Posts

Tiêu chuẩn ESG và 3 trụ cột chính

Phát triển bền vững là xu hướng tất yếu đối với tất cả các doanh nghiệp. Vì vậy, tiêu chuẩn ESG đang ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp.

ESG gồm những tiêu chuẩn gì?

ESG (Environment – môi trường, Social – xã hội và Governance – quản trị doanh nghiệp) là bộ 3 tiêu chuẩn để đo lường những yếu tố liên quan đến định hướng, hoạt động phát triển bền vững của doanh nghiệp. ESG giúp doanh nghiệp xác định các rủi ro và cơ hội, cũng như mức độ ảnh hưởng khi áp dụng chúng vào vận hành.

Điểm số ESG được đánh giá dựa trên những tác động của doanh nghiệp đến môi trường, xã hội, và hiệu suất quản trị của doanh nghiệp khi quản lý các ảnh hưởng đó. Điểm ESG càng cao càng chứng tỏ cho việc thực hành tốt ESG tại tổ chức.

Điểm số ESG được đánh giá dựa trên những tác động của doanh nghiệp đến môi trường, xã hội, và hiệu suất quản trị của doanh nghiệp khi quản lý các ảnh hưởng đó.

3 trụ cột của ESG

Tiêu chuẩn ESG bao gồm đa dạng vấn đề, bắt nguồn từ luật quốc tế, luật địa phương, các thỏa thuận, nguyên tắc ở mỗi quốc gia. Để thực hiện ESG, doanh nghiệp cần đáp ứng 3 trọng tâm chính với hàng chục tiêu chí cụ thể.

  1. Môi trường

Môi trường là khía cạnh đầu tiên đo lường mức độ doanh nghiệp tác động đến tự nhiên trong suốt quá trình sản xuất, vận hành, quản lý… Khía cạnh môi trường được đo lường dựa trên 4 yếu tố, bao gồm:

Biến đổi khí hậu

Tiêu chí biến đổi khí hậu được đánh giá dựa trên các cam kết quốc tế và trong nước, chính sách quốc gia và quy định tại địa phương đó. Tại doanh nghiệp tiêu chí này được đánh giá dựa trên lượng khí thải nhà kính phát thải từ hoạt động kinh doanh.

Với vai trò tiên phong trong việc tạo ra các chính sách ESG, Chính phủ sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp có động lực và cơ sở rõ ràng hơn khi nỗ lực đạt được các cam kết liên quan đến mục tiêu ESG.

Năng lượng

Khi các doanh nghiệp thực hiện ESG phải đảm bảo khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng. Bên cạnh sự tối ưu, quá trình tìm kiếm, sử dụng các nguồn năng lượng thay thế có tính vô hạn đang được khuyến khích… Điều này giúp tránh tình trạng cạn kiệt năng lượng, doanh nghiệp luôn có thể hoạt động mà không phụ thuộc vào các nguồn bị giới hạn. Từ đó, thúc đẩy quá trình sản xuất ngày càng phát triển hơn.

Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên thiên nhiên bao gồm đất, nước, cây xanh, khoáng sản, không khí… Để đạt điểm ESG cao ở mục này, doanh nghiệp phải đảm bảo có đầy đủ giấy cấp phép khi sử dụng bất kỳ nguồn tài nguyên nào. Ngoài ra, nhiều tổ chức cũng ghi điểm khi chủ động/góp phần cải tạo, khôi phục các khu vực bị ô nhiễm.

Đặc biệt, thay vì giảm thiểu, một số doanh nghiệp trong thời đại 4.0 còn nghiên cứu và triển khai các loại công nghệ mới có thể tự tạo ra tài nguyên mà không gây tác động đến môi trường.

Xử lý và tái chế chất thải

Muốn xử lý chất thải đạt chuẩn ESG, các doanh nghiệp cần thống kê, lên danh sách chi tiết từng loại và khối lượng chất thải nguy hiểm. Sau đó tiến hành thu gom, phân loại chúng và lưu trữ đảm bảo không gây ô nhiễm. Theo quy định, doanh nghiệp có thể di chuyển và đem chúng đến nơi xử lý thích hợp theo giấy phép. Nếu được, doanh nghiệp có thể tái chế, tái sử dụng để giảm chất thải ra môi trường, tối ưu hóa năng lượng. Doanh nghiệp còn có thể tự mình sáng chế, hoặc dùng các dịch vụ tái chế để đảm bảo chất thải được xử lý đúng cách theo quy định của pháp luật.

