Posts

Việt Nam ưu tiên dự án năng lượng sạch phù hợp quy hoạch chung

Đó là một trong những nội dung chính trong buổi làm việc giữa Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên với ông Alok Kumar Sharma Bộ trưởng, Chủ tịch Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc lần thứ 26 (COP 26) ngày 14/2.

Thông tin về những nỗ lực tích cực của ngành năng lượng trong thời gian vừa qua, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, tổng vốn đầu tư nguồn và lưới điện của phương án tháng 12/2021 là 135,9 tỷ USD giai đoạn 2021-2030 (121,79 tỷ USD cho nguồn; 14,12 tỷ USD cho lưới). Với phương án điều hành tháng 12/2021, ngành năng lượng đã tiết kiệm được khoảng 28,9 tỷ USD vốn đầu tư trong giai đoạn 2021-2030 so với phương án điều hành tháng 3/2021.

Với mục tiêu lâu dài đến năm 2030, ngành năng lượng phấn đấu đạt quy mô điện than là 38,8 GW, tăng so với hiện nay 18GW và gần như không tăng thêm đến năm 2045.

Giai đoạn 2031-2045, tổng vốn đầu tư nguồn và lưới điện của phương án tháng 12/2021 là 241,51 tỷ USD (230,07 tỷ USD cho nguồn; 11,44 tỷ USD cho lưới). Như vậy phương án điều hành tháng 12/2021 đã tiết kiệm được khoảng 4,2 tỷ USD vốn đầu tư trong giai đoạn 2031-2045 so với phương án điều hành tháng 3/2021.

Nói về những nỗ lực phát triển năng lượng sạch, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, ngay sau Hội nghị COP 26, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã xây dựng phương án cập nhật lại dự thảo Quy hoạch điện VIII.


Nhà máy điện gió Đông Hải 1 (Đông Hải, Duyên Hải, Trà Vinh) với tổng mức đầu tư gần 5.000 tỷ đồng, công suất 100 MW vừa khánh thành ngày 16/1.

Trong đó chú trọng phát triển nguồn điện theo hướng: Đánh giá lại tính khả thi các nguồn nhiệt điện than để tiếp tục giảm điện than; phát triển mạnh điện khí, nhất là điện khí LNG để đảm bảo an ninh năng lượng và tăng khả năng hấp thụ nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo quy mô lớn; phát triển mạnh mẽ nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo, nhất là điện gió và điện mặt trời; bố trí nguồn điện đảm bảo cân đối vùng miền, tránh truyền tải xa và đảm bảo dự phòng hợp lý ở từng miền.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương vẫn tiếp tục nghiên cứu, đề xuất và hoàn thiện dự thảo Quy hoạch điện VIII để phù hợp với các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP 26 như mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và Tuyên bố chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng nhấn mạnh, Việt Nam cần sự hỗ trợ của quốc tế về nguồn vốn ưu đãi để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp vừa đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia vừa đóng góp có hiệu quả mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Bộ Công Thương luôn ưu tiên hỗ trợ trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội, phù hợp quy hoạch chung, tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.

https://petrotimes.vn/viet-nam-uu-tien-du-an-nang-luong-sach-phu-hop-quy-hoach-chung-641974.html

Làm thế nào để giới hạn mức tăng nhiệt ở ngưỡng 1,5°C

Vừa qua, Đại học Công nghệ Sydney (UTS) đã công bố nghiên cứu mới đối với việc phân bổ ngân sách carbon (lượng phát thải CO2 tối đa) toàn cầu lần đầu cho các lĩnh vực khó cắt giảm – 12 ngành công nghiệp vĩ mô chính của mỗi quốc gia.

Các nhà khoa học từ UTS đã tính toán ngân sách carbon liên quan đến năng lượng cho các ngành công nghiệp bao gồm ngành công nghiệp nhôm, thép, hóa chất, xe hơi và hàng không.


Các ngành công nghiệp cơ bản như luyện kim, hàng không… có mức phát thải CO2 rất lớn.

Nghiên cứu cho thấy vẫn có thể hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở ngưỡng 1,5°C và thực hiện Thỏa thuận Khí hậu Paris. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải có hành động khí hậu kịp thời bởi các ngành sử dụng nhiều năng lượng nhận được sự hậu thuẫn từ các ngành tài chính, các chính sách dài hạn và đáng tin cậy từ phía chính phủ.

