13 quốc gia thảo luận về hành động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia

Cục Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp với Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) vừa tổ chức hội thảo khu vực về chia sẻ kinh nghiệm và một số kết quả thực hiện hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMA).

khi nha kinh

 Hội thảo thu hút hơn 60 đại biểu đến từ 13 quốc gia trong khu vực thuộc nhóm các nước đang phát triển bao gồm: Lào, Thái Lan, Indonesia, Cambodia, Bangladesh, Kazakhstan, Malaysia, Mongolia, Myanmar, Philippinnes, Skilanka, Tajikistan và Việt Nam, cùng với các nhà tài trợ của Quỹ môi trường liên hợp quốc (UNEP) và tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ)…

Khái niệm NAMA lần đầu được nhắc đến tại Kế hoạch hành động Bali (tại Indonesia, năm 2007) và sau đó được chính thức hoá trong “Thoả thuận Copenhagen 2009”. NAMA được hiểu như là một công cụ để các nước đang phát triển có thể thực hiện các biện pháp giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia và phát triển bền vững đất nước với sự hỗ trợ của các nước phát triển về kỹ thuật, tài chính và tăng cường năng lực.

Phát biểu tại hội thảo, ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu cho biết, Việt Nam đã nỗ lực, huy động nguồn lực trong nước và từ cộng đồng quốc tế, thực hiện công tác ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đã được thực hiện, tập trung vào thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Việt Nam đã xây dựng Báo cáo Quốc gia lần thứ hai và là một trong những quốc gia đầu tiên xây dựng Báo cáo cập nhật 2 năm một lần (BUR). Việt Nam đã thực hiện các hành động giảm nhẹ, bao gồm các NAMA trong lĩnh vực tích kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả, phát triển năng lượng tái tạo, bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Hiện Việt Nam có 253 dự án theo cơ chế phát triển sạch (CDM) được đăng ký, và giảm lượng phát thải khí nhà kính khoảng 140 triệu tấn CO2 tương đương.

Liên quan tới NAMA, với hỗ trợ của UNDP, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), các quốc gia Bắc Âu, Việt Nam đã và đang xây dựng NAMA trong các lĩnh vực bao gồm năng lượng, rác thải, công nghiệp. Các NAMA khác sẽ được tiếp tục xây dựng với sự hỗ trợ của các đối tác phát triển.

Tại hội thảo, các đại biểu cùng thảo luận các nội dung chính về lựa chọn giảm phát thải khí nhà kính và xây dựng NAMA của các quốc gia, các bộ công cụ phân tích như chu kỳ quản lý NAMA, hệ thống quản lý và thu thập dữ liệu; chia sẻ kinh nghiệm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong các lĩnh vực xây dựng, giao thông và việc sử dụng hiệu quả năng lượng, năng lượng tái tạo, MRV (đo đạc, báo cáo và thẩm định) trong lĩnh vực giao thông; các nguồn tài chính tiềm năng hỗ trợ xây dựng NAMA.

Theo monre.gov.vn

Hà Nội đã có tên trên bản đồ công nghiệp toàn cầu

60 năm sau ngày giải phóng Thủ đô, từ một thành phố với nền kinh tế lạc hậu, Thủ đô Hà Nội đã trở thành trung tâm công nghiệp (CN) lớn, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế cả nước, chuyển dịch theo hướng tiên tiến, hiện đại, công nghệ cao và phát triển bền vững.

KCN Hà Nội

Công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Hà Nội

Trung tâm công nghiệp lớn

Tiến sĩ Lê Hồng Thăng, Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội cho biết, đầu những năm 1960, CN Hà Nội chỉ có vài chục nhà máy xí nghiệp quốc doanh và vài trăm HTX thủ CN. Nhưng đến nay, tổng số DN CN hoạt động đã lên đến trên 10.000 DN với trên 700 nghìn lao động. Trong đó, có 500 DN đạt quy mô doanh thu trên 100 tỷ đồng/năm. Các hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng quốc tế của Mỹ, châu Âu, Nhật Bản… đã được các DN nắm bắt và ứng dụng mạnh mẽ, tạo ra bước đột phá mới trong quản lý điều hành.

