãy tưởng tượng, họ có thể tự chữa lành vết thương? Trong da của chúng ta, mô thực hiện điều đó một cách tự nhiên thông qua cấu trúc sợi nhiều lớp được truyền chất lỏng tự phục hồi – máu. Những sợi sinh học này bắt chước khái niệm và sử dụng vi khuẩn tạo đá để tạo ra bê tông sống có khả năng tự phục hồi khi bị hư hại”.

Mặc dù thời gian lành vết thương có thể khác nhau nhưng nhóm nghiên cứu cho biết, BioFiber dường như có thể vá các vết nứt chỉ trong một hoặc hai ngày. Các nghiên cứu trước đây đã tạo ra bê tông tự phục hồi được truyền vi khuẩn, nhưng một trong những thách thức chính là làm thế nào để giữ cho vi khuẩn tồn tại lâu dài trong khi bê tông vẫn còn nguyên vẹn. Sử dụng các nội bào tử không hoạt động được bọc trong hydrogel, bên dưới lớp vỏ polymer bảo vệ, có thể là câu trả lời.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, bê tông BioFiber cuối cùng có thể giúp giảm yêu cầu bảo trì của các tòa nhà cũng như lượng khí thải CO2 từ sản xuất bê tông.

Hà My
https://vietq.vn/phat-trien-be-tong-tu-phuc-hoi-va-cac-vet-nut-bang-vi-khuan-d216228.html

Ra mắt chương trình truyền hình “Hành trình Net Zero”

Chủ đề của “Hành trình Net Zero” xoay quanh các vấn đề: biện pháp bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính, phòng ngừa ô nhiễm, tiết kiệm và sử dụng năng lượng tái tạo; giới thiệu sản phẩm hữu cơ, phát triển theo hướng giảm phát thải.

Ngày 14/11, Hiệp hội Nhà sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường Việt Nam (EPMA) và Trung tâm truyền hình Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh (VTV9) – Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức lễ ra mắt chương trình truyền hình “Hành trình Net Zero”.


Các đại biểu thực hiện nghi thức lễ ra mắt chương trình “Hành trình Net Zero”.

Chương trình “Hành trình Net Zero” được phát sóng từ ngày 22/9 vào lúc 20h10 tối thứ Sáu; phát lại lúc 6h30 sáng thứ Bảy; 9h25 sáng Chủ nhật và 17h30 phút chiều thứ Tư hằng tuần trên kênh Truyền hình VTV9.

Chương trình gồm 52 số, mỗi số 15 phút, chia thành 3 phần gồm: Tuần xanh, Tâm xanh và Điểm xanh. Trong đó, “Tuần xanh”: điểm qua các tin tức nổi bật liên quan đến tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.

“Tâm xanh”: các ý tưởng mới lạ, độc đáo hoặc những dự án đã và đang được triển khai phục vụ cho mục tiêu giảm phát thải, kinh tế xanh, phát triển bền vững hay vì lợi ích môi trường.

“Điểm xanh”: phóng sự về dự án, con người, hoạt động sản xuất kinh doanh, sản phẩm, công nghệ và thành tựu về môi trường, doanh nghiệp chia sẻ ý tưởng, giải pháp và đóng góp…

Chương trình không chỉ mang đến những thông điệp quan trọng về tăng trưởng xanh mà còn chia sẻ kiến thức về các giải pháp thực tế và thành tựu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.

Tại buổi lễ, ông Ngô Trường Sơn, Phó Giám đốc VTV9 cho biết, chương trình “Hành trình Net Zero” sẽ góp phần thúc đẩy và ủng hộ chuyển đổi xanh, thông qua góp phần nâng cao nhận thức và giáo dục, thúc đẩy hành động cụ thể, tạo ra cơ hội và hỗ trợ giao lưu, tạo động lực và tạo cảm hứng trong quá trình chuyển đổi xanh. Bên cạnh đó, “Hành trình Net Zero” góp phần xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách về tiến trình tăng trưởng, chuyển đổi xanh. Hành trình Net Zero thực hiện điều này thông qua việc phản ánh những bất cập, phản biện các chính sách chưa hợp lý, đưa ra các đề xuất về chính sách tăng trưởng xanh để các cơ quan quản lý Nhà nước xem xét, điều chỉnh”.