Ngân sách carbon toàn cầu để giúp mức tăng nhiệt không vượt quá 1,5°C với 67% khả năng diễn ra là 400 tỷ tấn CO2 cho đến năm 2050. Ngành thép sẽ có ngân sách carbon là 19 tỷ tấn CO2 (chiếm 5,0%), ngành xi măng có 9 tỷ tấn CO2 (2,4%) và ngành công nghiệp nhôm có 6 tỷ tấn CO2 (1,6%). Ngân sách carbon lớn nhất được tính toán phân bổ cho các công trình (kiểm soát biến đổi khí hậu và điện năng) với 88 tỷ tấn CO2 (22,6%), và giao thông đường bộ với 82 tỷ tấn CO2 (21,1%).

Phó giáo sư Sven Teske, người đứng đầu nghiên cứu tại UTS cho biết: “Điều quan trọng là phải có một ngân sách carbon dựa trên cơ sở khoa học cho các ngành cụ thể để thực hiện các mục tiêu khí hậu cho tất cả các bộ phận của các ngành này. Chúng tôi nhận thấy rằng cho đến nay, các công ty điện lực có trách nhiệm lớn nhất: Họ phải cung cấp đủ năng lượng tái tạo cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng như hóa chất, thép, xi măng, nhôm và cho các loại xe điện không sử dụng xăng dầu”.

Ngân sách phát thải cho từng ngành cụ thể đó lại được chia nhỏ thành phát thải phạm vi 1, 2 và 3, giúp xác định trách nhiệm đối với lượng phát thải đó.

Cho đến nay, hệ thống này mới chỉ được áp dụng cho các công ty, chưa áp dụng một cách chi tiết cho toàn bộ lĩnh vực của các ngành công nghiệp hoặc một khu vực. Để định hướng đầu tư sao cho phù hợp với cam kết phát thải ròng bằng 0, ngành tài chính cần một mô hình tổng thể cho lộ trình giữ mức tăng nhiệt thấp hơn/không vượt quá 1,5°C. Các nhà khoa học của UTS đã phát triển một mô hình – Mô hình Khí hậu OneEarth (OECM) – để bù đắp lỗ hổng trong các đường lối khử carbon cụ thể trong lĩnh vực công nghiệp.

Mục tiêu phát thải cho một lĩnh vực cụ thể, ví dụ: lĩnh vực công nghiệp thép và lượng phát thải theo “Phạm vi” có thể được sử dụng làm tiêu chuẩn và hướng dẫn cho việc ra quyết định đầu tư. Hiện tại, có thể phát triển các lộ trình phát thải cho các phân loại ngành, sau đó được ghi lại trong một mô hình nhất quán phù hợp với mức tham vọng phát thải ròng bằng 0. Các thành viên của Liên minh Chủ sở hữu Tài sản có mức phát thải ròng bằng không được Liên Hợp Quốc hỗ trợ (tạm gọi tắt là Liên minh) đã bắt đầu sử dụng mô hình.

Mười hai lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ chính được phân tích gồm: Công nghiệp nhôm, hóa chất, xi măng, thép, dệt và đồ da, điện và khí đốt, nông nghiệp, lâm nghiệp, hàng không, công nghiệp vận tải biển, vận tải đường bộ, bất động sản và các công trình.

Günther Thallinger, Chủ tịch Liên minh Chủ sở hữu Tài sản có mức phát thải ròng bằng 0 cho biết: “Lộ trình của lĩnh vực trong Mô hình Khí hậu OneEarth có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho ngành tài chính, về việc ra quyết định đầu tư, bởi mô hình này dựa trên cách tiếp cận tích hợp toàn diện. Nó cũng cho thấy mức độ chi tiết cần có để củng cố phân tích của các nhà đầu tư. Thông tin cung cấp chi tiết về ngân sách và phạm vi từng ngành, đặc biệt là về sự kết nối và trách nhiệm”.

Là trường mô hình tương tác lớn đầu tiên gửi tín hiệu mạnh mẽ đến các cuộc đàm phán tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu và Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP UNFCCC), Liên minh chủ sở hữu tài sản có mức phát thải ròng bằng 0 đang hỗ trợ sự phát triển hơn nữa của mô hình OECM và áp dụng các phát hiện và dữ liệu mới nhất của UTS để đưa thông tin về mục tiêu của nhóm nhà đầu tư, thiết lập quy tắc và tạo lập khuôn khổ báo cáo.

