Posts

Cuộc cách mạng hydro: Những trở ngại lớn

Hydro đóng một vai trò không thể thiếu trong một hệ thống năng lượng tương lai không có carbon. Nhưng các kịch bản cho thấy tỷ trọng của nó trong năng lượng vào năm 2050 khác nhau đáng kể.

Cho dù kết quả cuối cùng có thể là gì, những người theo dõi ngành công nghiệp hiện nay phần lớn đồng ý rằng có 2 lĩnh vực mà chi phí phải giảm xuống để tăng trưởng hydro không có carbon.

Hai lĩnh vực đó là: Chi phí năng lượng tái tạo, vốn là đối tượng giảm đáng kể trong thập kỷ qua, phải tiếp tục giảm. Và chi phí điện phân nước để sản xuất hydro, bao gồm phần cứng cơ bản của hydro xanh, máy điện phân phải đi theo một con đường tương tự cho phí thấp xuống.

Nhiều người thấy cả hai đã sẵn sàng xảy ra. Nhưng trên thực tế, đó là hai mảng có liên quan không thể tách rời, với chi phí vận hành và chi phí vốn được tính vào tổng chi phí vận hành máy điện phân.

Sự sụt giảm của giá điện tái tạo dự kiến ​​sẽ tiếp tục, với việc tăng tốc triển khai năng lượng tái tạo vào lưới điện. Nhưng chi phí vốn cũng phải giảm, với thiết bị điện phân được sản xuất nhanh hơn và ít tốn kém hơn.

Trong khi giá điện mặt trời đã giảm khoảng 90% trong 10 năm qua, nó cần phải giảm thêm nữa và các chính phủ tỏ ra quyết tâm giúp đỡ. Ví dụ, vào tháng 3, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE) đã công bố mục tiêu của mình rằng chi phí năng lượng mặt trời quy mô tiện ích giảm hơn một nửa trong 10 năm, từ mức giá hiện tại là 4,6 cent cho mỗi kilowatt-giờ (kWh) xuống còn 3 cent/kWh vào năm 2025 và 2 cent/kWh vào năm 2030.

DOE đã công bố một loạt các dự án R&D và vốn hạt giống cho quang điện cải tiến (perovskites, màng mỏng) và điện mặt trời tập trung (CSP) để đạt được hiệu suất cao hơn và chi phí thấp hơn.

Chi phí của công nghệ điện phân cũng đang giảm, với những cải tiến về thiết kế để đạt hiệu quả cao hơn. Các đơn vị kiềm cải tiến đang được triển khai ngay cả khi người mua đang ngày càng chuyển sang sử dụng các máy điện phân màng trao đổi proton (PEM) hiệu quả cao hơn. Trong khi đó, công nghệ đang tiến bộ cho các tế bào điện phân oxit rắn (SOEC), hứa hẹn sẽ đạt được hiệu suất rất cao từ nhiệt đầu vào cao, từ các nguồn nhiệt công nghiệp và có khả năng từ các lò phản ứng hạt nhân.

Câu hỏi đặt ra bây giờ là liệu điện phân nước để sản xuất hydro có thể tuân theo đường cong chi phí giảm ngẫu nhiên mà điện mặt trời đã tuân theo trong 10 năm qua hay không?

Điều quan trọng là phải tiếp tục giảm chi phí, vì hydro điện phân sẽ phải cạnh tranh với “hydro xanh” được sản xuất bằng khí tự nhiên và thu giữ carbon, hiện đã ít tốn kém hơn. Thành công sẽ dẫn đến việc người ta hy vọng sẽ áp dụng rộng rãi thứ mà những người ủng hộ gọi là “Chén thánh” của hydro, là hydro điện phân được sản xuất bằng điện tái tạo (tức là hydro “xanh”).

Bảo Vy
https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/cuoc-cach-mang-hydro-nhung-tro-ngai-lon-612770.html

Nezzy – turbine điện gió đặc biệt nhất thế giới

Mùa thu năm 2020, turbine điện gió nổi trên nước mang tên “Nezzy2” đã được thử nghiệm trong 2 tháng rưỡi tại Vịnh Greifswald, biển Baltic. Công trình này có điểm đặc biệt gồm 2 cột buồm và sáu cánh quạt.