Sản xuất CN Hà Nội đã phát triển trên 30 phân ngành với hàng nghìn loại sản phẩm, cơ cấu CN có sự thay đổi cả về quy mô lẫn chất lượng. Chủng loại mẫu mã đa dạng, phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Trong đó, đã hình thành các ngành thế mạnh như: thực phẩm, dệt may, hóa nhựa, cơ khí chế tạo, điện tử, công nghệ thông tin. Kim ngạch xuất khẩu của ngành CN giai đoạn 2008-2014 đạt bình quân 9 tỷ USD/năm, với mức tăng trưởng bình quân 15,25%/năm. “Đặc biệt, Hà Nội đã có tên trên bản đồ CN toàn cầu với tư cách là trung tâm sản xuất điện thoại, máy in, máy scan văn phòng, trung tâm lắp ráp xe máy lớn trên thế giới”, ông Thăng nhấn mạnh.

Hiện nay, ngành CN Hà Nội được phân bổ sắp xếp lại hợp lý theo quy hoạch đã được Chính phủ phê duyệt. Các nhà máy CN lớn trong khu vực nội đô di rời ra xa khu vực trung tâm, đồng thời, hình thành các khu CN chuyên ngành và khu CN công nghệ cao. Các khu CN Bắc Thăng Long, khu CN Nội Bài, khu công nghệ cao Hòa Lạc… được đánh giá là những điểm sáng khi thu hút đông đảo các DN CN cao đến từ các nước CN phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…..

Bên cạnh đó, Thủ đô Hà Nội cũng là trung tâm lớn của cả nước về CN hỗ trợ, lĩnh vực này chiếm tỷ trọng 25% giá trị sản xuất CN trên địa bàn, với sự tham gia của trên 1 nghìn DN. Gần đây, bằng việc trở thành nhà cung cấp linh phụ kiện cho những DN FDI lớn như Canon, Honda, Toyota… đã đưa một số DN CN hỗ trợ trên địa bàn thành phố tiến lên mắt xích cao hơn trong chuỗi giá trị CN toàn cầu.

Tập trung phát triển công nghệ cao

Theo tiến sĩ Lê Hồng Thăng, định hướng phát triển CN Hà Nội trong thời gian tới là trở thành trung tâm công nghệ cao của cả nước, phát triển công nghiệp gắn với khoa học công nghệ, các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm sản phẩm mới và văn phòng của các tập đoàn sản xuất lớn. Tạo nên các sản phẩm chất lượng và giá trị có khả năng cạnh tranh và đáp ứng tiêu chuẩn tiên tiến của các nước.

Theo đó, Hà Nội sẽ tập trung phát triển nhanh vào một số ngành, sản phẩm có tính dẫn đường, các ngành và sản phẩm công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, thiết kế chế tạo, cơ khí chính xác, thiết bị y tế, dược phẩm, hóa mỹ phẩm. Dự kiến, đến năm 2030, CN Hà Nội sẽ tập trung đa số là các DN khoa học công nghệ và các trung tâm nghiên cứu, thiết kế chế tạo.

Theo Sở Công Thương Hà Nội: Giá trị sản xuất công nghiệp TP. Hà Nội trung bình từ năm 2008 đến nay đạt khoảng 300 nghìn tỷ đồng/năm, trong đó riêng năm 2013 đã đạt hơn 400 nghìn tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 16,2%/năm.