  1. Xã hội

Xã hội là khía cạnh thứ 2 trong ESG giúp các doanh nghiệp đánh giá các yếu tố liên quan như mối quan hệ kinh doanh của công ty với khách hàng, đối tác; điều kiện làm việc của nhân viên theo luật Lao động ở Việt Nam. Tiêu chuẩn này bao gồm 4 yếu tố chính:

Quyền riêng tư và bảo mật

Đây là tiêu chí quan trọng nhưng quy định và luật lệ về chúng còn khá mới ở nước ta. Khi thực hiện ESG, các doanh nghiệp cần sự cho phép của chủ sở hữu trước khi thu thập, sử dụng hoặc làm bất cứ điều gì với dữ liệu của họ. Đặc biệt doanh nghiệp phải cam kết có các biện pháp bảo vệ dữ liệu, tuyệt đối không được tiết lộ thông tin cá nhân.

Tính đa dạng, công bằng và hòa nhập

Cơ sở để đánh giá điểm ESG ở mục này là Luật Lao động. Theo đó, các tổ chức không được phân biệt đối xử với nhân viên dù họ có giới tính, màu da, chủng tộc, tôn giáo, hay ở bất cứ tầng lớp xã hội, tổ chức nào. Nhân sự nam và nhân sự nữ cần công bằng về mọi mặt: công việc, cơ hội thăng tiến, lương thưởng…

Môi trường làm việc an toàn

Nơi làm việc cần đảm bảo về an toàn lao động và sức khỏe. ESG nghiêm cấm các trường hợp ép buộc lao động, ngược đãi, bóc lột, quấy rối… Tiêu chuẩn cũng khắt khe trong việc sử dụng nhân lực dưới 18 tuổi, bên cạnh đó, tổ chức cần thực hiện đúng giờ giấc cũng như tính chất công việc được luật Lao động cho phép.

Điều kiện làm việc 

ESG dựa theo những quy định trong luật pháp Việt Nam để xem xét điểm số cho doanh nghiệp như mức lương, giờ làm việc, khám sức khỏe, chính sách bảo hiểm…

  1. Quản trị doanh nghiệp

Khía cạnh cuối cùng của ESG là quản trị, liên quan đến các hoạt động của tổ chức đảm bảo tính hiệu quả, minh bạch, đạo đức kinh doanh và tuân thủ các quy định pháp luật.

Công bố báo cáo ESG

Luật Việt Nam quy định các doanh nghiệp thực hiện ESG phải công bố thông tin, kết quả hoạt động hằng năm như khai thác và tiêu thụ tài nguyên, chính sách lao động, báo cáo tài chính, đóng góp cho cộng đồng… Báo cáo này cần nộp cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Việt Nam và Sở Giao dịch chứng khoán.

Chống hối lộ và tham nhũng

Đây là yếu tố rất được quan tâm trong quản trị và được đánh giá theo luật Phòng chống hối lộ và tham nhũng, luật Hình sự của Việt Nam.

Tính đa dạng và hòa nhập của hội đồng quản trị

Tiêu chí ESG này đánh giá sự đa dạng về nguồn gốc của các thành viên trong hội đồng quản trị về giới tính và lý lịch. Theo luật pháp Việt Nam, trong một số trường hợp còn buộc phải có hội đồng quản trị độc lập, chẳng hạn 1/5 thành viên hội đồng quản trị của công ty đại chúng chưa niêm yết phải độc lập.

Không phải là phong trào, hiện ESG được xem là chìa khóa giúp doanh nghiệp phát triển bền vững. Do vậy, để bắt kịp xu hướng và hoàn thành tốt bộ tiêu chuẩn này, lãnh đạo doanh nghiệp cần có sự tìm hiểu sâu rộng về ESG và có cách quản trị phù hợp các khuôn khổ pháp lý và các thông lệ ESG hiện hành.

VNCPC (tổng hợp)

Phát triển chất xúc tác năng lượng mặt trời thu giữ khí metan tạo ra hydro và carbon tinh khiết

Khí metan có hiệu ứng nhà kính tệ hơn 80 lần so với carbon dioxide trong khoảng thời gian 20 năm và lượng khí thải đang tăng vọt ngay cả khi chúng ta bắt đầu giảm lượng CO2. Điều đó làm cho chất xúc tác thu giữ hydrocarbon mới, sử dụng năng lượng mặt trời của UCF trở thành ý tưởng rất hấp dẫn.

Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Công nghệ Khoa học Nano, Đại học Central Florida và Viện Vũ trụ Florida cho biết đã tạo ra một chất xúc tác quang giàu boron, được thiết kế với các khiếm khuyết ở cấp độ nano hoặc những bất thường về cấu trúc, cho phép nó phân tách các chuỗi hydrocarbon như metan thành thành phần vô hại.

Đầu vào chỉ đơn giản là ánh sáng mặt trời và không khí chứa hydrocarbon. Sản phẩm đầu ra là hydro tinh khiết, có thể được sử dụng cho mọi mục đích năng lượng và carbon nguyên chất.

Điều quan trọng là quá trình này không tạo ra carbon dioxide hoặc carbon monoxide. Điều đó hoàn toàn trái ngược với các quy trình công nghiệp điển hình được sử dụng để sản xuất hydro hoặc khí tổng hợp từ metan và nước, vốn thải ra một lượng lớn chất này hoặc chất kia.


Chuyên gia xúc tác Richard Blair và nhà công nghệ nano Laurene Tetard đến từ UCF đã hợp tác thực hiện một số khám phá mới về xúc tác quang học thú vị.

Chuyên gia xúc tác UCF Richard Blair cho biết trong một thông cáo báo chí: “Phát minh đó thực sự là phát minh kép. Bạn thu được hydro màu xanh lá cây và loại bỏ metan. Bạn đang xử lý khí metan thành hydro và carbon nguyên chất có thể được sử dụng cho những thứ như pin. Quy trình của chúng tôi lấy khí nhà kính, khí metan và chuyển đổi nó thành thứ không phải khí nhà kính, hydro, carbon và loại bỏ khí metan khỏi chu trình”.

Nhóm nghiên cứu tin rằng công trình của họ có thể giảm đáng kể chi phí các chất xúc tác tạo ra năng lượng, mở rộng phạm vi tần số ánh sáng trong phạm vi có thể ​​chúng hoạt động và tăng hiệu quả quá trình quang xúc tác mặt trời. Nó không chỉ cho phép sản xuất công nghiệp hydro xanh hơn không cần nước mà còn có thể mang lại phương pháp khả thi về mặt thương mại để thu giữ trực tiếp khí metan trong khí quyển.

Khí metan là sản phẩm phụ không thể tránh khỏi của nông nghiệp, chất thải chôn lấp, cơ sở xử lý nước thải và một số quy trình công nghiệp chính. Nó rò rỉ ra lượng lớn ở bất cứ nơi nào các nhà sản xuất khí đốt tự nhiên khoan lấy nó, qua các đường ống và phụ kiện, nó di chuyển đến các hộ gia đình và ngành công nghiệp, nơi nó thường bị đốt cháy để tạo ra nhiều carbon dioxide hơn.

Biến đổi khí hậu đã bắt đầu gây ra sự gia tăng đáng kể lượng khí metan trong khí quyển do sự mở rộng của các vùng đất ngập nước nhiệt đới, từ đó nó được giải phóng do quá trình phân hủy cũng như sự tan băng của lớp băng vĩnh cửu ở vùng cực – nơi giữ lại một lượng lớn khí metan.

Đây là vấn đề lớn và ngày càng gia tăng, ý tưởng về công nghệ thu hồi khí metan chạy bằng năng lượng mặt trời có khả năng được triển khai xung quanh các địa điểm phát thải khí metan lớn đồng thời tạo ra nhiều dòng thu nhập chắc chắn là ý tưởng thú vị nếu chứng tỏ khả thi ở quy mô thương mại.

Hà My

https://vietq.vn/phat-trien-chat-xuc-tac-nang-luong-mat-troi-thu-giu-khi-metan-de-tao-ra-hydro-va-carbon-tinh-khiet-d213541.html

Việt Nam ưu tiên dự án năng lượng sạch phù hợp quy hoạch chung

Đó là một trong những nội dung chính trong buổi làm việc giữa Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên với ông Alok Kumar Sharma Bộ trưởng, Chủ tịch Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc lần thứ 26 (COP 26) ngày 14/2.