GS Đặng Hùng Võ – nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phát biểu tại buổi lễ.

Tại buổi lễ ra mắt chương trình, GS Đặng Hùng Võ – nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chia sẻ, nhân loại đang cần một trái đất sạch, luôn trong xanh (cả Green lẫn Blue) để bảo đảm cho tương lai bền vững. Thương mại trong thị trường quyền carbon là một giải pháp duy nhất tạo nên hiệu quả vì giải pháp này gắn được với cơ chế tài chính để điều tiết lợi ích. Trên toàn cầu, thị trường quyền carbon được vận hành dựa vào công pháp quốc tế, mà chủ yếu vẫn là các cam kết giữa các quốc gia thông qua các ký kết quốc tế, trong đó trách nhiệm thực thi vẫn dựa trên cơ chế tự nguyện.

Trong phạm vi một quốc gia hay vùng lãnh thổ, thị trường quyền carbon có thể vận hành rất hiệu quả giữa các bên phát thải và các bên không phát thải trong sản xuất hay cung cấp dịch vụ cùng một loại hàng hóa, cùng một hạng mục của nếp sinh hoạt. Mỗi quốc gia, trong đó có nước ta, phải vạch ra một “lộ trình phát triển sạch” trong cả sản xuất, dịch vụ và nếp sinh hoạt phù hợp với thu nhập.

Các bước của lộ trình phải dựa trên nâng cao năng lực cạnh tranh của từng con người, từng tổ chức, từng cộng đồng tham gia vào thị trường quyền carbon trong một khung pháp luật phù hợp với khả năng thu nhập thực tế. Lộ trình này cần tạo ra những bước đi cụ thể cho từng ngành kinh tế như phát triển hạ tầng, nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ như giao thông, xây dựng, đầu tư, thương mại…

Các lộ trình này luôn đứng trước những thách thức vô cùng lớn, trong đó thách thức lớn nhất là thay đổi tư duy phát triển. Tất cả chỉ để có một gia đình sạch, khu dân cư sạch, địa phương sạch, quốc gia sạch nhằm góp phần tạo nên trái đất sạch và bền vững.

Nhân dịp này, EPMA cũng đã phát động Giải thưởng “Tôn vinh Doanh nghiệp phát triển Xanh”. Giải thưởng sẽ được trao vào tháng 10/2024 và sẽ được phát sóng trực tiếp trên kênh Truyền hình VTV9, nhằm ghi nhận, tôn vinh các doanh nghiệp có đóng góp tích cực trong việc bảo vệ môi trường và thúc đẩy tăng trưởng xanh.

N.H
https://petrotimes.vn/ra-mat-chuong-trinh-truyen-hinh-hanh-trinh-net-zero-699335.html

Phát triển bề mặt chống thấm nước siêu hiệu quả

Các nhà khoa học đã phát triển bề mặt chống thấm nước tốt nhất từ trước đến nay. Bằng cách tạo cho nó một lớp phủ giống chất lỏng bất chấp các thiết kế thông thường, nước sẽ lăn khỏi bề mặt ở các góc nông hơn 500 lần so với vật liệu siêu kỵ nước khác.

Khả năng đẩy nước rất quan trọng đối với nhiều vật liệu, đặc biệt là trong ngành công nghiệp ô tô, hàng hải và hàng không vũ trụ. Nhiều bề mặt siêu kỵ nước hoạt động bằng cách giữ lại một lớp không khí hoặc chất lỏng khiến bất kỳ loại nước nào rơi vào đó sẽ vo tròn thành giọt và lăn đi dễ dàng hơn.

