Mười ý tưởng công nghệ xanh táo bạo

Biến đổi khí hậu, bế tắc giao thông, khủng hoảng đói nghèo: vấn đề đặt ra trong thế kỷ này có lẽ là làm thế nào để bảo đảm sự sống còn của nhân loại. Vấn đề càng lớn bao nhiêu thì các giải pháp càng phải có tầm nhìn lớn bấy nhiêu. Chúng tôi xin giới thiệu mười nhà nghiên cứu đưa ra những ý tưởng công nghệ nổi bật nhằm thay đổi thế giới.

Elon Musk: Tàu bánh sắt siêu âm

Ông là người đã đơn giản hoá việc thanh toán trên Internet bằng PayPal, đưa ô tô điện vào cuộc sống thông qua Tesla Roadster và tư nhân hoá các chuyến bay lên vũ trụ với Space X. Tới đây nhà phát minh, doanh nhân 43 tuổi này còn muốn tặng thế giới một loại phương tiện giao thông hoàn toàn mới lạ có tốc độ gấp hai lần máy bay nhưng giá lại rẻ hơn.

Ông Musk đang phát triển một loại tàu nhanh có tên Hyperloop, có sức mạnh của máy bay Concorde cộng với khẩu pháo. Ở khẩu pháo này, đầu đạn tăng tốc nhờ tác động của từ trường. Theo Musk, Hyperloop sẽ chỉ cần khoảng nửa tiếng đồng hồ để chạy quãng đường 600 km từ San Francisco tới Los Angeles.

Hơn thế nữa, tàu có thể sử dụng hoàn toàn năng lượng mặt trời do các tế bào quang điện đặt dọc tuyến đường cung cấp. Chi phí xây dựng tuyến đường này hết khoảng sáu tỷ đôla – chỉ bằng một phần mười chi phí đầu tư xây dựng tuyến đường sắt cao tốc ở California.

Heinrich Bülthoff: Đến văn phòng bằng máy bay không người lái

Thiết bị bay không người lái chạy điện Mycopter

Ô tô có thể chạy theo ba hướng: đi thẳng, rẽ hay chạy lùi. Khi bị ùn tắc thì ô tô chết dí một chỗ. Trong khi đó còn có một hướng đi nữa dành cho chúng mà không được tận dụng, đó là thăng thiên. Một nhóm các chuyên gia quốc tế đang nghiên cứu về cái hướng đi lên này, dự án này của EU mang tên Mycopter.

Mục tiêu: tạo đường trên không để ô tô bay được điều khiển bằng máy tính có thể đưa thẳng hành khách tới tận nơi làm việc – từ đó giảm tiêu hao năng lượng không cần thiết. Ý tưởng này không hoàn toàn là không tưởng: trong thực tế đã có những “con lai” đầu tiên giữa máy bay và ô tô, thí dụ Model Transition của Terrafugia, một doanh nghiệp khởi nghiệp ở Mỹ. Doanh nghiệp e-Volo ở Karlsruhe, Đức thậm chí đang thử nghiệm một loại trực thăng chạy điện dễ dàng điều khiển.

Dưới sự điều hành của giáo sư Heinrich Bülthoff, thuộc Viện Max-Planck về điều khiển học sinh học ở Tübingen, các nhà nghiên cứu về Mycopter muốn làm rõ, phải làm gì để tiếp tục phát triển các thiết bị bay loại này thành vật thể bay không người lái để vận chuyển hành khách, cũng như chính quyền phải ứng xử như thế nào trước những đổi thay này: trong tương lai, những người tự bay cần có bằng loại gì, quản lý giao thông bay cá nhân sẽ diễn ra như thế nào, sự tích hợp của loại hình giao thông này ở các thành phố sẽ ra sao. Các nhà nghiên cứu muốn có những lời đáp cho những câu hỏi trên để việc đi lại bằng vật thể bay cũng đơn giản như đi lại bằng ô tô.

Eduard Heindl: Biến núi thành bình ắc quy

150514_congnghexanh2

Theo các nhà khoa học, một tảng đá đè lên một cột nước có thể tích một lượng điện lên đến hai Terawatt/giờ năng lượng – tương đương lượng điện mà cả nước Đức tiêu thụ trong khoảng 30 giờ đồng hồ.

Để chuyển đổi hoàn toàn sang năng lượng tái tạo, nước Đức phải dịch chuyển những quả núi, đúng như nghĩa đen của từ đó. Đây là đề nghị của nhà khoa học ĐH Khoa học ứng dụng Furtwangen. Nhà vật lý này có ý định xây một công trình tích năng lượng khổng lồ bằng đá hoa cương, và đây sẽ là công trình nổi bật vì sự đồ sộ tương tự như Ayers Rock ở Australia.

Ông Heidl dự kiến dùng thiết bị khoan đường hầm và máy cưa đá để tách một khối đá hoa cương hình trụ (hoặc hình ống), có chiều cao trên 500 mét và đường kính một kilômét. Những kẽ hở và bề mặt của khối đá này sẽ được trát thật phẳng để bảo đảm độ khít. Lượng điện dư thừa từ các cột điện gió và từ tế bào quang điện bảo đảm cho hoạt động của cỗ máy bơm khổng lồ này, trụ đá nén khối nước khổng lồ ở bên dưới để từ đó đẩy trụ lên hàng trăm mét. Khi lưới điện cần năng lượng – thí dụ khi lặng gió – nước sẽ chảy bên dưới trụ đá hoa cương và làm cho turbine hoạt động.

Chi phí xây dựng cái gọi là kho lưu trữ năng lượng này có thể lên tới cả tỷ Euro và có thể tích được khoảng 2.000 Gigawatt giờ điện – nhiều gấp 40 lần lượng điện lưu trữ của tất cả các nhà máy bơm tích điện hiện nay của nước Đức và bằng lượng điện mà nước Đức tiêu thụ trong một ngày.

