In 3D dưới đáy biển thay đổi cuộc chơi ngành năng lượng

Oilprice ngày 1/7 đưa tin, ngành công nghiệp dầu khí đang áp dụng các công nghệ mới để tiết kiệm thời gian và chi phí, và nhất là giảm lượng khí thải carbon trong chuỗi cung ứng khi ngành đang chịu áp lực ngày càng tăng, vừa phải tăng lợi tức cho các cổ đông vừa phải chống biến đổi khí hậu.

Cùng với trí tuệ nhân tạo, kỹ thuật số và robot, các công ty dầu khí và nhà cung cấp dịch vụ dầu mỏ lớn nhất thế giới đang đặt cược vào công nghệ in 3D nhằm hợp lý hóa sản xuất, cắt giảm chi phí và tiết kiệm thời gian cũng như giảm khí thải trong sản xuất phụ tùng.

Trong thập kỷ qua, một số công ty dầu khí lớn nhất trên thế giới đã chuyển sang công nghệ in 3D để sản xuất phụ tùng, tạo nhà kho kỹ thuật số cho mua sắm và quản lý việc cung cấp các thiết bị thay thế cần thiết. Đại gia Shell là một ví dụ điển hình. Shell tin rằng công nghệ in 3D có thể giúp giảm chi phí, thời gian giao hàng và giảm lượng khí thải carbon trong sản xuất phụ tùng thay thế. Nick van Keulen, Giám đốc Kỹ thuật số hóa chuỗi cung ứng và Angeline Goh, Giám đốc Công nghệ in 3D cho biết Shell có các dự án đang thực hiện với các công ty khác trong ngành, trong đó có Baker Hughes, để thúc đẩy đổi mới trong công nghệ in 3D phục vụ ngành năng lượng.


Trung tâm sáng tạo công nghệ của Baker Hughes tại Houston, Texas, Mỹ. Ảnh: Baker Hughes

Gã khổng lồ Shell đã khởi động quy trình in 3D nội bộ từ năm 2011 với một máy in laser kim loại để chế tạo thiết bị thử nghiệm trong phòng thí nghiệm tại Trung tâm công nghệ Shell Amsterdam (STCA). 10 năm sau, Shell hiện có 15 máy in polymer, gốm và kim loại tại các trung tâm công nghệ của hãng ở Amsterdam, Hà Lan và ở Bangalore, Ấn Độ.

Nhờ vào công nghệ in 3D các phụ tùng thay thế, Shell đã có “khoản tiết kiệm đáng kể” trong hoạt động dầu khí ngoài khơi ở Nigeria trong năm 2020. Ở Nigeria, việc thay thế một bộ phận nhỏ trong một bộ phận lớn của thiết bị mà các bộ phận thay thế không còn được sản xuất sẽ mất khoảng 16 tuần; trong bối cảnh đó, Shell đã tạo mô hình bằng máy quét 3D và in ra bộ phận thay thế. Shell cho biết công nghệ in 3D đã giúp cắt giảm 90% chi phí bảo dưỡng so với cách thay thế thông thường và chỉ cần 2 tuần để sản xuất phụ tùng. Shell đang làm việc với các nhà cung cấp để phát triển một kho kỹ thuật số các bộ phận cần in 3D theo nhu cầu. Baker Hughes là một trong những đối tác của Shell.


Một cơ sở khai thác dầu khí ngoài khơi của Shell tại châu Phi. Ảnh: Royal Duch Shell.

Alessandro Bresciani, Phó Chủ tịch Dịch vụ của Baker Hughes cho biết: “Với Shell, chúng tôi áp dụng công nghệ in 3D để giảm thiểu rủi ro chuỗi cung ứng khi thời gian giao hàng là quan trọng”. “Tất cả các chủ thể trong chuỗi giá trị này cần hợp tác phát triển một khuôn khổ phù hợp để công nghệ in 3D mang lại giá trị nâng cao cho ngành năng lượng”. Edoardo Gonfiotti, Kỹ sư dự án tại Baker Hughes có trụ sở tại Florence, Ý nhấn mạnh: “Công nghệ in 3D là một công cụ cho phép các ý tưởng trở thành hiện thực trong một thời gian rất ngắn”.

Cuối năm 2020, Baker Hughes và Würth Industry North America (WINA) đã công bố dịch vụ in 3D theo yêu cầu trong lĩnh vực dầu khí, năng lượng tái tạo, phát điện, hàng hải, ô tô và hàng không vũ trụ. Các công ty trong lĩnh vực năng lượng đang tiến hành in 3D dưới nước. Đầu năm nay, Kongsberg Ferrotech của Na Uy cho biết họ đang phát triển công nghệ cho phép in 3D dưới nước, cùng với sự hợp tác của các tổ chức nghiên cứu của Na Uy và tập đoàn năng lượng khổng lồ Equinor. Kongsberg Ferrotech cho biết nếu thành công, việc triển khai dự án in 3D dưới đáy biển có thể là một yếu tố thay đổi cuộc chơi trong việc bảo trì và sửa chữa các bộ phận máy móc nằm dưới biển; và sẽ là một bước tiến quan trọng khác đối với việc “đưa xưởng sửa chữa đến nơi đường ống bị hỏng”.