Turbine Nezzy2

Một nguyên mẫu dài 18 mét

Cấu trúc turbine gió nổi trên mặt nước “Nezzy2” do nhóm EnBW và Aerodyn (Đức) thiết kế bao gồm 2 turbine gió “được sắp xếp theo hình chữ Y và gắn vào cùng một phao”. Phao sẽ được giữ chìm một phần và được neo vào đáy biển bằng 6 dây xích.

Theo các nhà thiết kế, turbine gió đôi độc đáo này có thể “tự động điều chỉnh theo hướng gió” bằng cách “tăng gấp đôi năng suất trên mặt nước”. Ngoài ra, “điểm tiếp gió của turbine thấp hơn nhiều so với chỉ một turbine lớn duy nhất” – điều này mang lại cho mô hình “tính ổn định cao hơn trên mặt nước”. Nhưng nó cũng không đón được các luồng gió mạnh hơn như các turbine đơn cổ điển ngoài khơi.

Từng chiếc turbine đơn trong bộ đôi turbine gió của nguyên mẫu “Nezzy2” cao 18 mét (tỷ lệ 1:10 so với dự án hoàn thiện) được thử nghiệm ở biển Baltic với một rotor có đường kính 15m. Trong giai đoạn thử nghiệm, cấu trúc turbine được trang bị 180 cảm biến để đo đạc chuyển động của nó khi “tiếp xúc với các hướng và tốc độ gió khác nhau cũng như độ cao và hướng sóng khác nhau”.

Các cuộc thử nghiệm tại Trung Quốc “cuối năm 2021 hoặc đầu năm 2022”

Nhóm EnBW cho biết các cuộc thử nghiệm thực hiện vào mùa xuân 2020 tại biển Baltic đã thành công. Nguyên mẫu turbine được đặt trong điều kiện sóng và gió hoàn toàn khắc nghiệt, đối mặt với một cơn bão lớn vào giữa tháng 10/2020. Nhóm nghiên cứu cho biết : “Quy mô kích thước khi hoàn thiện của Nezzy2 có thể chịu được điều kiện sóng và gió tương đương với một cơn bão cấp 4 đến cấp 5 với những con sóng cao tới 30 mét”.

EnBW và Aerodyn hiện muốn thử nghiệm mô hình Nezzy2 ở mức 15MW. Các cuộc thử nghiệm sắp tới theo lịch trình hiện tại sẽ được lên kế hoạch tại Trung Quốc vào cuối năm 2021 hoặc đầu năm 2022.

Tập đoàn EnBW của Đức thông báo muốn đầu tư 5 tỷ euro vào năng lượng tái tạo từ nay đến năm 2025, đặc biệt dựa vào năng lượng gió ngoài khơi (chủ yếu thông qua công ty con Valeco của Pháp mà tập đoàn mua lại vào năm 2019).

Nh.Thạch/AFP
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/nezzy-turbine-dien-gio-dac-biet-nhat-the-gioi-606024.html

Làn sóng năng lượng tái tạo “trỗi dậy” ở Thái Lan

Công suất năng lượng tái tạo (NLTT) ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương được dự báo sẽ tăng thêm hai triệu megawatts trong thập kỷ tới. Đông Nam Á sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng đó với dự kiến nhu cầu điện tăng gấp đôi vào năm 2040.

Tiềm năng phát triển NLTT ở Thái Lan

Thái Lan hiện có công suất lắp đặt NLTT trên 15 GW, đóng góp khoảng một phần ba tổng lượng điện năng, và dự báo sẽ tăng lên 63 GW chiếm 39% thị phần vào năm 2030 để trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về NLTT.


Cơ quan phát điện Thái Lan cho biết dự án lắp đặt điện mặt trời nổi với công suất 45 megawatt trong hồ chứa của đập Sirindhorn ở Ubon Ratchathani sẽ là công trình lớn nhất thế giới khi hoàn thành vào tháng 6 năm nay.

Thái Lan có nguồn NLTT lắp đặt tương đối đa dạng, không phụ thuộc vào một nguồn phát điện chính như thủy điện hoặc năng lượng mặt trời như nhiều nước láng giềng trong khu vực. Thủy điện tính đến năm 2019 đóng góp 30% công suất NLTT hiện có, điện mặt trời 28%, sinh khối 27% và gió 15%.