Matt Watson: Làm nguội trái đất

150514_congnghexanh3

Khi con người đã biết nhân bản cừu, đã có thể dời non chuyển núi – vậy thì còn ngại ngần gì mà không tạo ra một hoạt động của núi lửa? Đây chính là điều mà nhà nghiên cứu Matt Watson muốn đạt được với dự án Projekt SPICE của mình nhằm chấm dứt sự nóng lên của trái đất.

Nhà khoa học thuộc Đại học Bristol của Anh muốn làm được cái mà núi lửa Pinatubo (Philippines) đã từng gây ra, vụ núi lửa này bùng nổ vào năm 1991 đã làm cho nhiệt độ trái đất giảm nửa độ C vì tro núi lửa bốc lên tới tầng bình lưu và che ánh nắng mặt trời. Watson cũng muốn thổi lớp tro bụi lên tới tầng bình lưu thông qua một cái ống gắn vào phần cuối một quả cầu hellium khổng lồ lên đến độ cao 20 km. Một tầu thuỷ chạy trên biển là cơ sở phục vụ cho toàn bộ quá trình này.

Thử nghiệm lắp đặt đầu tiên ở quy mô nhỏ dự định tiến hành vào năm 2012 nhưng đã phải ngưng lại. Nay Watson có ý định phát triển ý tưởng của mình trước hết ở trong phòng thí nghiệm.

Yasuyuki Fukumuro: Tạo ra điện trên không gian

150514_congnghexanh4

Trong tương lai nhà máy điện mặt trời trên không gian có thể phóng năng lượng xuống trái đất.

Vị trí tốt nhất để làm nhà máy điện mặt trời ở đâu? Theo Yasuyuki Fukumuro, phụ trách dự án Space Solar Power Systems thuộc Cơ quan Nghiên cứu Vũ trụ Nhật bản Jaxa, thì vị trí thích hợp nhất để đặt nhà máy điện mặt trời là trên quỹ đạo trái đất. Đây là nơi luôn chói chang ánh sáng mặt trời, không bao giờ có mây che phủ – đó là những đặc điểm nổi bật của vị trí này.

Fukumuro dự định sẽ truyền tải điện thông qua tia vi sóng tới một trạm trên mặt đất. Một nghiên cứu của International Academy of Astronautics cho hay, từ 10 đến 20 năm tới có thể xây dựng nhà máy điện đầu tiên trên quỹ đạo.

Tuy nhiên việc bắn các tế bào quang điện lên vũ trụ bằng tên lửa có hiệu quả hay không, đây còn là chuyện rất xa vời. Một điều chắc chắn phải được giải quyết là làm sao để giảm đáng kể trọng lượng của tế bào quang điện, hay sản xuất chúng thông qua máy in ngay trên vũ trụ.

Claudio Lenoardi: Máy bay gá lắp

150514_congnghexanh5

Việc gá lắp các khoang máy bay sẽ làm cho hành khách cũng như hành lý, hàng hoá lên máy may nhanh chóng hơn. Đến một ngày nào đó người ta có thể gá lắp các container chứa khí hydro hay các thùng chứa bình ắc quy vào những chiếc máy bay dùng năng lượng điện.

Claudio Leonardi, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ Lausanne đang xúc tiến một đề án mang tên Clip-Air , theo đó hành khách đi máy bay trong tương lai khi xuất phát từ một ga xe lửa có thể lên khoang đa chức năng đi thẳng ra sân bay bằng đường sắt, từ đây lên thẳng máy bay mà không cần hoàn tất các thủ tục để lên máy bay.

Có thể lắp tới ba cabin, mỗi cabin dài 30 mét tại sân bay vào một loại máy bay chuyên dụng. Mỗi cabin có thể chứa tới 150 hành khách, tương đương một máy bay Airbus-A320. Cũng có thể gá lắp các khoang chở hàng hoá, hành lý theo nhu cầu vào chiếc máy bay này.

Ý tưởng này còn tiếp tục được Đại học Glasgow phát triển. Hệ thống Horizon của họ gồm một tàu lượn hoạt động bằng điện, luôn ở gần một đường băng chuyên dụng ở sân bay và chỉ tiếp đất khi ca bin tàu hỏa tới và gá lắp vào, sau đó lại cất cánh bay tiếp. Bên cạnh hành khách trong các ca bin này còn có các bình ắc quy mới nạp điện để máy bay có thể tiếp tục bay. Khi hạ cánh, những ca bin này tách khỏi máy bay và chạy tiếp đến các thành phố khác thông qua truyền động từ tính.

Michael Sterner: Tàu thuỷ trở thành máy phát điện

Hiện đã có một số ý tưởng về việc khai thác năng lượng từ biển cả. Tuy nhiên chưa có phương án nào tiến xa như phương án của Michael Sterner, giáo sư về tích năng lượng và hệ thống năng lượng thuộc ĐH Khoa học ứng dụng Regensburg, Đức. Ông dự định dùng những tàu thuỷ dài khoảng 100 mét điều khiển bằng computer hoạt động trên Bắc Đại tây dương để tạo ra khí hydro.

Ngay khi có gió đẩy tàu chạy, dòng nước sẽ làm cho turbine tích hợp trong con tàu tạo ra điện từ đó thông qua điện phân để sản xuất khí hydro. Sterner cho rằng, trong điều kiện thuận lợi về gió, con tàu có thể tạo ra năng lượng ổn định dưới dạng khí hydro và tích trong những thùng lớn. Sau đó, khí hydro sẽ được bơm sang những thùng lớn trên bờ và nguồn năng lượng này có thể sử dụng thí dụ với ô tô chạy bằng khí hydro.

Cánh buồm là những Flettnerrotor, đây là những turbine gió dạng thẳng đứng. Một con tàu có thể tạo ra hai Megawatt điện. Các bộ phận cấu thành hiện đã có – giờ cần có người đứng ra đóng con tàu năng lượng đầu tiên này.