Thực tế cho thấy, nhờ ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao, một số DN trên địa bàn Hà Nội thời gian qua đã có sự tăng trưởng ngoạn mục. Điển hình như: Công ty TNHH một thành viên Cơ khí Đông Anh với việc thực hiện dự án đầu tư dây chuyền đúc tự động Disamatic của Đan Mạch có công suất 10.000 tấn/năm đã mang lại hiệu quả quan trọng, đưa công ty trở thành nhà sản xuất và cung cấp bi nghiền hợp kim đúc chịu mài mòn chất lượng cao lớn nhất trong nước, góp phần thay thế 100% bi nhập ngoại cho một số ngành công nghiệp như xi măng, nhiệt điện và xuất khẩu mỗi năm hơn 2.000 tấn cho các thị trường nước ngoài. Hay Công ty Nhựa Hà Nội nhờ đầu tư công nghệ hiện đại chế tạo các thiết bị nhựa dùng trong CN ô tô nên sản phẩm của công ty đã được nhiều DN lớn tại Việt Nam như Honda, Toyota… ưa chuộng và xuất khẩu cho một số tập đoàn Nhật Bản…/.

Theo ven.vn

Trợ giá năng lượng vào túi “nhà giàu”

Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cho rằng chính sách trợ giá nhiên liệu hóa thạch tại Việt Nam không mang lại lợi ích cho người nghèo mà thật ra là “rót” vào tập đoàn lớn. Đây là nhận định trong báo cáo “Tăng trưởng xanh và chính sách tài khóa về nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam – Các kiến nghị về lộ trình cải cách chính sách” vừa được tổ chức này công bố.

Trợ giá 1,2 – 4,5 tỉ USD/năm

Theo tính toán của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), trong giai đoạn 2007-2011, trợ giá nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam dao động từ 1,2-4,49 tỉ USD/năm, tương ứng với tỉ lệ trợ giá trung bình là 15,5% (khoảng 46,7 USD/người/năm).

EVN là một trong những doanh nghiệp được hưởng giá đầu vào than và khí đốt trong nước thấp hơn nhiều giá thị trường thế giới. Trong ảnh: Thi công lưới điện trên đường Thoại Ngọc Hầu, quận Tân Phú, TP HCM (Ảnh: Tấn Thạnh/nld.com.vn)

EVN là một trong những doanh nghiệp được hưởng giá đầu vào than và khí đốt trong nước thấp hơn nhiều giá thị trường thế giới. Trong ảnh: Thi công lưới điện trên đường Thoại Ngọc Hầu, quận Tân Phú, TP HCM (Ảnh: Tấn Thạnh/nld.com.vn)

Phần lớn trợ giá nhiên liệu hóa thạch ở Việt Nam là gián tiếp dưới nhiều dạng cung cấp khác nhau cho các nhà sản xuất và phân phối năng lượng, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Ví dụ, các DNNN nhận được tín dụng lãi suất thấp cho hoạt động đầu tư và đầu vào giá rẻ như đất đai và than. Thế nhưng, các tập đoàn năng lượng lớn hiện nay sử dụng nguồn tài chính trợ giá không chỉ để đầu tư vào năng lượng mà còn đầu tư ngoài ngành. Chẳng hạn, theo báo cáo 6 tháng đầu năm 2014 của Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), tổng vốn đầu tư ngoài ngành trên 500 tỉ đồng vào các ngành ngân hàng và chứng khoán hay vốn của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thời gian qua cũng “mắc kẹt” trong các dự án bất động sản…

Dân gánh chịu

Trợ giá nhiên liệu hóa thạch tại Việt Nam chủ yếu cho than đá và các nhiên liệu sử dụng cho phát điện. EVN được hưởng giá đầu vào than và khí đốt trong nước thấp hơn nhiều giá thị trường thế giới. Giá than bán cho các nhà sản xuất điện chỉ bằng khoảng 60% giá xuất khẩu và bằng 70% chi phí sản xuất năm 2012. Đến năm 2013, giá than bán cho phát điện đã đủ bù đắp chi phí sản xuất nhưng vẫn thấp hơn giá thị trường thế giới. Than và khí đốt vẫn là năng lượng phát điện chủ yếu. Hai nhiên liệu này do Vinacomin và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sản xuất nên  cuối cùng, Chính phủ và người dân phải gánh chịu các chi phí đó cũng như các chi phí cơ hội của các khoản trợ giá gián tiếp này.