Liên minh là một nhóm quốc tế gồm 60 tổ chức đầu tư cam kết chuyển đổi nguồn đầu tư trị giá khoảng 10 nghìn tỷ USD cho lộ trình phát thải ít hơn/không vượt quá hạn mức vào năm 2050.

UTS đưa ra 6 khuyến nghị cho lãnh đạo các quốc gia:

Ngừng đầu tư vào các dự án dầu khí mới; Đảm bảo loại bỏ than vào năm 2030 ở các nước thuộc tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), từ năm 2030 đến năm 2040, tất cả các khu vực cần dần loại bỏ than; Dừng sản xuất ô tô chở khách sử dụng động cơ đốt trong chạy bằng dầu vào năm 2030;

Chính phủ cần đưa ra các kế hoạch chuyển đổi phát thải ròng bằng không chi tiết; Thiết lập và thực hiện các mục tiêu đầu tư, cho vay và hỗ trợ đầu tư loại bỏ carbon phù hợp với mục tiêu giữ mức tăng nhiệt thấp hơn/không vượt quá 1,5°C;

Các công ty công bố và thực hiện chiến lược giảm thiểu tác động của khí hậu, bao gồm: thiết lập mục tiêu ngắn hạn và trung hạn, thiết lập mục tiêu và minh bạch về các hoạt động cam kết cũng như đầu tư vào năng lượng tái tạo cũng như các giải pháp khí hậu.

Tùng Dương
https://petrotimes.vn/lam-the-nao-de-gioi-han-muc-tang-nhiet-o-nguong-15-c-631674.html

Liên hợp quốc: Sự nóng lên toàn cầu là “mã đỏ cho nhân loại”

Trong báo cáo của Ủy ban khí hậu của LHQ công bố ngày 9/8, các nhà khoa học đã nhấn mạnh sự nóng lên toàn cầu đang ở mức nguy hiểm ngoài tầm kiểm soát với loạt điều kiện thời tiết cực đoan xảy ra.

Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres ngày 9/8 đưa ra lời cảnh báo trên trong bối cảnh xảy ra ngày càng nhiều các kiểu thời tiết cực đoan đe dọa đến cuộc sống người dân.

Theo Tổng thư ký Guterres, báo cáo đã gióng lên hồi chuông “báo tử” đối với việc sử dụng than đá và nhiên liệu hóa thạch, trước khi chúng hủy diệt hành tinh của nhân loại.

Trong báo cáo công bố cùng ngày của IPCC, các nhà khoa học đã nhấn mạnh sự nóng lên toàn cầu đang ở mức nguy hiểm ngoài tầm kiểm soát với loạt điều kiện thời tiết cực đoan xảy ra.

Đàn bò gặm cỏ trên một cánh đồng khô cằn tại bang California, Mỹ ngày 23/7. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Dựa trên hơn 140.000 nghiên cứu khoa học, báo cáo của IPCC đưa ra bức tranh toàn cảnh và chi tiết về cách thức biến đổi khí hậu đang thay đổi thế giới tự nhiên và những gì có thể xảy ra trong tương lai.

Các nhà khoa học đã lấy ví dụ về các điều kiện thời tiết cực đoan để cho thấy sự tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu.

Tại bang California, Mỹ, chỉ riêng trong ngày 9/8, đã có 200.342ha rừng bị thiêu rụi trong khi tại Venice (Italy), khách du lịch phải lội qua những vùng nước sâu ở Quảng trường St.Mark.

Theo các nhà khoa học, con người phải chịu trách nhiệm cho tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay và hành động nhanh chóng để cắt giảm khí phát thải nhà kính. Trong trường hợp các nước không thể thực hiện mục tiêu này, nhiệt độ trung bình toàn cầu có thể vượt mức tăng 1,5 độ C trong vòng 20 năm nữa.

Theo các nhà khoa học, các cam kết cắt giảm khí phát thải mà các nước đưa ra cho đến này vẫn chưa đủ để bắt đầu giảm mức độ khí nhà kình, chủ yếu là khí CO2 do đốt nhiên liệu hóa thạch.

Báo cáo cũng cho biết lượng khí thải “rõ ràng do hoạt động của con người gây ra đẩy nhiệt độ trung bình toàn cầu lên 1,1 độ C so với trung bình thời kỳ tiền công nghiệp và có thể tăng thêm 0,5 độ C nếu không có tác động từ tình trạng ô nhiễm trong bầu khí quyển.