Thông tin về những nỗ lực tích cực của ngành năng lượng trong thời gian vừa qua, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, tổng vốn đầu tư nguồn và lưới điện của phương án tháng 12/2021 là 135,9 tỷ USD giai đoạn 2021-2030 (121,79 tỷ USD cho nguồn; 14,12 tỷ USD cho lưới). Với phương án điều hành tháng 12/2021, ngành năng lượng đã tiết kiệm được khoảng 28,9 tỷ USD vốn đầu tư trong giai đoạn 2021-2030 so với phương án điều hành tháng 3/2021.

Với mục tiêu lâu dài đến năm 2030, ngành năng lượng phấn đấu đạt quy mô điện than là 38,8 GW, tăng so với hiện nay 18GW và gần như không tăng thêm đến năm 2045.

Giai đoạn 2031-2045, tổng vốn đầu tư nguồn và lưới điện của phương án tháng 12/2021 là 241,51 tỷ USD (230,07 tỷ USD cho nguồn; 11,44 tỷ USD cho lưới). Như vậy phương án điều hành tháng 12/2021 đã tiết kiệm được khoảng 4,2 tỷ USD vốn đầu tư trong giai đoạn 2031-2045 so với phương án điều hành tháng 3/2021.

Nói về những nỗ lực phát triển năng lượng sạch, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, ngay sau Hội nghị COP 26, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã xây dựng phương án cập nhật lại dự thảo Quy hoạch điện VIII.


Nhà máy điện gió Đông Hải 1 (Đông Hải, Duyên Hải, Trà Vinh) với tổng mức đầu tư gần 5.000 tỷ đồng, công suất 100 MW vừa khánh thành ngày 16/1.

Trong đó chú trọng phát triển nguồn điện theo hướng: Đánh giá lại tính khả thi các nguồn nhiệt điện than để tiếp tục giảm điện than; phát triển mạnh điện khí, nhất là điện khí LNG để đảm bảo an ninh năng lượng và tăng khả năng hấp thụ nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo quy mô lớn; phát triển mạnh mẽ nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo, nhất là điện gió và điện mặt trời; bố trí nguồn điện đảm bảo cân đối vùng miền, tránh truyền tải xa và đảm bảo dự phòng hợp lý ở từng miền.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương vẫn tiếp tục nghiên cứu, đề xuất và hoàn thiện dự thảo Quy hoạch điện VIII để phù hợp với các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP 26 như mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và Tuyên bố chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng nhấn mạnh, Việt Nam cần sự hỗ trợ của quốc tế về nguồn vốn ưu đãi để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp vừa đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia vừa đóng góp có hiệu quả mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Bộ Công Thương luôn ưu tiên hỗ trợ trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội, phù hợp quy hoạch chung, tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.

https://petrotimes.vn/viet-nam-uu-tien-du-an-nang-luong-sach-phu-hop-quy-hoach-chung-641974.html

Làm thế nào để giới hạn mức tăng nhiệt ở ngưỡng 1,5°C

Vừa qua, Đại học Công nghệ Sydney (UTS) đã công bố nghiên cứu mới đối với việc phân bổ ngân sách carbon (lượng phát thải CO2 tối đa) toàn cầu lần đầu cho các lĩnh vực khó cắt giảm – 12 ngành công nghiệp vĩ mô chính của mỗi quốc gia.

Các nhà khoa học từ UTS đã tính toán ngân sách carbon liên quan đến năng lượng cho các ngành công nghiệp bao gồm ngành công nghiệp nhôm, thép, hóa chất, xe hơi và hàng không.


Các ngành công nghiệp cơ bản như luyện kim, hàng không… có mức phát thải CO2 rất lớn.

Nghiên cứu cho thấy vẫn có thể hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở ngưỡng 1,5°C và thực hiện Thỏa thuận Khí hậu Paris. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải có hành động khí hậu kịp thời bởi các ngành sử dụng nhiều năng lượng nhận được sự hậu thuẫn từ các ngành tài chính, các chính sách dài hạn và đáng tin cậy từ phía chính phủ.