Mặt khác, các DNNN chi phối thị trường năng lượng, do vậy khi buộc phải hạ thấp lợi nhuận hoặc thua lỗ do chính sách giá trần cũng như hoạt động không hiệu quả, họ rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Chính phủ (và người đóng thuế) không những mất đi thu nhập kinh doanh mà còn phải bù lỗ. Theo các số liệu chính thức, trong năm 2012, tổng số nợ của 3 tổng công ty năng lượng lớn gồm EVN, Vinacomin và Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam lên tới 315.693 tỉ đồng(tương đương 15 tỉ USD), chiếm 1/4 tổng số nợ của tất cả DNNN ở Việt Nam.

Kìm hãm tăng trưởng xanh

Trợ giá nhiên liệu hóa thạch ngày càng được cộng đồng quốc tế thừa nhận là kìm hãm tăng trưởng xanh và giảm thiểu cường độ năng lượng của nền kinh tế. Các khoản trợ giá kìm hãm sử dụng các nguồn năng lượng sạch, khuyến khích tiêu thụ lãng phí nhiên liệu hóa thạch cũng như cột chặt các nước trong các phương thức phát triển kinh tế sử dụng nhiều năng lượng và từ đó có thể làm cho họ trở nên không thể cạnh tranh khi giá năng lượng tăng theo thời gian.

Theo bà Pratibha Mehta, điều phối viên thường trú của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam, để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh và tiến tới một quỹ đạo tăng trưởng bền vững, việc cải cách chính sách tài khóa nhiên liệu hóa thạch đòi hỏi phải cải cách ngành năng lượng một cách tổng thể, bao gồm giá năng lượng và chiến lược truyền thông để tham vấn, kêu gọi sự ủng hộ trên diện rộng đối với cải cách. Đặc biệt, cần có các biện pháp để bảo vệ người nghèo và dễ tổn thương cũng như các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhất từ việc tăng giá năng lượng. Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) cũng đề xuất lợi ích của cải cách trợ giá có thể được khuếch đại bằng việc đưa vào giá carbon thông qua thuế hoặc kinh doanh hạn ngạch carbon.

Vinacomin lại xin giảm thuế, phí

Vinacomin vừa kiến nghị Chính phủ xem xét cho tập đoàn này được vay vốn từ nguồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, một phần vốn ODA, vốn trái phiếu Chính phủ để đầu tư phát triển ngành than. Cụ thể, Vinacomin kiến nghị Chính phủ bảo lãnh vay vốn nước ngoài do tập đoàn hiện nay không có đủ phần vốn đối ứng từ 20%-30% để thực hiện vay đầu tư phát triển các mỏ mới. Vinacomin cũng cho rằng các loại thuế, phí đối với sản xuất than rất cao trong khi điều kiện khai thác ngày càng khó khăn làm cho giá thành than tăng cao. Vì thế, kiến nghị Chính phủ xem xét, điều chỉnh giảm thuế, phí đối với tài nguyên than.

Theo Minh Khanh/nld.com.vn

Khởi động chương trình kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Hà Nội (SME Hanoi 2014)

30 doanh nhân trẻ xuất sắc sẽ được cố vấn và chia sẻ kinh nghiệm từ các chuyên gia kinh tế, giám đốc doanh nghiệp từ những tập đoàn lớn của Việt Nam trong khoảng thời gian 6 tháng từ 10/2014 đến 3/2015 trong khuôn khổ chương trình kết nối và hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Hà Nội (SME Hanoi 2014).

 Poster của chương trình (Ảnh: BTC cung cấp)

Được biết, Dự án “Kết nối và Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ” (SME Networking and Mentoring) là dự án phi lợi nhuận, chính thức ra đời vào tháng 11/2011 dưới sự bảo trợ của Đại sứ quán Hoa Kỳ.