Edmund Kelly: Nhà máy điện mặt trời bồng bềnh

Thông thường các nhà máy điện mặt trời có năng suất cao hơn khi được mặt trời chiếu sáng nhiều hơn. Vì vậy từ lâu các nhà khoa học đã lên kế hoạch xây dựng các nhà máy điện mặt trời trên sa mạc và thậm chí cả trên không gian. Nhà nghiên cứu Edmund Kelly ở California và doanh nghiệp khởi nghiệp Stratosolar của ông đang tính đến một phương án mới: xây dựng các nhà máy điện mặt trời và neo lơ lửng trên tầng bình lưu.

Những quả bong bóng khổng lồ chứa hàng nghìn tấn khí nhiên liệu mang theo những tế bào quang điện mỏng dính lên bầu trời ở độ cao 20 km.

Đây là nơi mặt trời chiếu sáng liên tục suốt cả ngày, không có gió và không khí rất lạnh do đó hiệu suất của điện mặt trời ở đây cao hơn nhiều so với ở trên mặt đất. Dòng điện từ quả bóng quang điện trên không khổng lồ được truyền qua giây cáp xuống trái đất, dây cáp này đồng thời cũng là giây neo bong bóng. Theo tính toán của nhà nghiên cứu Kelly, mặc dù chi phí xây dựng cực kỳ lớn nhưng giá thành điện mặt trời trên tầng bình lưu rẻ hơn gấp ba lần so với giá thành điện mặt trời trên trái đất hiện nay.

Neil Palmer: Tái tạo điện từ những tia chớp

Bầu khí quyển trái đất có điện tích cực lớn. Mỗi ngày trên thế giới có tới ba triệu tia chớp trên bầu trời. Một nhóm nghiên cứu thuộc ĐH Southampton (Anh) do nhà vật lý Neil Palmer đứng đầu cùng với các nhà nghiên cứu của hãng chế tạo điện thoại di động Phần Lan Nokia đã xem xét khả năng tận dụng năng lượng này để vận hành các thiết bị điện trong cuộc sống của chúng ta.

Các nhà khoa học đã tạo được những tia chớp mạnh 200.000 Volt ở trong phòng thí nghiệm, họ dùng một thiết bị thu chuyên dụng để tiếp nhận nguồn năng lượng này và nạp dòng điện vào một Lumia-925-Smartphone, mà không làm tổn hại đến chiếc điện thoại di động. Cũng với cách tương tự, các nhà nghiên cứu khác cũng sử dụng những cột tháp khổng lồ để bắt các tia chớp và từ đó gặt hái điện từ không khí. Vấn đề là ở chỗ: việc này diễn ra như thế nào và liệu có hiệu quả hay không, đây vẫn là những câu hỏi còn để ngỏ.

Louis Michaud: Lấy điện từ những cơn lốc xoáy

Kỹ sư Louis Michaud đang nghiên cứu tại một cơ sở thí nghiệm về nhà máy điện lốc xoáy.

Lốc xoáy là nỗi kinh hoàng với rất nhiều người. Riêng kỹ sư Louis Michaud người Canada lại thấy lốc xoáy cực kỳ hấp dẫn đến mức ông tìm cách tạo ra chúng. Viên kỹ sư này muốn cùng doanh nghiệp khởi nghiệp Avetec của mình xây dựng các nhà máy điện tạo lốc xoáy để làm ra điện. Ông sử dụng nguồn khí thải nóng từ các nhà máy luyện thép hay nhà máy nhiệt điện cho chạy qua những ống khói cao và không khí bốc lên cao theo chiều xoắn ốc.

Không khí bên ngoài lạnh hơn nên phía trên ống khói hình thành một lực hút xoáy, điều này tạo ra một lốc xoáy cao khoảng 40 mét. Nhà nghiên cứu Michaud hy vọng năng lượng hình thành ở đây đủ để vận hành một turbine ở dưới chân tháp và từ đó tạo ra điện.

Bằng cách này có thể dùng khí thải nóng của một nhà máy điện chạy than công suất 500 Megawatt tạo ra lốc xoáy trong tháp thêm một lượng điện lên tới 200 Megawat.

Kỹ sư Michaud đã nhận được một sự hỗ trợ đắc lực của Peter Thiel, nguyên CEO ở PayPal và là nhà đầu tư số một tại Facebook – ông này đóng góp 300.000 đôla để xây dựng một nguyên mẫu.

Theo Xuân Hoài/Tạp chí Tia Sáng, 14/05/2014

Phát triển kinh tế xanh phải bắt đầu từ tiêu dùng xanh

PGS-TS Nguyễn Đinh Tuấn, Hiệu trưởng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TPHCM đúc kết: Chính tiêu dùng xanh là động lực để các doanh nghiệp dần chuyển đổi hoạt động sản xuất của mình theo hướng xanh hơn. Và đây chính là nền tảng để tạo dựng nền kinh tế xanh.

60% nguồn thải có hệ thống xử lý nước thải 

Trên thực tế, hoạt động sản xuất đã và đang là một trong những nguyên nhân khiến chất lượng môi trường sống ngày càng xấu đi. PGS-TS Nguyễn Văn Phước, Viện trưởng Viện Môi trường và Tài nguyên (Đại học Quốc gia TPHCM) cho biết, kết quả thống kê trên 826 nguồn thải công nghiệp ở 24 quận, huyện TPHCM từ năm 2010 đến năm 2012 cho thấy, chỉ có khoảng 60% nguồn thải có hệ thống xử lý nước thải.

Các nguồn thải còn lại chỉ qua xử lý sơ bộ (bể tự hoại) trước khi xả thải ra môi trường. Điều đáng lưu ý là trong số các nguồn thải được khảo sát thì có đến 44% các nguồn thải có lưu lượng nước thải từ 50m³/ngày đêm. Đây là nguồn thải đóng góp đến 90% cả về lưu lượng và tải lượng ô nhiễm. Những ngành gây ô nhiễm cao gồm dệt nhuộm, giấy, thực phẩm đóng góp đến 56% tổng tải lượng COD. Mở rộng ra toàn khu vực phía Nam, số lượng doanh nghiệp chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải tại các tỉnh lân cận còn cao hơn rất nhiều.