Công nghệ in 3D có thể tạo ra một cuộc cách mạng trong ngành năng lượng, từ giúp tiết kiệm chi phí và thời gian cho đến giảm khí thải carbon trong quá trình sản xuất phụ tùng thay thế.

Thanh Bình
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/in-3d-duoi-day-bien-thay-doi-cuoc-choi-nganh-nang-luong-616089.html

Xe điện có sạch hơn ô tô chạy xăng?

Việc sử dụng một chiếc xe ô tô điện (EV) liệu có sạch hơn xe chạy xăng? Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng chắc chắn xe điện sẽ sạch hơn xe xăng. Nhưng trên thực tế, do tác động của việc khai thác nhiều vật liệu sử dụng trong sản xuất pin khiến tác động ảnh hưởng xấu đến môi trường là không hề nhỏ.

Đây là chủ đề trong một bài phân tích mới của Reuters của Paul Lienert, tìm cách chỉ ra chính xác thời gian bạn phải sở hữu và lái một chiếc EV để có thể ngang bằng với một chiếc xe chạy bằng xăng, trước khi bạn gây hại đến môi trường. Phân tích được thực hiện bằng cách sử dụng “dữ liệu từ một mô hình tính toán lượng khí thải trong đời của các phương tiện giao thông” do Phòng thí nghiệm Quốc gia Argonne ở Chicago phát triển.

Ảnh minh họa.

Jarod Cory Kelly, chuyên gia năng lượng chính cho biết: Sự cần thiết của việc phân tích là rõ ràng, bởi vì “sản xuất xe điện tạo ra nhiều carbon hơn so với xe động cơ đốt trong, chủ yếu là do khai thác và xử lý khoáng chất trong pin EV và sản xuất pin điện”.

Các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường như “kích thước của pin EV, mức tiết kiệm nhiên liệu của một chiếc xe chạy pin và cách tạo ra năng lượng được sử dụng để sạc EV”. Pin của chúng chứa các thành phần như lithium, đòi hỏi một lượng năng lượng đáng kể để tạo nguồn và chiết xuất. Đó là những yếu tố lớn gây hại đến môi trường mà ít ai nhận thấy.

Bảo Vy
https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/xe-dien-co-sach-hon-o-to-chay-xang-616411.html

Chuyển đổi chai nhựa đã qua sử dụng thành hương liệu vani

Chai nhựa đã được biến đổi thành hương liệu vani bằng cách sử dụng vi khuẩn biến đổi gen. Đây là lần đầu tiên một loại hóa chất có giá trị được chiết xuất thành công từ nhựa phế thải.

Việc tận dụng chai nhựa thành những vật liệu sinh lợi hơn có thể làm cho quá trình tái chế trở nên hấp dẫn và hiệu quả hơn rất nhiều. Hiện nay nhựa mất khoảng 95% giá trị như một nguyên liệu sau một lần sử dụng. Khuyến khích thu gom và sử dụng tốt hơn những chất thải như vậy là chìa khóa để giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa toàn cầu.

Các nhà nghiên cứu đã phát triển các enzym đột biến để phân hủy polyme polyethylene terephthalate được sử dụng cho chai đựng đồ uống thành đơn vị cơ bản của nó, axit terephthalic (TA). Các nhà khoa học hiện đã sử dụng lỗi để chuyển đổi TA thành vani.

Hương liệu vani được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp thực phẩm và mỹ phẩm. Nó cũng là một hóa chất quan trọng được sử dụng với số lượng lớn để sản xuất dược phẩm, sản phẩm tẩy rửa và thuốc diệt cỏ. Nhu cầu toàn cầu đối với nguyên liệu này đang tăng, tính đến năm 2018 là 37.000 tấn, vượt xa nguồn cung từ đậu vani tự nhiên. Khoảng 85% lượng hương liệu vani hiện nay được tổng hợp từ các hóa chất có nguồn gốc từ nhiên liệu hóa thạch.

Joanna Sadler, Đại học Edinburgh, người thực hiện nghiên cứu mới, cho biết: “Đây là ví dụ đầu tiên về việc sử dụng một hệ thống sinh học để xử lý rác thải nhựa thành một hóa chất công nghiệp có giá trị và nó có những tác động rất thú vị đối với nền kinh tế tuần hoàn.”