 Mục tiêu của chương trình là cầu nối tập hợp và tạo cơ hội cho các startup trẻ giao lưu và học hỏi từ những doanh nhân thành đạt đi trước thông qua hình thức cố vấn truyền thụ. Đồng thời, SME cũng xây dựng được một mạng lưới các các doanh nhân và chuyên gia sẵn sàng chia sẻ bài học, tư vấn khó khăn cũng như hợp tác để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp ở Việt Nam và tăng khả năng thành công và mức độ cạnh tranh cho các DNVVN.

Bốn hoạt động hấp dẫn và thiết thực mà chương trình mang đến cho những người tham gia bao gồm: Group café; SATUS café; Company visit và Networking event. Thông qua các hoạt động, doanh nghiệp có thể chia sẽ những vướng mắc, tìm kiếm giải pháp cho các vẫn đề hiện tại, truyền lửa kinh doanh, thiết lập mối quan hệ hợp tác lâu dài, từ đó giúp doanh nghiệp phát triển bền vững và mang đến những đóng góp tích cực cho cộng đồng.

Ban cố vấn của SME Hanoi năm nay đến từ các doanh nghiệp, tập đoàn lớn như Le Bros, Eurowindow, Vietsoftware, Goldsun, CMC, Citibank Việt Nam… Các lĩnh vực xuất hiện trong chương trình năm nay rất đa dạng, từ sản xuất chế biến, vận tải, tài chính, công nghệ, xây dựng đến các ngành sáng tạo như truyền thông, du lịch, giáo dục.

SME Hà Nội đã bắt đầu nhận đơn đăng ký và hạn nộp cuối là trước ngày 22/10/2014. Đối tượng tuyển chọn là các DNVVN của Việt Nam, thuộc tất cả các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, đã đi vào hoạt động không quá 5 năm và có đam mê, nhiệt huyết sẵn sàng học hỏi kĩ năng kinh doanh và có phát triển cá nhân.

Theo dangcongsan.vn

Xã “năng lượng mới”

Ngoài hệ thống biogas, xã ven biển này còn sử dụng bình nước nóng năng lượng mặt trời, đèn bão năng lượng mặt trời, đèn LED tiết kiệm điện và trang bị hệ thống lọc nước công nghệ RO cho người dân
Story
Hệ thống xử lý RO cung cấp nước uống cho người dân xã Nam Cường

Một xã nông thôn “sinh sau đẻ muộn” nằm ven biển của huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình nhưng lại được sử dụng tích hợp khá nhiều mô hình năng lượng mới – một điều mà ngay cả các đô thị hiện đại ở Việt Nam cũng khó thực hiện. Cũng như lịch sử hình thành vùng đất lấn biển khai hoang này, xã Nam Cường tiếp tục “khai khẩn” triệt để các nguồn năng lượng tự nhiên cho đời sống, sản xuất.

Tự cung, tự cấp

Ngoài việc hỗ trợ các hộ dân chăn nuôi nhỏ lẻ tự lắp đặt hệ thống biogas sử dụng trong gia đình, từ năm 2012, xã Nam Cường đã triển khai mô hình biogas cộng đồng. Với sự hỗ trợ của nhiều đơn vị trong và ngoài nước, xã đã xây dựng một đường ống dẫn khí gas (gồm máy hút đẩy khí và hệ thống các van tự động, an toàn) nối từ trang trại chăn nuôi heo của ông Trần Sinh Bảo dẫn đến tận nhà 25 hộ dân thôn Hoàng Môn và đồn biên phòng Cửa Lân, cung cấp gas miễn phí.

Ông Bảo cho biết trang trại mỗi năm nuôi 2 lứa heo, khoảng 2.400 con/lứa. Ngày trước, phân thải ra được dẫn vào bể lắng, phần mùn cho người dân lân cận sử dụng, nước được xử lý và xả ra sông vẫn không tránh khỏi tình trạng ô nhiễm. Năm 2012, được sự hướng dẫn từ một số tổ chức và sự khuyến khích của chính quyền xã, ông Bảo đầu tư 200 triệu đồng xây dựng hệ thống biogas vừa phục vụ người dân vừa cải thiện môi trường trang trại. Với bể chứa gần 5.000 m3, lượng gas có thể đủ dùng cho khoảng 100 hộ. Chị Trần Thị Lý, một trong những hộ dân được hưởng thụ lợi ích của mô hình này, cho biết trước kia, gia đình chị dùng than rồi bình gas, mỗi tháng tốn khoảng 150.000 – 200.000 đồng nhưng từ khi có hệ thống biogas, chị chỉ tốn 25.000 đồng/tháng để đóng tiền điện bơm gas. Theo các chuyên gia, hiện trên thị trường đã có hệ thống khử mùi dùng cho hộ gia đình với giá khoảng 500.000 đồng, người dân lắp thêm hệ thống này có thể sử dụng biogas thoải mái hơn.