Một góc hồ xử lý nước thải tại một doanh nghiệp sản xuất xanh ở huyện Củ Chi (Ảnh: Phạm Kim Ngân)

Không dừng lại đó, chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và chất thải y tế cũng đang là vấn nạn đáng quan ngại cho thực trạng môi trường sống hiện nay. Hiện thống kê từ Bộ TN-MT đã chỉ ra, tổng khối lượng chất thải rắn đô thị phát sinh vào khoảng 8.700 – 8.900 tấn/ngày. Số lượng này tăng khoảng 8% – 10%/năm và tập trung chủ yếu tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TPHCM. Điều đáng nói là có đến 82/98 bãi chôn lấp không đảm bảo tiêu chuẩn về môi trường…

PGS Nguyễn Đinh Tuấn khẳng định, không chỉ ô nhiễm nước thải và chất thải rắn, chất lượng khí thải cũng rất đáng lo ngại. Việc cấm sử dụng các loại xăng pha chì đã giúp giảm đáng kể lượng chì trong không khí nhưng lại tăng các chất phụ gia độc hại khác trong môi trường khí như benzen, toluen…

Thiệt hại khôn lường 

Ô nhiễm gia tăng cũng đồng nghĩa với chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm này cũng phải gia tăng. Và đây sẽ được tính như là sự thiệt hại đối với nền kinh tế. Dựa trên quan điểm đó mà số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) đã chỉ rõ, tình trạng ô nhiễm môi trường tại Việt Nam gây thiệt hại đến 5% tổng sản phẩm nội địa GDP hàng năm. Cụ thể, năm 2007 là gần 4 tỷ USD trên tổng sản phẩm nội địa 71 tỷ USD. Năm 2008 tăng lên 4,2 tỷ USD trên tổng sản phẩm nội địa 76 tỷ USD.

PGS-TS Nguyễn Văn Phước nhấn mạnh, ô nhiễm môi trường cũng gây thiệt hại không nhỏ về hoạt động sản xuất nông nghiệp và khai thác, nuôi trồng thủy sản. Sản lượng nuôi cá bè trên sông những năm gần đây đều giảm sút do ô nhiễm nguồn nước mặt. Những sự cố gây ô nhiễm nguồn nước trong thời gian ngắn của một số nhà máy cũng gây ra thiệt hại về kinh tế đáng kể cho người sản xuất. Cụ thể như các vụ cá bè chết hàng loạt vào những năm 2008 và 2010 tại Đồng Nai và trên lưu vực sông Nhuệ – Đáy.

Bên cạnh đó, hàng năm ngân sách của các địa phương phải chi trả một khoản khá lớn cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn. Trung bình, mức chi phí xử lý cho công nghệ xử lý chất thải rắn bằng biện pháp chôn lấp hợp vệ sinh là 115.000 – 286.000 đồng/tấn. Riêng tại TPHCM, tổng chi phí hàng năm cho thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt khoảng 1.200 – 1.500 tỷ đồng.

Hiểm họa cho sức khỏe cộng đồng 

Không chỉ gây nên những thiệt hại về kinh tế, tình trạng ô nhiễm môi trường còn gây ra những hiểm họa khôn lường cho sức khỏe và thu nhập của người dân. Trung bình mỗi năm có khoảng 9.000 ca tử vong liên quan đến nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém và hàng chục ngàn người mắc các bệnh liên quan đến hô hấp, hệ tiêu hóa do hít phải khí thải ô nhiễm. Đáng lo ngại nhất trong những năm gần đây, số người mắc các bệnh ung thư do tiếp xúc phải chất thải ô nhiễm liên tục gia tăng, khoảng 150.000 người/năm.

Thêm vào đó, bệnh liên quan đến ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng không nhỏ đến người thân, tạo nên chi phí gián tiếp do nghỉ học, nghỉ làm cho cả người bệnh và người chăm sóc làm giảm 20% thu nhập. Không chỉ thế, trường hợp của nước ta còn phải chịu thiệt hại do hiện tượng cực đoan của biến đổi khí hậu gây ra, chiếm khoảng 5% GDP, tương đương với 15 tỷ USD. Nhà nước đã phải chi số tiền tương đương 780 triệu USD cho công tác chữa trị những chứng bệnh do ô nhiễm môi trường gây nên. Chi phí trực tiếp cho việc khám chữa bệnh tả, thương hàn, lỵ và sốt rét khoảng 400 tỷ đồng.

Cải thiện chất lượng môi trường sống để giảm thiệt hại về kinh tế cũng như sức khỏe cộng đồng là cần thiết. Tuy nhiên, theo PGS Nguyễn Đinh Tuấn, để tạo nên sự thành công của nền kinh tế xanh lại phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của người tiêu dùng. Khi cộng đồng đã nhận thức rõ và cổ động cho tiêu dùng xanh, chính họ sẽ đưa ra những đòi hỏi, yêu cầu bắt buộc với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, dịch vụ phải thể hiện trách nhiệm với xã hội, với môi trường hoạt động của mình.

Về phía Nhà nước, cần phát huy vai trò định hướng, đồng thời xây dựng chính sách khuyến khích doanh nghiệp hướng đến phát triển xanh cũng như tạo cơ sở để người tiêu dùng nhận biết và ưu tiên tiêu dùng sản phẩm xanh. Có như vậy mới tạo nên nội lực để cải thiện hiệu quả chất lượng môi trường đang ô nhiễm nghiêm trọng hiện nay.