Sự đa dạng này mang lại cơ hội lớn để tận dụng các lợi ích chi phí từ nhiều công nghệ tái tạo. Tốc độ tăng trưởng gần đây tập trung vào công nghệ điện gió và điện mặt trời, đạt tỷ lệ ấn tượng hàng năm lần lượt là 89% và 83% trong thập kỷ qua.

Điện mặt trời mang lại cơ hội rõ ràng nhất cho sự phát triển năng lượng tái tạo, được thúc đẩy bởi Kế hoạch Phát triển Điện lực quốc gia với mục tiêu đạt 15,6 GW công suất lắp đặt vào năm 2037.

Thái Lan đã và đang tiên phong với việc thí điểm mua bán điện mặt trời ngang hàng sử dụng nền tảng blockchain.

So với năng lượng điện mặt trời, điện gió có tương lai ít chắc chắn hơn dù đạt mức tăng trưởng ấn tượng trong những năm gần đây với các mục tiêu của Chính phủ ít tham vọng hơn.

Sinh khối và thủy điện đều có những đóng góp quan trọng vào bức tranh NLTT hiện tại của Thái Lan, nhưng không có khả năng trở thành những ngành trọng tâm. Sinh khối không cạnh tranh về chi phí so với năng lượng mặt trời và gió.

Thủy điện được quản lý bởi Cơ quan Phát điện Thái Lan (Egat) và cũng được bảo vệ bởi các luật và quy định nghiêm ngặt. Mặc dù điều đó là quan trọng để đảm bảo hiệu quả kinh tế và xã hội cho các dự án thủy điện, nhưng lại khiến các cơ hội trở nên kém hấp dẫn đối với những nhà đầu tư.

Giải pháp

Thái Lan được xếp hạng thứ 21 trên toàn cầu về Chỉ số Thuận lợi Môi trường Kinh doanh (Ease of Doing Business Index) của Ngân hàng Thế giới. Tuy nhiên để khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực NLTT còn nhiều việc phải làm.

Tự do hóa hơn nữa hệ thống điện của Thái Lan sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi, giúp nước này đạt được kế hoạch tăng 50% tổng công suất sản xuất trong Kế hoạch Phát triển Điện lực quốc gia.

Tự do hóa sẽ giúp đưa ra các quy định tạo điều kiện và cởi trói cho các doanh nghiệp ngành điện, được hỗ trợ bởi một thị trường bán buôn và bán lẻ cạnh tranh sẽ là động lực quan trọng thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển công nghệ NLTT nhanh chóng và toàn diện hơn.

Công nghệ lưu trữ năng lượng cũng là một lĩnh vực quan trọng đang tạo ra nhiều cơ hội. Phát triển các hệ thống lưu trữ năng lượng có tác dụng bổ sung cho quá trình sản xuất năng lượng tái tạo không liên tục là một trong những lĩnh vực hấp dẫn được các công ty năng lượng như Egat và Global Power Synergy Plc quan tâm. Ngân hàng Phát triển Châu Á năm 2020 đã dành khoản đầu tư đầu tiên cho khu vực tư nhân trị giá 7 triệu USD để phát triển công nghệ lưu trữ pin kết hợp với điện gió quy mô lớn.

Có thể nói, việc thúc đẩy NLTT ở Thái Lan thể hiện nỗ lực của quốc gia nhằm đạt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính (GHG) xuống 20,8% dưới mức kịch bản kinh doanh thông thường (business-as-usual) vào năm 2030.

Với môi trường đầu tư thân thiện và mục tiêu phát triển bền vững rõ ràng, cùng các giải pháp như trên, làn sóng năng lượng tái tạo hứa hẹn sẽ sớm đưa Thái Lan trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về NLTT.

Nhật Linh/Theo Bangkokpost
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/lan-song-nang-luong-tai-tao-troi-day-o-thai-lan-605440.html

Triển vọng điện mặt trời áp mái tại Australia

Lần đầu tiên trên thế giới xuất hiện lưới điện mặt trời cho diện tích hơn 1 triệu km2. Vào ngày 11-2-2021, lần đầu tiên toàn bang Nam Australia được cung ứng 100% điện mặt trời trong 2 giờ đồng hồ.