Trường mầm non của xã Nam Cường cũng được trang bị hệ thống biogas. Bà Trần Thị Hoa, hiệu trưởng, cho biết tất cả chất thải và thức ăn thừa hằng ngày đều dồn xuống hệ thống với hầm chứa dung tích 16 m3. Hệ thống biogas đã cơ bản cung cấp đủ gas sinh hoạt cho trường mà môi trường lại trong lành. Theo bà Hoa, ước tính trung bình mỗi ngày giảm được 10.000 đồng tiền nhiên liệu so với trước kia. Bên cạnh hệ thống biogas, trường mầm non này còn được trang bị hệ thống bình nước nóng năng lượng mặt trời để tiết kiệm nhiên liệu đun nấu và thân thiện hơn với môi trường.

Tiết kiệm và bền vững

Ông Bùi Xuân Tiến, Phó Chủ tịch UBND xã Nam Cường, cho biết trang trại lớn là một trong những mô hình kinh tế chủ lực của xã nhưng xử lý chất thải lại là một vấn đề đau đầu. Hầu hết người dân trong xã đều dùng than và củi làm nhiên liệu đun nấu. Số tiền chi cho việc sử dụng nhiên liệu và năng lượng chiếm đến 10% thu nhập bình quân của người dân. Vì thế, với sự giúp sức của nhiều tổ chức, xã đã xây dựng kế hoạch sử dụng năng lượng ở địa phương, trong đó hệ thống biogas được xem như lời giải hài hòa cho bài toán năng lượng và môi trường. “Để thuyết phục người dân và xây dựng một hệ thống ống dẫn gas từ bên này sông qua bên kia sông thật chẳng dễ dàng gì. Nhưng với quyết tâm của xã và sự giúp đỡ nhiệt tình của các tổ chức, chúng tôi đã lắp đặt được hệ thống ống dẫn dài hơn 1,2 km. Hiệu quả của mô hình đã thuyết phục được người dân, do vậy chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng” – ông Tiến khẳng định.

Theo ông Hoàng Ngọc Sang, Chủ tịch UBND xã Nam Cường, hệ thống biogas không chỉ bớt ô nhiễm, giảm chi tiêu cho người dân mà còn củng cố mối quan hệ đoàn kết giữa các hộ dân. Ông Sang cho biết để khuyến khích người dân sử dụng biogas, từ năm 2015, xã có kế hoạch hỗ trợ cho mỗi hộ lắp đặt 1 triệu đồng. Không chỉ biogas, nhiều giải pháp năng lượng tái tạo khác cũng đang được sử dụng và nhân rộng tại xã Nam Cường: bình nước nóng năng lượng mặt trời (hiện có 16 hộ sử dụng, mỗi hộ được hỗ trợ 2 triệu đồng tiền lắp đặt), đèn bão năng lượng mặt trời, đèn LED tiết kiệm điện… Đến nay, hơn 50% dân số của xã đã được tiếp cận và sử dụng các giải pháp năng lượng mới và xã Nam Cường tiếp tục duy trì mục tiêu sử dụng tiết kiệm và bền vững các nguồn năng lượng.