Ngân sách carbon toàn cầu để giúp mức tăng nhiệt không vượt quá 1,5°C với 67% khả năng diễn ra là 400 tỷ tấn CO2 cho đến năm 2050. Ngành thép sẽ có ngân sách carbon là 19 tỷ tấn CO2 (chiếm 5,0%), ngành xi măng có 9 tỷ tấn CO2 (2,4%) và ngành công nghiệp nhôm có 6 tỷ tấn CO2 (1,6%). Ngân sách carbon lớn nhất được tính toán phân bổ cho các công trình (kiểm soát biến đổi khí hậu và điện năng) với 88 tỷ tấn CO2 (22,6%), và giao thông đường bộ với 82 tỷ tấn CO2 (21,1%).

Phó giáo sư Sven Teske, người đứng đầu nghiên cứu tại UTS cho biết: “Điều quan trọng là phải có một ngân sách carbon dựa trên cơ sở khoa học cho các ngành cụ thể để thực hiện các mục tiêu khí hậu cho tất cả các bộ phận của các ngành này. Chúng tôi nhận thấy rằng cho đến nay, các công ty điện lực có trách nhiệm lớn nhất: Họ phải cung cấp đủ năng lượng tái tạo cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng như hóa chất, thép, xi măng, nhôm và cho các loại xe điện không sử dụng xăng dầu”.

Ngân sách phát thải cho từng ngành cụ thể đó lại được chia nhỏ thành phát thải phạm vi 1, 2 và 3, giúp xác định trách nhiệm đối với lượng phát thải đó.

Cho đến nay, hệ thống này mới chỉ được áp dụng cho các công ty, chưa áp dụng một cách chi tiết cho toàn bộ lĩnh vực của các ngành công nghiệp hoặc một khu vực. Để định hướng đầu tư sao cho phù hợp với cam kết phát thải ròng bằng 0, ngành tài chính cần một mô hình tổng thể cho lộ trình giữ mức tăng nhiệt thấp hơn/không vượt quá 1,5°C. Các nhà khoa học của UTS đã phát triển một mô hình – Mô hình Khí hậu OneEarth (OECM) – để bù đắp lỗ hổng trong các đường lối khử carbon cụ thể trong lĩnh vực công nghiệp.

Mục tiêu phát thải cho một lĩnh vực cụ thể, ví dụ: lĩnh vực công nghiệp thép và lượng phát thải theo “Phạm vi” có thể được sử dụng làm tiêu chuẩn và hướng dẫn cho việc ra quyết định đầu tư. Hiện tại, có thể phát triển các lộ trình phát thải cho các phân loại ngành, sau đó được ghi lại trong một mô hình nhất quán phù hợp với mức tham vọng phát thải ròng bằng 0. Các thành viên của Liên minh Chủ sở hữu Tài sản có mức phát thải ròng bằng không được Liên Hợp Quốc hỗ trợ (tạm gọi tắt là Liên minh) đã bắt đầu sử dụng mô hình.

Mười hai lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ chính được phân tích gồm: Công nghiệp nhôm, hóa chất, xi măng, thép, dệt và đồ da, điện và khí đốt, nông nghiệp, lâm nghiệp, hàng không, công nghiệp vận tải biển, vận tải đường bộ, bất động sản và các công trình.

Günther Thallinger, Chủ tịch Liên minh Chủ sở hữu Tài sản có mức phát thải ròng bằng 0 cho biết: “Lộ trình của lĩnh vực trong Mô hình Khí hậu OneEarth có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho ngành tài chính, về việc ra quyết định đầu tư, bởi mô hình này dựa trên cách tiếp cận tích hợp toàn diện. Nó cũng cho thấy mức độ chi tiết cần có để củng cố phân tích của các nhà đầu tư. Thông tin cung cấp chi tiết về ngân sách và phạm vi từng ngành, đặc biệt là về sự kết nối và trách nhiệm”.

Là trường mô hình tương tác lớn đầu tiên gửi tín hiệu mạnh mẽ đến các cuộc đàm phán tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu và Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP UNFCCC), Liên minh chủ sở hữu tài sản có mức phát thải ròng bằng 0 đang hỗ trợ sự phát triển hơn nữa của mô hình OECM và áp dụng các phát hiện và dữ liệu mới nhất của UTS để đưa thông tin về mục tiêu của nhóm nhà đầu tư, thiết lập quy tắc và tạo lập khuôn khổ báo cáo.

Liên minh là một nhóm quốc tế gồm 60 tổ chức đầu tư cam kết chuyển đổi nguồn đầu tư trị giá khoảng 10 nghìn tỷ USD cho lộ trình phát thải ít hơn/không vượt quá hạn mức vào năm 2050.