Theo Ái Vân/Sài Gòn Giải Phóng

 

Sử dụng lá măng cụt và giẻ dừa để bảo vệ môi trường

Đề tài “Thay thế túi nilon bằng lá măng cụt và giẻ dừa” của nhóm học sinh Trường Trung học phổ thông Trương Vĩnh Ký, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre được đánh giá cao cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học khu vực phía Nam, năm học 2013-2014.
Huyện Chợ Lạch – nơi nhóm học sinh sinh sống – có nghề sản xuất cây giống. Việc ươm giống đòi hỏi dùng đến nhiều túi nilon. Trong khi đó diện tích trồng măng cụt và dừa trên địa bàn rất lớn. Lá măng cụt dày, dai, hình thuôn dài phù hợp để thay thế túi ni-lon trong giai đoạn chiết cành; giẻ dừa (bộ phận giúp lá dừa ôm chặt vào thân cây) có kích thước to, dẻo dễ uốn thành túi có thể sử dụng thay cho túi nilon trong giai đoạn ươm cây giống.
Từ thực tế đó,  nhóm đã nghiên cứu lựa chọn dự án thay thế túi nilon trong ngành sản xuất cây giống bằng những vật liệu thân thiện với môi trường nhằm giảm bớt chi phí đầu vào, hạn chế ô nhiễm môi trường.”Kết quả sau quá trình nghiên cứu và thực hành trên cây tắc cho thấy: Phương pháp chiết cành dùng lá măng cụt làm cho cành chiết ra rễ sớm hơn 1 ngày. Đến thời điểm cắt cành đi ươm thì lá măng cụt vẫn còn nguyên vẹn độ bền như ban đầu. Rễ cây trong túi làm bằng giẻ dừa phát triển rất mạnh, có thể xuyên qua lớp giẻ dừa. Khi phân hủy túi giẻ dừa tạo thêm chất mùn cho đất. Kết thúc quá trình ươm cây giống phát triển tốt trong bầu ươm là 100%. Bầu ươm có độ bền đáp ứng được việc vận chuyển đi xa.

Theo tin môi trường, vea.gov.vn

 

Cơ chế phát triển sạch (CDM): Xanh kinh tế, sạch môi trường

Việc tham gia quá trình CDM sẽ mở ra những cơ hội tốt cho việc giảm nhẹ vấn đề môi trường, giảm phát thải khí nhà kính (KNK) định lượng  sẽ được cấp chứng nhận (CER) và có thể trao đổi mua bán trên thị trường như một hàng hoá thương mại.

Tận dụng cơ hội, phát triển kinh tế Xanh

CDM là một cơ chế đối tác đầu tư giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. CDM cho phép và khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước và tư nhân của các nước phát triển đầu tư, thực hiện các dự án giảm phát thải các khí nhà kính tại các nước đang phát triển và nhận được Chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính được chứng nhận (CER). CER được tính vào chỉ tiêu giảm phát thải các khí nhà kính của các nước phát triển, giúp các nước này thực hiện cam kết giảm phát thải các khí nhà kính. Một CER bằng một tấn khí CO2 tương đương.

Việt Nam đã thực hiện nghiên cứu chiến lược quốc gia về CDM trong thời gian qua và đã được xác định là một trong các nước có tiềm năng về xây dựng và thực hiện các dự án CDM, đặc biệt là các dự án CDM trong lĩnh vực năng lượng. Chính phủ đã giao cho Bộ TN&MT là cơ quan đầu mối quốc gia về các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu và CDM. Bộ đã và đang phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, địa phương có liên quan xây dựng, thực hiện các chương trình, dự án giảm nhẹ phát thải KNK nói chung và các dự án CDM nói riêng nhằm tận dụng cơ hội phát triển nền kinh tế theo hướng các-bon thấp cũng như tích cực cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ BĐKH, bảo vệ hệ thống khí hậu Trái Đất.

Một số công nghệ được  triển khai giảm phát  thải KNK  trong một số  lĩnh vực đã có những hiệu quả rõ rệt. Công nghệ nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng ở Nhà máy bia Thanh Hoá, công nghệ thu hồi khí đốt đồng hành mỏ Rạng Đông, công nghệ thu hồi nhiệt dư ở nhà máy Xi măng Hà Tiên II… được quốc tế đánh giá cao và coi là một trong những dự án thử nghiệm cho dạng cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam.

Việt Nam đã có trên 50 dự án được Ban Chấp hành quốc tế về CDM (EB) công nhận là dự án CDM với tổng lượng khí nhà kính giảm được thông qua các dự án này vào khoảng 24,1 triệu tấn CO2 tương đương. Với kết quả đạt được nêu trên, nước ta được xếp thứ 7 trên thế giới về số lượng dự án CDM được EB công nhận và xếp thứ 8 trên thế giới (thứ nhất Đông Nam Á) về lượng CER được EB cấp cho các nước thực hiện dự án CDM với tổng lượng CER được cấp là 4.511.198 chứng chỉ.

Tiến tới thương mại hóa

Triển khai  thực hiện các dự án CDM không chỉ bảo vệ môi trường mà còn tạo nguồn  thu không  nhỏ  về  tài  chính. Các  dự  án CDM  giảm  phát  thải KNK  được  công  nhận  và  cấp chứng chỉ sẽ có thể trao đổi, mua bán thương mại trên thị trường như một sản phẩm hàng hóa với giá  trị  thu được khoảng 250  triệu USD. Trước đây,  các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng năng  lượng  chưa  có hiệu quả, việc ứng dụng năng lượng tái tạo chưa thực sự được quan tâm. Nhưng khi các nhà đầu tư đưa vào áp dụng các công nghệ hiện đại thì lượng chứng chỉ giảm phát thải được chứng nhận qua các dự án CDM ở Việt Nam sẽ tăng lên.
Riêng dự án thu hồi khí đốt đồng hành mỏ Rạng Đông đã  thu  được  khoảng  6,7  triệu  tấn CO2  tương  đương. Sau  khi được  kiểm  định  và  chứng nhận, chứng chỉ này sẽ chia sẻ với các nhà đầu tư công nghệ và Việt Nam qua các biên bản thoả thuận quốc tế về mua bán quyền phát thải. Với giá thành trung bình trên thế giới từ 8-10 USD/tấn CO2, lợi nhuận mà mỏ Rạng Đông thu được từ “khí thải” là không nhỏ. Việc  lập chương trình nghiên cứu, tính  toán phát thải trong giai đoạn từ năm 2010-2020 ở Việt Nam  đã  được  tập  trung  chủ  yếu  vào  khí CO2, CH4, NO2. Quá  trình  dự  toán  theo phương thức “từ dưới lên”, tổng hợp các thành phần từ các lĩnh vực phát thải chính là năng lượng,  công  nghiệp  và  giao  thông,  rừng  và nông  nghiệp.
Có thể nói, hình thức của các dự án CDM đã thực hiện ở Việt Nam và đa số các nước khác  là các tổ chức, cơ quan, công ty ở các nước phát triển, thông qua các công ty cung cấp công nghệ, tìm đến các nước đang phát triển, có tiềm năng giảm phát thải KNK để thực hiện dự án. Phía các nước phát triển đầu tư vốn, công nghệ giảm phát thải và nhận được “chứng chỉ giảm phát thải”, thực hiện cam kết giảm lượng khí nhà kính đã ký trong nghị định thư Kyoto.