Mạng lưới điện mặt trời của Australia trải dài dọc theo bờ biển phía Đông và Đông Nam, đi từ thành phố Cairns ở phía Bắc đến Adelaide ở phía Nam, qua các thành phố Brisbane, Sydney, Melbourne và thủ đô Canberra. Đây là một trong những mạng lưới điện dài nhất thế giới do thị trường điện quốc gia Australia (NEM) quản lý.

Ban Nam Australia có diện tích gấp đôi nước Pháp, dân số chưa đầy 2 triệu người tập trung phần lớn tại thủ phủ Adelaide. Bang Nam Australia kết nối với lưới điện quốc gia bằng hai đường dây cao thế, cho phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu năng lượng tùy theo nhu cầu địa phương.

Australia là quốc gia sản xuất điện năng phát thải nhiều carbon nhất trên thế giới do có nguồn than dồi dào, được sử dụng rộng rãi trong các nhà máy điện xung quanh hai thành phố Melbourne và Sydney. Tuy nhiên, khu vực Nam Australia lại khác, tại đây, bên cạnh các nhà máy nhiệt điện khí còn có các turbine điện gió và các tấm pin điện mặt trời.

Kỳ tích về điện mặt trời

Sản xuất điện mặt trời hiện đang được phát triển mạnh mẽ ở Nam Australia với 3 nhà máy có tổng công suất 315 MW. Tuy nhiên, con số này vẫn rất thấp so với công suất điện mặt trời áp mái được lắp đặt tại các hộ gia đình. Hiện có khoảng 288.000 hộ gia đình, chiếm khoảng 1/3 hộ dân ở Nam Australia, lắp đặt pin mặt trời với tổng công suất 1.700 GW.

Vào ngày 11-2-2021, toàn bang Nam Australia được cung ứng 100% điện mặt trời trong vòng 2 giờ đồng hồ. Từ 12 giờ đến 14 giờ, lần đầu tiên hệ thống điện được vận hành hoàn toàn bằng điện mặt trời. Trong đó, 80% công suất đến từ điện mặt trời áp mái của các hộ gia đình. Kỳ tích này đạt được nhờ vào một số yếu tố như bầu trời quang đãng giúp tận dụng tối đa ánh nắng hay nhiệt độ ôn hòa khiến tiêu thụ điện năng tương đối thấp.

Điện mặt trời áp mái tại Australia

Cần cân bằng hệ thống

Để hoạt động tối ưu, hệ thống điện cần phải ổn định cả về mức điện áp và tần số. Vì không thể lưu trữ điện năng, nên tại mọi thời điểm, sản xuất và tiêu thụ điện phải được cân bằng một cách có hệ thống. Nếu gặp rủi ro nhất thời, theo quán tính, máy phát điện xoay chiều trong các nhà máy nhiệt điện sẽ giúp ổn định hệ thống. Cũng giống như đi xe đạp, khi dừng đạp, xe đạp vẫn tiếp tục di chuyển về phía trước và giúp chúng ta giữ thăng bằng. Quán tính này cho phép chúng ta có những khoảng nghỉ ngắn mà không hề ảnh hưởng đến hành trình.

Tương tự, hãy hình dung khi xe đạp được đặt trên máy chạy bộ (các tấm pin mặt trời). Nếu muốn giữ thăng bằng, dù tốc độ của máy chạy bộ là bao nhiêu, chúng ta vẫn phải đạp một chút. Hệ thống điện cũng vận hành như vậy. Tuy nhiên, pin điện mặt trời không có máy phát điện xoay chiều để tạo quán tính, khiến hệ thống thiếu bền vững và có nguy cơ sụt giảm điện khi xảy ra rủi ro. Để tránh những vấn đề đó, bang Nam Australia vẫn duy trì hoạt động của các nhà máy nhiệt điện khí với số lượng tối thiểu.

Tuy nhiên, giải pháp này không phải là quan trọng nhất. Chúng ta có thể tạo ra quán tính điện giả bằng cách sử dụng máy bù đồng bộ. Trong năm tới, 4 cỗ máy này sẽ được đưa vào vận hành tại bang Nam Australia. Khi sản xuất đủ điện mặt trời, toàn bang sẽ ngừng sản xuất điện bằng khí đốt.