Uống chung nguồn nước
Từ năm 2012, UBND xã Nam Cường đã sử dụng hệ thống lọc công nghệ RO để cung cấp nước uống trực tiếp cho người dân. Hệ thống gồm 4 máy lọc nước công suất 150 lít/giờ/máy cung cấp nước uống trực tiếp cho gần 3.500 người toàn xã, bán giá 5.000 đồng/20 lít, miễn phí sử dụng đối với trường mầm non, trạm y tế. 
Điện vận hành hệ thống lọc nước lấy từ dàn pin năng lượng mặt trời đặt trên nóc trụ sở UBND xã. Dàn pin này có công suất 1,5 KW nên vẫn bảo đảm nguồn nước cả khi mất điện. Hiện tại, chất lượng nước rất ổn định và được kiểm soát qua hệ thống theo dõi, ghi chép hằng ngày của xã.
Theo nld.com.vn

Bầu khí quyển hứng 1.000 tấn C02 từ con người trong 40 năm

Thế giới chỉ còn “rất ít thời gian” để đạt mục tiêu giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2 độ C, ngoài ra cần giảm lượng khí phát thải CO2 từ 40-70% từ năm 2010 đến 2050, tiến tới xuống mức 0% vào năm 2100.

Đó là một số nội dung trong báo cáo tổng hợp đánh giá về thực trạng biến đổi khí hậu toàn cầu trong 7 năm qua do Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) công bố ngày 2/11 tại Copenhagen, Đan Mạch.

Báo cáo khẳng định thế giới đang trong tình trạng nóng lên toàn cầu và phần lớn là do lỗi của con người.

Kể từ cuộc Cách mạng công nghiệp năm 1750 đến nay, con người đã thải ra gần 2.000 tỷ tấn CO2 vào không khí, trong đó có đến một nửa lượng khí này thải ra trong 40 năm vừa qua.

Lượng khí CO2, methane hiện đang ở mức cao nhất trong ít nhất 800.000 năm qua. Một số tác động hiện đã được ghi nhận rõ như nước biển dâng cao, tăng 19cm từ năm năm 1901 đến 2010, ngoài ra nước các đại dương ấm hơn và có nồng độ axít cao hơn, cũng như tình trạng tản chảy của các sông băng vĩnh cửu và Bắc Băng Dương.

Biện pháp cấp bách để giảm nhẹ tác động của tình trạng theo IPCC đề xuất là hạ mức khí thải, tối ưu nếu xuống 0% ngay trong thế kỷ này.

hân loại cần phải nỗ lực để ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu. (Ảnh: www.thinkglobalgreen.org)

Phân loại cần phải nỗ lực để ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu. (Ảnh: www.thinkglobalgreen.org)

Bên cạnh đó bản báo cáo cũng đưa ra những hy vọng trong cuộc chiến đối phó với biến đổi khí hậu.

Chủ tịch IPCC Rajendra Pachauri khẳng định thế giới có đầy đủ phương tiện để hạn chế biến đổi khí hậu mà không ảnh hưởng đến phát triển kinh tế và nhân đạo.

Trước hết, cần chấm dứt xu hướng sử dụng quá nhiều dầu mỏ, than và khí đốt trong ngành năng lượng toàn cầu, đây là nguồn phát thải khí CO2 trực tiếp vào bầu khí quyển.

Theo IPCC, đến năm 2030, cần tập trung đầu tư vào các nguồn năng lượng ít khí thải CO2, cũng như phát triển các phương tiện giao thông, công nghiệp và các tòa nhà tiết kiệm năng lượng, cho dù định hướng đó sẽ cần đến hàng trăm tỷ USD đầu tư mỗi năm.

IPCC cũng chú trọng đến dự án thử nghiệm tách CO2 khỏi lượng khí thải của các nhà máy trước khi lượng khí này đi vào bầu khí quyển.

IPCC do Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) thành lập năm 1988.

IPCC chuyên cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những đánh giá định kỳ mang tính khoa học liên quan biến đổi khí hậu, tác động của tình trạng này, các nguy cơ trong tương lai, cũng như các phương án để thích nghi và giảm nhẹ hậu quả của tình trạng biến đổi khí hậu.

Theo TTXVN, 02/11/2014