Như vậy, thị trường buôn bán phát thải có thể nói đang ở tình trạng một chiều, nghĩa là người mua chủ động tìm đến những địa chỉ có tiềm năng cung cấp sản phẩm mà họ cần. Trong thời gian tới, sự phát triển về quy mô và chất lượng của thị trường sẽ thay đổi, và theo đó, hình thức buôn bán phát thải sẽ thay đổi theo hướng cân bằng hơn, nghĩa là các nhà cung cấp sản phẩm chủ động tìm đến người tiêu dùng.

Theo tin môi trường, vea.gov.vn

Rơm… đắt hơn lúa

Giá rơm 700.000 đ/sào nhưng vẫn không đủ để bán. Người mua rơm về cho bò ăn, mua về lót dưa hấu đi buôn, khiến rơm cháy hàng, có lúc bán được tới 1.000.000 đ/sào.

Những ngày qua, tại một số vùng nông thôn Phú Yên, người dân đổ xô ra đồng hỏi mua rơm khô về trữ làm thức ăn cho bò. Còn tư thương buôn dưa thì lái xe tải thẳng ra đồng tranh mua rơm, dẫn đến rơm đắt hàng.

Ra đồng mua rơm khô còn phải nhọc công phụ chủ ruộng bó lúa (Ảnh: nongnghiep.vn)

RƠM CÓ GIÁ HƠN LÚA

Những ngày lúa thu hoạch rộ, tại cánh đồng ở các xã An Định, An Dân (huyện Tuy An, Phú Yên), nhiều người dân quanh vùng đổ xô đến mua rơm.

Ông Trần Thanh Hùng, một người đi mua rơm cho hay: “Tôi ở xã An Hiệp đi xa gần 30 cây số lên đây mua rơm. Để mua được rơm phải nhọc công phụ chủ ruộng bó lúa vì không chỉ mình tôi mà trên các cánh đồng người mua rơm đi “đụng” đầu nhau hoài”.

Ông Trần Văn Sơn, ở xã An Nghiệp (Tuy An) cho biết: “Nhà tôi có 2 sào ruộng, vừa rồi 1 sào bị chín ép do thiếu nước tưới, cắt cho bò ăn non, còn lại 1 sào gặt xong đem rơm về nhà vun nọc trữ.

Nhà có 3 con bò, sợ sắp đến không đủ rơm cho bò ăn, vậy mà có người mua rơm ngoài đồng không thấy, đến tận nhà tôi hỏi mua nọc rơm. Giá rơm 700.000 đ/sào, trong xóm tôi nhiều gia đình canh tác 8- 10 sào, họ bớt 2 sào để trữ cho bò ăn, còn lại bán rơm sắm vàng”.

Rơm khô bán chạy hơn lúa (Ảnh: nongnghiep.vn)

Rảo ra đồng hỏi mua rơm, có người chịu bán, nhưng ông Nguyễn Tình, ở xã Hòa Phú (Tây Hòa) đành bỏ về vì số tiền người bán “thách” giá quá cao đến mức không tưởng tượng.

“Nhà có 4 con bò nhưng chỉ có 1 sào lúa. Nắng hạn, vụ hè thu đến sợ không có nước xuống giống gieo sạ lúa dẫn đến thiếu rơm trữ cho bò ăn nên tôi đi hỏi mua rơm.

Ban đầu bà con chỉ bán 700.000 đ/sào, nhưng gần đây mấy người chở dưa hấu lái xe tải chạy thẳng ra đồng hỏi mua rơm lót thùng vận chuyển dưa (hiện nay ở một số vùng nông thôn nông dân đang thu hoạch vụ dưa hấu trồng muộn).

Do rơm khan hiếm họ mua phá giá, lên đến 1 triệu đ/sào. Từ ngày cha sanh mẹ đẻ tôi mới thấy rơm đắt giá như vậy”, ông Tình nói.

Cũng chính vì rơm khan hiếm, tại xã Xuân Sơn Bắc (huyện Đồng Xuân) đã xảy ra tình trạng mất cắp rơm vào ban đêm.

Bà Nguyễn Thị Lan, ở xã Xuân Thọ 1 (TX Sông Cầu), buồn bã nói: “Ở quê tôi không có ruộng lúa nước, tôi xuống dưới này đặt hàng hỏi mua rơm từ khi lúa mới chín đỏ đuôi. Hôm qua gặt xong, máy phun rơm tại ruộng. Chiều tối không có xe chở, sáng ra tôi thuê xe đến nơi thì đống rơm to bằng cái nhà hôm qua giờ chỉ sót lại vài cọng”, bà Lan nói.

Cạnh đó ông Trương Bắc, cho hay hôm trước phun rơm xong, trời tối nên ông để lại tại ruộng. Nhà ở cạnh cánh đồng, nửa đêm nghe tiếng xe tải chạy ra ruộng, thấy thế ông theo ra, thấp thoáng bóng mấy người thanh niên hốt rơm ông hô hoán, họ thoát lên xe bỏ chạy.

RƠM KHÔ KHAN HIẾM

Theo thống kê của Sở NN-PTNT Phú Yên, đàn trâu bò toàn tỉnh hiện có gần 183.000 con. Tình hình nắng hạn đang diễn ra rất gay gắt, nguồn thức ăn gia súc cạn kiệt nên gây nhiều khó khăn cho người chăn nuôi.