Ở Nam Australia dự kiến đạt tổng công suất 2.800 MW điện mặt trời vào năm 2030. Nếu xảy ra dư thừa năng lượng, Australia sẽ xử lý thế nào? Nguồn điện mặt trời hoàn toàn có thể được lưu trữ trong pin điện của hệ thống lưu trữ năng lượng Hornsdale Power Reserve. Đây là một loại pin khổng lồ có dung lượng 194 MWh và công suất 150 MW. Chúng ta có thể sử dụng nguồn năng lượng lưu trữ này vào buổi tối, hoặc chuyển hóa thành khí hydro cho các loại phương tiện sử dụng nguồn nhiên liệu này, hoặc cũng có thể xuất khẩu điện.

Điện mặt trời dư thừa cũng có thể gây nguy hiểm cho sự ổn định của lưới điện do không thể lưu trữ điện. Vì thế, nhà điều hành thị trường năng lượng Australia (AEMO) đang phát triển các công cụ kỹ thuật mới cho phép can thiệp và ngắt kết nối từ xa trong trường hợp điện mặt trời áp mái bị quá tải.

Thông thường, 100% sản lượng điện do nhà máy sản xuất sẽ được tải lên mạng lưới truyền tải điện cao áp. Trong khi đó, hệ thống phi tập trung của bang Nam Australia tránh được bước này vì điện mặt trời được sản xuất ngay trên mạng lưới phân phối. Hệ thống này giúp người tiêu dùng kết nối với lưới điện mà không cần lưu tâm đến yếu tố địa lý.

Phương thức sản xuất phi tập trung mới này giúp tránh việc sử dụng mạng lưới điện cao áp vào ban ngày. Bà Audrey Zibelman, Tổng giám đốc AEMO, cho biết: Bang Nam Australia đang tăng cường lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái. AEMO cũng có kế hoạch mua 36.000 thiết bị quang điện mới trong vòng 14 tháng tới. Điều đó có nghĩa lưới điện Nam Australia sẽ không còn truyền tải điện nữa vì điện mặt trời áp mái có thể đáp ứng 100% nhu cầu.

Mô hình của Australia cho thấy tiềm năng cao. Vì trước mắt, dù có xử lý kỹ thuật không kịp thời thì hệ thống điện mặt trời 100% (hay 100% năng lượng tái tạo) vẫn có thể hoạt động mà không gây nguy hiểm đến sự ổn định của lưới điện.

Điều đó cũng là minh chứng hùng hồn về tính khả thi của sản xuất điện mặt trời cục bộ và phi tập trung. Việc xây dựng các cánh đồng pin năng lượng mặt trời nay đã lỗi thời. Tuy nhiên, điện mặt trời và điện lượng gió vẫn không đủ cho đến khi công nghệ lưu trữ năng lượng quy mô lớn được đưa vào sử dụng. Do đó, việc duy trì tạm thời một số nhà máy nhiệt điện là điều cần thiết với Australia.

Sản xuất điện mặt trời hiện đang được phát triển mạnh mẽ ở Nam Australia với 3 nhà máy có tổng công suất 315 MW. Tuy nhiên, con số này vẫn rất thấp so với công suất điện mặt trời áp mái được lắp đặt tại các hộ gia đình. Hiện có khoảng 288.000 hộ gia đình, chiếm khoảng 1/3 hộ dân ở Nam Australia, lắp đặt pin mặt trời với tổng công suất 1.700 GW.

S.Phương
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/trien-vong-dien-mat-troi-ap-mai-tai-australia-604331.html

WB tài trợ thêm 22,5 triệu USD phát triển hệ thống năng lượng mặt trời ở 19 quốc gia châu Phi

Trước đây, Ngân hàng Thế giới (WB) đã phê chuẩn khoản tài trợ ban đầu 224,7 triệu USD cho Rogeap, một dự án nhắm mục tiêu đến các nước Tây và Trung Phi.

Vào ngày 15 tháng 3, Hội đồng quản trị WB phê duyệt kinh phí bổ sung 22,5 triệu USD cho dự án Rogeap (Regional Off-Grid Electricity Access Project).