Các nhà nghiên cứu của IPCC nhấn mạnh mức tăng 1,5 độ C được coi là mức cao nhất mà con người có thể đối phó mà không phải chịu những biến động về kinh tế và xã hội trên diện rộng.

Tuy nhiên, ngay cả để làm chậm tình trạng biến đổi khí hậu, báo cáo cho rằng con người không thể chần chừ hơn nữa. Nếu lượng khí thải được cắt giảm trong thập niên tới, nhiệt độ trung bình vẫn có thể tăng 1,5 độ C vào năm 2040 và có thể là 1,6 độ C vào năm 2060 trước khi ổn định ở mức cao.

Ngược lại, nếu các hoạt động gây khí thải nhà kính vẫn tiếp diễn như hiện tại, thì nhiệt độ Trái Đất có thể tăng 2 độ C vào năm 2060 và 2,7 độ C vào cuối thế kỷ này.

Tác giả báo cáo còn nói rõ không thể loại trừ khả năng mức nước biển tăng gần 2 m vào cuối thể kỷ này. Nếu các dự đoán trên thành hiện thực, hàng triệu người ở các khu vực ven biển sẽ đối mặt với lũ lụt vào năm 2100.

Báo cáo trên với những lời cảnh tỉnh được đưa ra trong bối cảnh chỉ còn ba tháng nữa sẽ diễn ra Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu lần 26 (COP26) tại Glasgow (Scotland, Anh)./.

Thanh Hương (TTXVN/Vietnam+)

https://www.vietnamplus.vn/lien-hop-quoc-su-nong-len-toan-cau-la-ma-do-cho-nhan-loai/732865.vnp

G20 cam kết tuân thủ Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu

Ngày 23/7, các bộ trưởng môi trường và năng lượng của Nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã ký một thỏa thuận tái cam kết tuân thủ Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu.

Ngày 23/7, các bộ trưởng môi trường và năng lượng của Nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã ký một thỏa thuận tái cam kết tuân thủ Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, mặc dù các bộ trưởng chưa nhất trí về cách diễn đạt trong hiệp định về giới hạn sự ấm lên của Trái Đất.

Thỏa thuận trên được đưa ra tại Hội nghị Bộ trưởng môi trường, khí hậu và năng lượng của G20, diễn ra trong các ngày 22-23/7 tại Naples, Italy.

Bộ trưởng Chuyển đổi sinh thái của Italy Roberto Cingolani cho biết thỏa thuận này là cơ sở cho việc mở đường cho Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP-26) sẽ diễn ra vào tháng 11/2021 tại Glasgow, Vương quốc Anh.

Ảnh minh họa. (Nguồn: independent.org)

Tuy nhiên, các bộ trưởng vẫn chưa nhất trí về cách diễn đạt về giới hạn sự ấm lên của Trái Đất ở mức từ 1,5-2 độ C mà Hiệp định Paris đề ra và được gần 200 nước phê chuẩn. Hiệp định Paris kêu gọi giới hạn mức nhiệt của Trái Đất ở mức “dưới 2 độ C” và ở mức 1,5 độ C nếu có thể.

Thông cáo chung của hội nghị nêu rõ: “Các nước từ Trung Quốc tới Ấn Độ, Mỹ, Nga và các nước châu Âu đều nhất trí rằng việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, nhất là sau giai đoạn dịch bệnh COVID-19, là công cụ thúc đẩy nhanh và toàn diện tăng trưởng kinh tế, xã hội, tạo việc làm và phải là một tiến trình chuyển đổi mà không ai bị bỏ lại phía sau.”

Hội nghị cấp bộ trưởng môi trường, khí hậu và năng lượng tại Naples là diễn đàn trực tiếp đầu tiên kể từ hội nghị tại Nhật Bản vào tháng 6/2019, trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát khắp thế giới. Hội nghị thể hiện cam kết mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế trong việc ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu.

Năm 2021 là một năm quan trọng đối với quá trình chuyển đổi sinh thái và khí hậu, với một số sự kiện toàn cầu sẽ diễn ra trong những tháng tới: Hội nghị các bên (COP) của ba Công ước Rio về biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học và sa mạc hóa, khởi động Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái của Liên hợp quốc, Hội nghị thượng đỉnh về các hệ thống lương thực của Liên hợp quốc và Hội nghị về đại dương của Liên hợp quốc./.