Tại huyện miền núi Sơn Hòa, lần đầu tiên người trồng lúa bán 200.000 đ/sào rơm, trước đây rơm thường rải ra ruộng đốt. Sơn Hòa là “thủ phủ” của mía đường (gần 10.000ha mía), chính vì vậy ngoài chăn thả bò ngoài đồng ăn cỏ tự nhiên thì đọt mía là nguồn thức ăn cho bò.

Tuy nhiên, theo thống kê của Phòng NN- PTNT huyện Sơn Hòa, thời gian qua có 200ha mía bị đốt cháy, trụi lá dẫn đến đọt mía không có cho bò ăn.

Ông Trương Tấn Hòa, ở xã Sơn Phước cho hay, mấy năm trước đến mùa thu hoạch mía thì dùng ngọn mía cho bò ăn, nay mía cháy lá, đi hỏi mua rơm không có, gia đình bỏ công đi mót rơm khô vương vãi về cho bò ăn.

Ông Đào Duy Linh, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Sơn Hòa cho hay: Tổng đàn bò của huyện 20.130 con, trước tình trạng nắng hạn kéo dài nguồn thức ăn cạn kiệt, bò ốm mất sức đề kháng dẫn đến nguy cơ xảy ra dịch bệnh. Vì thế, người dân đổ xô đi mua rơm, nhưng đồng ruộng ở đây nhỏ nên rơm bán chạy hơn lúa.

Đối với người dân miền núi, nuôi bò là nguồn thu nhập chính, giúp không ít gia đình thoát nghèo. Thế nhưng thời gian qua nắng hạn nên cỏ khô, gốc rạ không còn, rơm không có, bò thiếu thức ăn dẫn đến gầy ốm, chết đói nhiều.

Mấy ngày qua, bà La Lang Thị Xinh (dân tộc thiểu số Chăm H’ Roi, ở xã Ea Bá, huyện Sông Hinh) sáng nào cũng lùa đàn bò gần 20 con vượt qua 2 cây số chăn thả vùng gò đồi, nơi trước đây trồng lúa 1 vụ thu hoạch rồi bỏ hoang. “Ngày nào cũng thả bò ăn qua ăn lại, riết không còn gốc rạ nào. Thiếu thức ăn bò mẹ ốm kiệt sức không đủ sữa nên nghé con mới sinh ra vài ngày là chết” – bà Xinh buồn rầu nói.

Theo La Hai, Nông nghiệp Việt Nam

Để công nghiệp than thân thiện môi trường

Là đối tượng chính trong chiến lược dịch chuyển nền kinh tế từ “nâu” sang “xanh” của tỉnh Quảng Ninh, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) nhận thức rõ ràng về vị trí và khối lượng công việc của mình cần phải đẩy mạnh trong thời gian tới…

Năng lượng Mới số 320

Thay đổi tư duy trong người lao động

Trên thực tế, môi trường vẫn là mối quan tâm thường trực của nhiều thế hệ lãnh đạo. Tuy nhiên, từ ý tưởng và quyết tâm của lãnh đạo đến thực hiện là cả một vấn đề. Điều này cực khó với một ngành “đông” quân như TKV, lên tới 12,5 vạn người lao động.

Ông Đoàn Văn Kiển, nguyên Chủ tịch HĐQT TKV từng tâm sự: Để một thương hiệu bay cao, để xã hội và nền kinh tế chấp nhận, thậm chí ủng hộ khuyến khích thì yếu tố bền vững phải được doanh nghiệp đặt lên hàng đầu. Lâu nay, khái niệm “xanh hóa” nền công nghiệp than đã không còn “mới” trong các buổi giao ban, hội nghị, hội thảo nữa rồi.

Chắc mọi người vẫn chưa quên cách đây 20-30 năm, những cung đường, những ngôi nhà mặt phố… ở Cẩm Phả, Uông Bí đen ngòm vì bụi than. TKV đã nhận trách nhiệm về vấn đề này. Tuy nhiên, với vai trò là đối tượng chính của thực trạng trên, Tập đoàn đã tích cực khắc phục và phối hợp cùng chính quyền địa phương giải quyết dứt điểm “hình ảnh” không mấy đẹp mắt.

Hệ thống phun sương trên đường vào mỏ than Hòn Gai

Dẫu vậy, ông Kiển cho rằng, trước hết phải xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân. “Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi trường; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường, đồng thời cần tạo bước chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ thể và đầu tư cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết quả bảo vệ môi trường cụ thể để đánh giá”, ông Kiển thể hiện quan điểm.

Mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp và vấn đề môi trường phát sinh nhiều thập niên qua đã tác động đáng kể cả về cách tiếp cận cũng như quan điểm quản lý. Đến những năm 90 của thế kỷ trước, phong trào áp dụng các công cụ quản lý môi trường trong quá trình sản xuất đã trở nên toàn diện hơn, ngành công nghiệp đã quan tâm hơn đến việc giảm nguyên liệu đầu vào trên một đơn vị sản phẩm nhằm giảm nhu cầu về nguyên liệu sản xuất. Vào những năm của thập niên 2000, với những chứng cứ xác đáng về nguyên nhân và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, công nghiệp phải đối mặt với việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính thông qua các chính sách tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo.

“Xanh hóa” từ đâu?

Ông Nguyễn Mạnh Điệp, Trưởng ban Môi trường – TKV khá tự tin với những biện pháp đồng bộ và đi vào thực chất các đơn vị trong Tập đoàn đang triển khai. Đáng chú ý có thể kể đến động tác tiến hành cải tạo các bãi thải, nhất là các bãi thải nằm trong lòng thành phố Hạ Long và từ QL 18 nhìn lên. Ông Điệp giải thích, giải pháp công nghệ tối ưu là cho cắt tầng để giảm độ dốc, đảm bảo an toàn cho bãi thải. Sau đó ổn định sườn bãi thải bằng nhiều cách, nhưng cách thành công nhất là sử dụng biện pháp sinh học, phủ xanh bãi thải bằng cỏ Vetiver vừa có tác dụng ngăn bụi vừa bảo vệ sườn bãi thải.