UTS đưa ra 6 khuyến nghị cho lãnh đạo các quốc gia:

Ngừng đầu tư vào các dự án dầu khí mới; Đảm bảo loại bỏ than vào năm 2030 ở các nước thuộc tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), từ năm 2030 đến năm 2040, tất cả các khu vực cần dần loại bỏ than; Dừng sản xuất ô tô chở khách sử dụng động cơ đốt trong chạy bằng dầu vào năm 2030;

Chính phủ cần đưa ra các kế hoạch chuyển đổi phát thải ròng bằng không chi tiết; Thiết lập và thực hiện các mục tiêu đầu tư, cho vay và hỗ trợ đầu tư loại bỏ carbon phù hợp với mục tiêu giữ mức tăng nhiệt thấp hơn/không vượt quá 1,5°C;

Các công ty công bố và thực hiện chiến lược giảm thiểu tác động của khí hậu, bao gồm: thiết lập mục tiêu ngắn hạn và trung hạn, thiết lập mục tiêu và minh bạch về các hoạt động cam kết cũng như đầu tư vào năng lượng tái tạo cũng như các giải pháp khí hậu.

Tùng Dương
https://petrotimes.vn/lam-the-nao-de-gioi-han-muc-tang-nhiet-o-nguong-15-c-631674.html

Liên hợp quốc: Sự nóng lên toàn cầu là “mã đỏ cho nhân loại”

Trong báo cáo của Ủy ban khí hậu của LHQ công bố ngày 9/8, các nhà khoa học đã nhấn mạnh sự nóng lên toàn cầu đang ở mức nguy hiểm ngoài tầm kiểm soát với loạt điều kiện thời tiết cực đoan xảy ra.

Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres ngày 9/8 đưa ra lời cảnh báo trên trong bối cảnh xảy ra ngày càng nhiều các kiểu thời tiết cực đoan đe dọa đến cuộc sống người dân.

Theo Tổng thư ký Guterres, báo cáo đã gióng lên hồi chuông “báo tử” đối với việc sử dụng than đá và nhiên liệu hóa thạch, trước khi chúng hủy diệt hành tinh của nhân loại.

Trong báo cáo công bố cùng ngày của IPCC, các nhà khoa học đã nhấn mạnh sự nóng lên toàn cầu đang ở mức nguy hiểm ngoài tầm kiểm soát với loạt điều kiện thời tiết cực đoan xảy ra.

Đàn bò gặm cỏ trên một cánh đồng khô cằn tại bang California, Mỹ ngày 23/7. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Dựa trên hơn 140.000 nghiên cứu khoa học, báo cáo của IPCC đưa ra bức tranh toàn cảnh và chi tiết về cách thức biến đổi khí hậu đang thay đổi thế giới tự nhiên và những gì có thể xảy ra trong tương lai.

Các nhà khoa học đã lấy ví dụ về các điều kiện thời tiết cực đoan để cho thấy sự tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu.

Tại bang California, Mỹ, chỉ riêng trong ngày 9/8, đã có 200.342ha rừng bị thiêu rụi trong khi tại Venice (Italy), khách du lịch phải lội qua những vùng nước sâu ở Quảng trường St.Mark.

Theo các nhà khoa học, con người phải chịu trách nhiệm cho tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay và hành động nhanh chóng để cắt giảm khí phát thải nhà kính. Trong trường hợp các nước không thể thực hiện mục tiêu này, nhiệt độ trung bình toàn cầu có thể vượt mức tăng 1,5 độ C trong vòng 20 năm nữa.

Theo các nhà khoa học, các cam kết cắt giảm khí phát thải mà các nước đưa ra cho đến này vẫn chưa đủ để bắt đầu giảm mức độ khí nhà kình, chủ yếu là khí CO2 do đốt nhiên liệu hóa thạch.

Báo cáo cũng cho biết lượng khí thải “rõ ràng do hoạt động của con người gây ra đẩy nhiệt độ trung bình toàn cầu lên 1,1 độ C so với trung bình thời kỳ tiền công nghiệp và có thể tăng thêm 0,5 độ C nếu không có tác động từ tình trạng ô nhiễm trong bầu khí quyển.

Các nhà nghiên cứu của IPCC nhấn mạnh mức tăng 1,5 độ C được coi là mức cao nhất mà con người có thể đối phó mà không phải chịu những biến động về kinh tế và xã hội trên diện rộng.