Minh Châu (TTXVN/Vietnam+)

https://www.vietnamplus.vn/g20-cam-ket-tuan-thu-hiep-dinh-paris-ve-bien-doi-khi-hau/728896.vnp

G7 nhất trí ngừng cung cấp tài chính quốc tế cho các dự án than

Reuters 22/5/2021 đưa tin ngày Thứ Sáu, 21/5 các nước G7 đã nhất trí ngừng cung cấp tài chính quốc tế cho các dự án than vào cuối năm 2021 và đưa ra lộ trình tiến tới chấm dứt tài chính cho tất cả các dự án nhiên liệu hóa thạch, đáp ứng các mục tiêu biến đổi khí hậu đã được nhất trí toàn cầu.

Việc ngừng cấp tài chính quốc tế cho các dự án nhiên liệu hóa thạch được coi là một bước đi quan trọng trên thế giới nhằm hạn chế việc tăng nhiệt độ trái đất lên thêm 1.5 độ C, mức trên giai đoạn tiền công nghiệp và tránh những hậu quả tàn phá do biến đổi khí hậu.

Việc đưa được Nhật Bản vào nhóm các nước ngừng cung cấp tài chính cho các dự án than trong một thời gian ngắn có nghĩa là những nước như Trung Quốc, vẫn đang ủng hộ than, ngày càng cảm thấy bị cô lập và có thể chịu nhiều áp lực hơn để ngừng tài trợ dự án than.

Việc khai thác than tại một mỏ than ở New Castle, Pennsylvania, Mỹ. Ảnh: Reuters/Dane Rhys/Tư liệu.

Trong Thông cáo báo chí chung mà Reuters được đọc, các nước G7 (Mỹ, Anh, Canada, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản, và EU) cho biết, “đầu tư quốc tế vào than cần phải chấm dứt ngay bây giờ”; “Chúng tôi cam kết thực hiện những bước đi cụ thể tiến tới việc chấm dứt hoàn toàn ủng hộ mới, trực tiếp của chính phủ đối với nhà máy nhiệt điện quốc tế vào cuối năm 2021, bao gồm cả thông qua ODA, tài chính xuất khẩu, đầu tư và thúc đẩy tài chính và thương mại”. Đây là một trong những hoạt động chuẩn bị cho Hội nghị Cấp cao G7 sẽ diễn ra tại Cornwall, Anh từ ngày 11-13/6/2021.

Chủ tịch COP26 Alok Sharma đã coi việc ngừng cung cấp tài chính quốc tế cho các dự án than là “một ưu tiên cá nhân” để giúp chấm dứt việc thế giới dựa vào nhiên liệu hóa thạch”, coi Hội nghị cấp cao COP26 là một Hội nghị “đưa than vào lịch sử”; kêu gọi Trung Quốc đưa ra những chính sách trong tương lai gần giúp đạt những mục tiêu dài hạn và Trung Quốc cần phải triển khai những gì Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đề ra.

Các nhóm Xanh đề nghị mục tiêu phải cụ thể hơn

Mặc dù không đưa ra thời điểm cụ thể, các nước G7 nhất trí “làm việc cùng các đối tác toàn cầu để đẩy nhanh triển khai các cỗ máy cân bằng carbon” “mạnh mẽ phi các-bon khu vực năng lượng vào những năm 2030 và dịch chuyển ra khỏi hoạt động tài chính quốc tế cho nhiên liệu hóa thạch”.

G7 tái khẳng định các cam kết của mình đối với thỏa thuận Paris 2015 và cam kết của các nước phát triển đối với mục tiêu tài chính huy động 100 tỷ USD hàng năm, từ năm 2020 đến năm 2050. Đặc phái viên Tổng thống Mỹ về khí hậu John Kerry thúc giục 20 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20) có các biện pháp phù hợp với mục tiêu.

Một số nhóm Xanh hoan nghênh các bước đi của các nước G7, nhưng cho rằng G7 cần phải đưa ra một thời gian biểu chặt chẽ hơn. Trưởng nhóm chính trị của tổ chức Greenpeace UK nói “Có quá nhiều các cam kết vẫn còn mơ hồ khi chúng ta cần các cam kết cụ thể hơn và thời gian biểu cho hành động”.