Nhưng công nghệ mới nổi tạo ra cái gọi là bề mặt giống chất lỏng (LLS), có các lớp phân tử có tính di động cao hoạt động giống chất lỏng nhưng được buộc chặt vào chất nền để chúng không thoát ra ngoài. Kết quả cuối cùng giống như một bề mặt được bôi trơn và nước sẽ trượt ra ngay lập tức.

Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học tại Đại học Aalto ở Phần Lan đã phát triển LLS mới từ các phân tử được gọi là lớp đơn lớp tự lắp ráp (SAM) phủ lên chất nền silicon. Bằng cách điều chỉnh các điều kiện như nhiệt độ và hàm lượng nước trong lò phản ứng trong quá trình sản xuất, nhóm nghiên cứu có thể kiểm soát lượng silicon mà SAM bao phủ.


Ấn tượng về nước lăn trên lớp phủ SAM siêu thấm nước mới.

Khi SAM bao phủ phần lớn bề mặt, nó trở nên siêu kỵ nước, khiến nước tạo thành các giọt và lăn đi. Bản thân điều đó được mong đợi nhưng trước sự ngạc nhiên của các nhà nghiên cứu, độ bao phủ SAM thấp cũng khiến bề mặt trơn trượt. Và nó đã làm được điều đó mà không cần có các hạt nước, vốn từ lâu đã được cho là cần thiết cho khả năng siêu kỵ nước.

Sakari Lepikko, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Thật phản trực giác khi ngay cả độ che phủ thấp cũng mang lại khả năng trơn trượt đặc biệt. Thay vào đó, chúng tôi nhận thấy nước chảy tự do giữa các phân tử của SAM ở độ bao phủ SAM thấp, trượt khỏi bề mặt. Và khi độ bao phủ của SAM cao, nước vẫn ở trên SAM và trượt đi một cách dễ dàng. Chỉ ở giữa hai trạng thái này nước mới bám vào SAM và dính lên bề mặt”.

Nhóm nghiên cứu cho biết một số phiên bản bề mặt SAM của họ là vật liệu chống thấm nước tốt nhất từng được báo cáo – các bề mặt siêu kỵ nước thường có góc trượt (góc mà nước sẽ lăn đi) thấp tới 5°. Nhưng nhóm Aalto báo cáo rằng góc trượt của họ có thể là 0,01°, nghĩa là về cơ bản nước sẽ chảy ra khỏi bất kỳ bề mặt nào không bằng phẳng hoàn hảo. Thước đo phổ biến hơn về tính kỵ nước là cái được gọi là góc tiếp xúc, được tính bằng mức độ sắc nét của các giọt nước cong hình thành trên bề mặt. Nhưng thật khó để áp dụng biện pháp đó ở đây khi bề mặt SAM cho phép nước lan ra thành màng nhưng vẫn dễ dàng lăn đi. Hấp dẫn như lớp phủ SAM, các nhà nghiên cứu thừa nhận nó vẫn khá mỏng và sẽ phân tán dễ dàng. Nhưng họ có kế hoạch tiếp tục cải thiện để cuối cùng nó có thể giúp ích trong nhiều trường hợp sử dụng công nghiệp”.

Ông Lepikko cho biết: “Những thứ như truyền nhiệt trong đường ống, làm tan băng và chống sương mù là những ứng dụng tiềm năng. Nó cũng sẽ hữu ích với vi lỏng, trong đó các giọt nhỏ cần được di chuyển xung quanh một cách trơn tru và tạo ra bề mặt tự làm sạch. Cơ chế phản trực giác của chúng tôi là một cách mới để tăng tính di động của giọt nước ở bất cứ nơi nào cần thiết”.

Hà My
https://vietq.vn/phat-trien-be-mat-chong-tham-nuoc-sieu-hieu-qua-s26-d215399.html