Khoản tài trợ ban đầu là 224,7 triệu USD được phê duyệt vào tháng 4 năm 2019.

Nguồn vốn được phê duyệt vào ngày 15 tháng 3 sẽ được cung cấp dưới hình thức tài trợ từ Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) và Quỹ Công nghệ sạch (CTF).

Dự án nhằm hỗ trợ cho thị trường các hệ thống năng lượng mặt trời không nối lưới ở các nước Sahel để cung cấp điện cho các trạm y tế, trường học, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ sở công cộng; cung cấp điện máy bơm nước, máy xay và tủ lạnh năng lượng mặt trời cho nông dân.

Thông qua dự án, Ngân hàng Thế giới muốn thu hút đầu tư vào các giải pháp cung cấp điện không nối lưới, được sử dụng bởi dưới 3% cư dân ở các quốc gia nằm trong đối tượng được WB tài trợ.

Dự án nhắm đến 19 quốc gia ở Tây và Trung Phi: Benin, Burkina Faso, Cape Verde, Côte d’Ivoire, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Liberia, Mali, Niger, Nigeria, Senegal, Sierra Leone, Togo, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Mauritania và Chad.

Ngân hàng Thế giới đã giao vai trò cơ quan thực hiện dự án cho Cộng đồng Kinh tế các quốc gia Tây Phi (ECOWAS), sẽ làm việc cùng với Ngân hàng Phát triển Tây Phi (BOAD), chịu trách nhiệm mở một hạn mức tín dụng có lợi cho các ngân hàng thương mại hoạt động trong tiểu vùng.

Nh.Thạch/AFP
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/wb-tai-tro-them-225-trieu-usd-phat-trien-he-thong-nang-luong-mat-troi-o-19-quoc-gia-chau-phi-604246.html

Điện gió nổi ngoài khơi có thể là mặt trận lớn nhất của năng lượng gió ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương

Hãng phân tích Wood Mackenzie cho biết, điện gió nổi ngoài khơi có thể là mặt trận tiếp theo trong phát triển lĩnh vực điện gió ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chi phí vốn (CAPEX) sẽ giảm xuống trung bình 3 triệu USD/MW trong giai đoạn 2025-2030.

Theo Wood Mackenzie, một thị trường quan trọng cho công nghệ nổi ngoài khơi đang hình thành ở châu Á. Các nhà phát triển tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã công bố kế hoạch phát triển các dự án thử nghiệm trọng điểm, mặc dù quy mô triển khai vẫn còn hạn chế so với công nghệ xây dựng nền đáy cố định cho trụ gió. Điện gió nổi ngoài khơi được dự báo chỉ chiếm 6% trong tổng công suất 26 GW công suất gió ngoài khơi mới dự kiến được xây dựng trong thập kỷ này tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, ngoại trừ Trung Quốc.


Dự án giàn turbin đôi nổi 200MW ngoài khơi Hàn Quốc của Tập đoàn Shell.

Chuyên gia phân tích Robert Liew của Wood Mackenzie cho biết, việc lắp đặt thêm 1,56 GW công suất điện gió nổi ngoài khơi Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan sẽ cần các khoản đầu tư trị giá ít nhất 8 tỷ USD. Nếu xem xét thêm dự án truyền dẫn trị giá 9 tỷ USD trong giai đoạn lập kế hoạch ban đầu, nhu cầu đầu tư có thể lên tới 58 tỷ USD. Duy trì nguồn cung cấp điện là một thách thức quan trọng đối với các thị trường này khi các nhà máy nhiệt điện lạc hậu sắp hết vòng đời dự án và cơ hội phát triển điện than, điện hạt nhân mới bị hạn chế đáng kể. Ba thị trường Đông Bắc Á phải đối mặt với việc ngừng hoạt động công suất nhiệt điện than và điện hạt nhân lên tới 89 GW trong giai đoạn 2020 – 2030.

Chuyên gia Liew cho biết, chính phủ các nước này đang tích cực tìm kiếm nguồn cung điện từ NLTT để lấp đầy khoảng trống cung cấp, nhưng do hạn chế về đất đai nên các lựa chọn mở rộng NLTT bị hạn chế. Điện gió nổi ngoài khơi đang được chú ý nhiều hơn nhưng chi phí cao vẫn là rào cản lớn đối với việc áp dụng rộng rãi công nghệ này. Để đảm bảo tính bền vững lâu dài của nguồn điện này, chi phí lắp đặt phải giảm đáng kể để ít nhất có thể cạnh tranh được với nguồn cung điện khí.