Đầu tuần qua, IEA đã đưa ra cảnh báo các nhà đầu tư không nên đầu tư vào các dự án mới cung cấp dầu, khí ga và than đá nếu như thế giới muốn đạt cân bằng carbon vào năm 2050. Số nước cam kết đạt cân bằng carbon đang tăng lên nhưng dù các cam kết này được thực hiện đầy đủ, nhưng vẫn còn 22 tỷ tấn CO2 toàn cầu vào năm 2050, và khiến cho nhiệt độ trái đất tăng lên 2.1 độ C vào năm 2100, theo báo cáo của IEA trong “Cân bằng carbon vào năm 2050”./.

Thanh Bình
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/g7-nhat-tri-ngung-cung-cap-tai-chinh-quoc-te-cho-cac-du-an-than-611880.html

Chuyển đổi xanh toàn cầu: Thế giới sẽ vận hành như thế nào?

Các chuyên gia Klaus Mike, Dmitry Belov, Agrafena Kotova, Evgeny Kuznetsov, Anita Mujumdar, Aleksei Shadrin đã trình bày báo cáo về chủ đề chuyển đổi năng lượng toàn cầu theo hướng “xanh” hơn bằng cách giảm phát thải carbon.

Các chuyên gia nhận định, chuyển đổi “xanh” toàn cầu đang ngày càng gia tăng bất chấp khủng hoảng đại dịch và mâu thuẫn giữa các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) trong các cuộc đàm phán thuộc khuôn khổ chương trình nghị sự về khí hậu của Liên hợp quốc.

Số lượng các thảm họa tự nhiên và nhân đạo do hậu quả của biến đổi khí hậu gây ra đang gia tăng đều đặn theo từng năm. Tuy nhiên, thế giới vẫn còn đó những mâu thuẫn trong chính sách khí hậu toàn cầu. Năm 2019, trong các cuộc đàm phán tại Hội nghị thứ 25 của UNFCCC, các nước đã không thể thống nhất về Điều 6 về các cơ chế tài chính của Thỏa thuận Paris 2015. Năm 2020, hội nghị khí hậu lần thứ 26 của UNFCCC đã bị hoãn lại đến năm 2021 do tác động của đại dịch Covid-19. Đồng thời, bất chấp đại dịch, chương trình nghị sự về khí hậu đã được củng cố đáng kể. Chuyển đổi “xanh” dựa trên nhiều khía cạnh như công nghệ kỹ thuật số đang trở thành đối tượng cạnh tranh giữa các quốc gia và tập đoàn. Nhiều quốc gia, ngân hàng và các tập đoàn quốc tế đã tham gia cuộc cạnh tranh này, tiêu biểu nhất là Liên minh châu Âu (EU).

Thỏa thuận khí hậu Paris 2015 với mục tiêu giữ cho sự ấm lên toàn cầu trong khoảng 2 độ C và tìm cách hạn chế xuống 1,5 độ C vào năm 2100 đặt ra quỹ đạo mới cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới và hình thành xu hướng vĩ mô cho quá trình khử carbon. Bất chấp những bất đồng nói trên giữa các bên tham gia UNFCCC về một số vấn đề, nhiều quốc gia và tập đoàn hàng đầu thế giới đã tự nguyện công bố các mục tiêu về trung hòa hoàn toàn carbon vào giữa thế kỷ XXI. Điều này xuất phát chủ yếu từ áp lực của dân chúng, đòi hỏi chính phủ của họ phải hành động tích cực để ngăn chặn tình trạng nóng lên toàn cầu. Các doanh nghiệp cũng theo đó để chạy đua nhằm chiếm lĩnh những cơ hội thị trường và công nghệ mới.

Biến đổi khí hậu và hậu quả của nó là mối đe dọa thực sự đối với GDP và sinh kế của người dân ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thiệt hại kinh tế hàng năm do thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan lên đến hàng tỷ USD. Tác động của biến đổi khí hậu cũng bao gồm việc băng vĩnh cửu tan chảy và sự xuất hiện của các loại bệnh mới. Để giảm thiểu thiệt hại do tác động của biến đổi khí hậu, các quốc gia, khu vực, doanh nghiệp đang tích cực thực hiện các chiến lược và biện pháp thích ứng với khí hậu. Một số biện pháp nổi bật như hiện đại hóa hệ thống chăm sóc sức khỏe, đã được đưa vào các gói khắc phục khủng hoảng.