Cùng với biện pháp phủ xanh bãi thải, TKV còn xây dựng hệ thống mương dẫn nước tại các bãi thải để thu gom nước và xử lý trước khi thải ra môi trường và chống sạt lở bãi thải. Vấn đề bụi cũng khá nan giải trong khai thác, vận chuyển than. Giải pháp mà Tập đoàn thực hiện là chấm dứt vận chuyển than bằng ôtô trên QL 18A từ Đông Triều tới Mông Dương và Tỉnh lộ 337 Quảng Ninh; thay vào đó bằng các tuyến đường chuyên dụng, băng tải, đường sắt… và bắt buộc các lái xe khi vận chuyển than cắt qua quốc lộ hoặc ngang qua khu dân cư phải phủ bạt thùng xe.

Đối với hệ thống xử lý nước thải, hiện các mỏ than ở Quảng Ninh đã được áp dụng công nghệ hiện đại, từ hố lắng kết hợp sữa vôi đến phương pháp hóa – lý và lọc cơ học có áp lực. Các trạm xử lý nước thải thuộc thế hệ đầu tiên được áp dụng công nghệ bể lắng ngang, lọc áp lực là Hà Ráng, Hà Khánh, +260 và +320 Đồng Vông, +41 Lộ Trí, +131 Tràng Khê, Khe Chàm… Cùng đó, các trạm xử lý thế hệ thứ hai như: Cọc Sáu, Vàng Danh, Mạo Khê đã được áp dụng công nghệ tấm lắng nghiêng nhằm tăng tốc độ lắng, đồng thời hạn chế diện tích bể lắng sử dụng so với công nghệ bể lắng ngang. Nhờ những công nghệ mới có tính ưu việt nên các mỏ than ở Quảng Ninh ngoài lượng than được tận thu triệt để tăng 20-30% sản lượng so với công nghệ cũ thì còn giảm đáng kể ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp cho người lao động.

Năm 2009-2010, TKV giao cho một đơn vị thử nghiệm xây dựng hệ thống rửa xe ở hai đầu trước khi ra khỏi mỏ và trước khi rời khỏi cảng quay trở lại mỏ để giảm thiểu bụi. Tại các khu vực chế biến than, nhất là các khâu công nghệ trong nhà máy tuyển, trạm sàng trên mỏ, các trạm chuyển tải là những ổ bụi dễ phát tán; chúng tôi buộc các đơn vị phải đầu tư thiết bị phun sương, bê tông hóa nền các kho chứa than trên công trường, xây tường bao quanh và có lưới chống bụi. Tập đoàn cũng đã thành lập một đơn vị chuyên trách lo việc xử lý nước thải của các mỏ. Từ đó đến nay đã xây dựng và đưa vào gần 30 trạm xử lý nước thải, cải thiện một bước công tác xử lý nước thải. Để giảm thiểu bụi, ô nhiễm về nước trên bề mặt lâu dài tại các kho than, từ nay đến 2020, TKV sẽ di dời tất cả các kho than rải rác, nhỏ lẻ, số còn lại trên các bến cảng sẽ được quy hoạch lại, hiện đại hóa các cảng, chứa than trong xilô và vận chuyển tới cảng bằng băng tải để các tàu vào “ăn than”.

Ông Nguyễn Mạnh Điệp khẳng định, dù trong điều kiện khó khăn về tài chính, nhưng hiện tại TKV vẫn đầu tư khoảng 700 tỉ đồng mỗi năm cho công tác bảo vệ môi trường (BVMT), trong đó khoảng 60-70% dành cho các dự án sử dụng nguồn Quỹ Môi trường tập trung, phần còn lại sử dụng cho các công việc bảo vệ thường xuyên và các dự án BVMT của các đơn vị thành viên. Nhiều đơn vị thành viên của TKV đã lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và tổ chức quan trắc môi trường theo định kỳ.

Trong cam kết với tỉnh Quảng Ninh, hai bên đã thống nhất nhiều giải pháp về quản lý, khai thác, chế biến, vận chuyển than, chống gây ô nhiễm môi trường. Hiện tại, TKV đã xử lý xong nước thải hầm lò, đến năm 2015 cơ bản xử lý xong nước thải mỏ lộ thiên và đến 2020 cải thiện đáng kể môi trường tại Quảng Ninh. Đi cùng với nước thải là vấn đề bụi, vấn đề bãi thải và cảnh quan, xử lý chất thải nguy hại… Thực hiện mục tiêu này, Tập đoàn tiếp tục cải tạo các bãi thải cao và phủ xanh để đến năm 2015-2020 giải quyết xong vấn đề bãi thải mỏ. Lập hệ thống thu gom toàn bộ nước thải bề mặt và xử lý cùng với nước thải mỏ và tuần hoàn phục vụ sản xuất, sinh hoạt cho các mỏ.

“Hơn 50 năm qua, công nghiệp khai thác than đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP của đất nước cũng như Quảng Ninh. Tuy nhiên, do hầu hết các mỏ đều áp dụng hệ thống khai thác xuống sâu dọc một hoặc hai bờ công tác, đất đá chủ yếu được đổ ra bãi thải ngoài, cũng như sử dụng các loại thiết bị có công suất thấp nên đã làm ô nhiễm nguồn nước và đất đai quanh mỏ.

Nhờ những công nghệ mới có tính ưu việt nên năm qua các mỏ than ở Quảng Ninh ngoài lượng than được tận thu triệt để tăng 20-30% sản lượng so với công nghệ cũ thì còn giảm đáng kể ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Hy vọng, những công nghệ này sẽ được các doanh nghiệp ngành than cả nước áp dụng rộng rãi để mang lại hiệu quả kinh tế lớn và bảo vệ môi trường cho chính các doanh nghiệp và xã hội” – Phó bí thư, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Đức Long.

 

Theo Petrotimes.vn