Thiết bị lắp đặt nổi Lidar cho dự án điện gió Ulsan 1,4GW ngoài khơi Hàn Quốc.

Với những thành quả hạn chế, quy mô điện gió nổi ngoài khơi mới có 21 MW công suất thử nghiệm, cho thấy tính không chắc chắn cao về khả năng giảm chi phí dự án tại các thị trường châu Á – Thái Bình Dương. Hiện tại, chính phủ Nhật Bản ước tính rằng, chi phí đầu tư hiện tại đối với điện gió nổi ngoài khơi có thể hạ xuống 4 triệu USD/MW so với chi phí đầu tư điện gió trên bờ là 2-3 triệu USD/MW. Trong khi chi phí đầu tư điện gió trên bờ được dự báo sẽ giảm còn 1,5 triệu USD/MW đến năm 2030.

Wood Mackenzie dự báo, chi phí đầu tư trung bình của các nhà máy điện gió nổi ngoài khơi tại ba thị trường tiên phong nêu trên sẽ giảm khoảng 40% xuống còn 2,6-4 triệu USD/MW vào giai đoạn 2025-2030.

Bất chấp thách thức về chi phí, Chính phủ Nhật Bản và Hàn Quốc đã ban hành các chính sách hỗ trợ lĩnh vực này. Tại Nhật Bản, biểu thuế nhập khẩu áp dụng cho các dự án nổi so với các dự án ngoài khơi có chân đế đang chuyển sang mức giá thông qua đấu giá. Một cuộc đấu giá điện gió nổi quy mô 22 MW ở quần đảo Goto cũng đang thử nghiệm xem liệu giá trúng thầu có thể thấp hơn biểu giá được cấp vào hiện tại hay không. Tại Hàn Quốc, các dự án nổi ngoài khơi có thể được cấp chứng chỉ NLTT với nhiều ưu đãi hơn tùy thuộc vào khoảng cách giữa các cơ sở kết nối.

Chuyên gia Liew cho rằng, với đủ sự hỗ trợ của chính phủ, các nhà phát triển sẽ sẵn sàng đánh cược lớn hơn vào năng lượng gió nổi. Việc xây dựng một hệ thống các dự án nổi chắc chắn sẽ giúp lĩnh vực này có tầm nhìn xa hơn, do đó sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư hơn nữa. Những sự hỗ trợ của chính phủ là tầm nhìn dài hạn nhằm thiết lập một chuỗi cung ứng gió nổi ngoài khơi trong nước sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế địa phương. Điện gió nổi ngoài khơi đòi hỏi nhiều tàu lắp đặt tuabin hơn so với các dự án gió ngoài khơi có chân đế. Điều này sẽ thu hút sự quan tâm của các quốc gia có thế mạnh về ngành hàng hải hay giao thông thủy nội địa. Chính phủ Nhật Bản và Hàn Quốc mong muốn thiết lập một trung tâm chuỗi cung cứng nổi ở nước ngoài cho khu vực và xuất khẩu tiềm năng trong tương lai sang các thị trường khác. Điều này cũng có thể góp phần đáng kể vào việc giảm chi phí.

Điện gió nổi ngoài khơi có lẽ sẽ là mặt trận lớn nhất cho năng lượng gió ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong dài hạn. Lĩnh vực này có tương lai triển vọng vì hầu hết các thị trường ở châu Á – Thái Bình Dương đều có bờ biển dài và nguồn năng lượng gió ngoài khơi gần các thành phố ven biển có thể được khai thác, thậm chí ở cả những khu vực có tốc độ gió thấp. Mặc dù quy mô vẫn còn hạn chế, năng lượng gió nổi ngoài khơi có tiềm năng cung cấp điện gần như vô tận.

Viễn Đông
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/dien-gio-noi-ngoai-khoi-co-the-la-mat-tran-lon-nhat-cua-nang-luong-gio-o-khu-vuc-chau-a-thai-binh-duong-601503.html