Cùng với những con số kỷ lục về tình trạng biến đổi khí hậu, thế giới cũng đã ghi nhận những kỷ lục trong lĩnh vực tài chính và công nghệ. Lĩnh vực đầu tư vào tài sản “xanh” đang phát triển mạnh và chứng tỏ vị trí quan trọng trong quá trình chuyển đổi “xanh” toàn cầu. Lĩnh vực này trong thời kỳ khủng hoảng ghi nhận thành công hơn các lĩnh vực kinh tế truyền thống, đồng thời chứng tỏ sự ổn định tài chính hơn. Khối lượng trái phiếu “xanh” phát hành tăng mạnh so với năm 2019 và đạt kỷ lục 350 tỷ USD trong năm 2020. Theo báo cáo của PwC, một phân khúc mới của thị trường đầu tư mạo hiểm đã xuất hiện trong năm 2020: công nghệ khí hậu. Phân khúc này hội tụ các tập đoàn, công ty lớn toàn cầu như Amazon, Tesla, Google, Microsoft đã và đang đầu tư. Những dữ kiện này cho thấy, loài người đang ở giai đoạn đầu của một xu hướng dài hạn hướng tới sự chuyển đổi “xanh” toàn cầu của nền kinh tế. Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến sự cạnh tranh cho các thị trường chính và kiểm soát các dòng tài chính quốc tế. Câu hỏi đặt ra là: ai sẽ là người dẫn đầu và ai là người thua cuộc trong cuộc đua toàn cầu này.

Việc thông qua Thỏa thuận xanh châu Âu cho thấy sự tuân thủ chặt chẽ của EU đối với chiến lược trung hòa carbon vào năm 2050. Nó được lên kế hoạch chi ít nhất 1000 tỷ euro trong thập kỷ này. Mọi thứ chỉ ra rằng, EU đang trở thành người dẫn đầu trong cuộc đua “xanh” nhằm giảm sự phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu và duy trì vị thế là trung tâm kinh tế toàn cầu có khả năng thiết lập các tiêu chuẩn tại các thị trường mới đầy hứa hẹn.

Đồng thời, để bảo vệ thị trường của mình và có thể bổ sung ngân sách, EU đã giới thiệu chính sách thuế carbon xuyên biên giới. Điều này đe dọa nghiêm trọng đến các nhà cung cấp năng lượng, vật liệu cơ bản và hàng tiêu dùng cho EU như Nga, các quốc gia Trung Đông, Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia khác nếu các nền kinh tế này không kịp trung hòa carbon trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa của mình. Thật hợp ký khi cho rằng những người thua cuộc từ sự chuyển đổi “xanh” của EU nói riêng và trong nền kinh tế toàn cầu nói chung sẽ trở thành các quốc gia sản xuất hàng hóa với lượng khí thải carbon cao hơn đối thủ cạnh tranh của họ. Để không nằm trong số những người chạy đua hàng đầu, các quốc gia đang phát triển cần phải có hành động tương xứng, khéo léo sử dụng các lợi thế cạnh tranh hiện có và tiềm năng công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thực tế cho thấy, chúng ta đang ở trong quá trình đổi mới đang diễn ra với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế lẫn công nghệ.

Công nghệ số hóa đã thành công trong thời gian đại dịch, cho phép các chính phủ và doanh nghiệp hóa giải một số hậu quả tiêu cực từ cuộc khủng hoảng y tế. Trong thời gian đại dịch, tầm quan trọng của công nghệ nhằm tăng tính minh bạch, nhận dạng kỹ thuật số, giám sát và đánh giá rủi ro, nền kinh tế không tiếp xúc, đầu tư công, trí tuệ nhân tạo và máy học đã tăng lên. Số hóa trở thành một phần quan trọng không thể thiếu của nhiều gói khôi phục vượt khủng hoảng. Ví dụ, Trung Quốc đã công bố gói kích thích kinh tế trị giá 1.400 tỷ USD. Đáng chú ý, sự chú trọng đã được chuyển sang đầu tư kỹ thuật số và cơ sở hạ tầng thế hệ tiếp theo. EU cũng đang ưu tiên số hóa và khử carbon như một phần của gói khôi phục kinh tế sau đại dịch với khẩu hiệu chính thức là “Phục hồi xanh và kỹ thuật số”.

Viễn Đông
https://petrotimes.vn/chuyen-doi-xanh-toan-cau-the-gioi-se-van-hanh-nhu-the-nao-597385.html