Tuy nhiên, ngay cả để làm chậm tình trạng biến đổi khí hậu, báo cáo cho rằng con người không thể chần chừ hơn nữa. Nếu lượng khí thải được cắt giảm trong thập niên tới, nhiệt độ trung bình vẫn có thể tăng 1,5 độ C vào năm 2040 và có thể là 1,6 độ C vào năm 2060 trước khi ổn định ở mức cao.

Ngược lại, nếu các hoạt động gây khí thải nhà kính vẫn tiếp diễn như hiện tại, thì nhiệt độ Trái Đất có thể tăng 2 độ C vào năm 2060 và 2,7 độ C vào cuối thế kỷ này.

Tác giả báo cáo còn nói rõ không thể loại trừ khả năng mức nước biển tăng gần 2 m vào cuối thể kỷ này. Nếu các dự đoán trên thành hiện thực, hàng triệu người ở các khu vực ven biển sẽ đối mặt với lũ lụt vào năm 2100.

Báo cáo trên với những lời cảnh tỉnh được đưa ra trong bối cảnh chỉ còn ba tháng nữa sẽ diễn ra Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu lần 26 (COP26) tại Glasgow (Scotland, Anh)./.

Thanh Hương (TTXVN/Vietnam+)

https://www.vietnamplus.vn/lien-hop-quoc-su-nong-len-toan-cau-la-ma-do-cho-nhan-loai/732865.vnp

G20 cam kết tuân thủ Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu

Ngày 23/7, các bộ trưởng môi trường và năng lượng của Nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã ký một thỏa thuận tái cam kết tuân thủ Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu.

Ngày 23/7, các bộ trưởng môi trường và năng lượng của Nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã ký một thỏa thuận tái cam kết tuân thủ Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, mặc dù các bộ trưởng chưa nhất trí về cách diễn đạt trong hiệp định về giới hạn sự ấm lên của Trái Đất.

Thỏa thuận trên được đưa ra tại Hội nghị Bộ trưởng môi trường, khí hậu và năng lượng của G20, diễn ra trong các ngày 22-23/7 tại Naples, Italy.

Bộ trưởng Chuyển đổi sinh thái của Italy Roberto Cingolani cho biết thỏa thuận này là cơ sở cho việc mở đường cho Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP-26) sẽ diễn ra vào tháng 11/2021 tại Glasgow, Vương quốc Anh.

Ảnh minh họa. (Nguồn: independent.org)

Tuy nhiên, các bộ trưởng vẫn chưa nhất trí về cách diễn đạt về giới hạn sự ấm lên của Trái Đất ở mức từ 1,5-2 độ C mà Hiệp định Paris đề ra và được gần 200 nước phê chuẩn. Hiệp định Paris kêu gọi giới hạn mức nhiệt của Trái Đất ở mức “dưới 2 độ C” và ở mức 1,5 độ C nếu có thể.

Thông cáo chung của hội nghị nêu rõ: “Các nước từ Trung Quốc tới Ấn Độ, Mỹ, Nga và các nước châu Âu đều nhất trí rằng việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, nhất là sau giai đoạn dịch bệnh COVID-19, là công cụ thúc đẩy nhanh và toàn diện tăng trưởng kinh tế, xã hội, tạo việc làm và phải là một tiến trình chuyển đổi mà không ai bị bỏ lại phía sau.”

Hội nghị cấp bộ trưởng môi trường, khí hậu và năng lượng tại Naples là diễn đàn trực tiếp đầu tiên kể từ hội nghị tại Nhật Bản vào tháng 6/2019, trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát khắp thế giới. Hội nghị thể hiện cam kết mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế trong việc ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu.

Năm 2021 là một năm quan trọng đối với quá trình chuyển đổi sinh thái và khí hậu, với một số sự kiện toàn cầu sẽ diễn ra trong những tháng tới: Hội nghị các bên (COP) của ba Công ước Rio về biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học và sa mạc hóa, khởi động Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái của Liên hợp quốc, Hội nghị thượng đỉnh về các hệ thống lương thực của Liên hợp quốc và Hội nghị về đại dương của Liên hợp quốc./.

Minh Châu (TTXVN/Vietnam+)

https://www.vietnamplus.vn/g20-cam-ket-tuan-thu-hiep-dinh-paris-ve-bien-doi-khi-hau/728896.vnp