“Công việc của chúng tôi cho thấy nhựa không phải một loại chất thải có vấn đề, thay vào đó là một nguồn vật liệu mới có thể tạo ra các sản phẩm có giá trị cao”, Stephen Wallace, cũng ở Đại học Edinburgh, cho biết.

Khoảng 1 triệu chai nhựa được bán mỗi phút trên khắp thế giới và chỉ 14% trong số đó được tái chế. Đến giờ, ngay cả những chai được tái chế cũng chỉ có thể biến thành sợi sử dụng cho quần áo hoặc thảm.

Nghiên cứu mới, được công bố trên tạp chí Green Chemistry, đã sử dụng vi khuẩn E coli được thiết kế để biến đổi TA thành hương liệu vani. Wallace cho biết, nhóm đã làm ấm nước chứa TA và vi sinh vật đến 37 độ C trong một ngày, điều kiện tương tự như để nấu bia, và chuyển đổi thành công 79% TA thành vanillin.

Tiếp theo, các nhà khoa học sẽ tinh chỉnh thêm vi khuẩn để tăng tỷ lệ chuyển đổi hơn nữa, “Chúng tôi nghĩ rằng tỷ lệ có thể sẽ tiếp tục cải thiện khá nhanh chóng,” theo Wallace. Họ cũng sẽ tìm cách mở rộng quy trình để chuyển đổi được lượng nhựa lớn hơn. Các phân tử có giá trị khác cũng có thể được ủ từ TA, chẳng hạn như một số loại phân tử được sử dụng trong nước hoa.

Ellis Crawford, thuộc Hiệp hội Hóa học Hoàng gia Anh, đánh giá: “Đây là một ứng dụng thực sự thú vị của khoa học vi sinh vật để cải thiện tính bền vững. Sử dụng vi sinh để biến nhựa phế thải, có hại cho môi trường, thành một loại hàng hóa quan trọng là một minh chứng về hóa học xanh”.

Nghiên cứu gần đây cho thấy chai lọ là loại ô nhiễm nhựa phổ biến thứ hai trong các đại dương, sau túi nhựa. Năm 2018, các nhà khoa học đã vô tình tạo ra một loại enzyme đột biến có khả năng phá vỡ chai nhựa và các nghiên cứu tiếp theo đã tạo ra một loại siêu enzyme có thể ăn chai nhựa nhanh hơn.

An Hạ
http://vietq.vn/chuyen-doi-chai-nhua-da-qua-su-dung-thanh-huong-lieu-vani-d188472.html

Thử nghiệm công nghệ biến không khí thành nước uống đạt chuẩn

Các nhà khoa học Israel đã tiến hành thành công thí nghiệm thu nước uống từ không khí. Điều đặc biệt là nước thu được vẫn đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn nước sạch của Israel và WHO.

Các nhà khoa học Israel vừa công bố công trình nghiên cứu cho thấy nguồn nước chiết xuất từ không khí ở các đô thị lớn vẫn đáp ứng đầy đủ mọi tiêu chuẩn để sử dụng làm nước uống. Nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm chuyên gia từ phòng thí nghiệm tại Đại học Tel Aviv, do nghiên cứu sinh Offir Inbar đứng đầu và được giám sát bởi Giáo sư Dror Avisar, Viện trưởng Viện Nước ứng dụng Moshe Mirilashvili. Tham gia nghiên cứu còn có nhóm nghiên cứu và phát triển của Công ty Watergen, Giáo sư Alexandra Chudnovsky và các nhà nghiên cứu hàng đầu đến từ Đức.

Trong các thí nghiệm, nhóm nghiên cứu không dùng bất cứ thiết bị lọc nào nhưng nước thu được vẫn đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn nước sạch của Israel và của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

Offir Inbar cho biết bầu khí quyển của Trái Đất chứa lượng nước khổng lồ lên đến hàng tỷ tấn, 98% trong đó là dưới dạng khí và có thể khai thác làm nước sinh hoạt. Nhóm nghiên cứu đã áp dụng hàng loạt phân tích hóa học kỹ thuật cao và phát hiện trong hầu hết các trường hợp, tại nhiều thời điểm khác nhau trong năm, nguồn nước chiết xuất từ không khí ở thành phố Tel Aviv, đô thị lớn nhất của Israel, đều có thể uống được.

Các nhà nghiên cứu giải thích rằng tình trạng thiếu nước sạch ngày càng gia tăng trên toàn cầu đòi hỏi tư duy bên ngoài và phát triển các công nghệ mới để sản xuất nước uống. Bầu khí quyển của Trái đất là nguồn nước rộng lớn và có thể tái tạo, có thể là một nguồn nước uống thay thế. Bầu khí quyển của chúng ta chứa hàng tỷ tấn nước, 98% trong số đó ở trạng thái khí – tức là hơi nước.

Offir Inbar giải thích đây là nghiên cứu đầu tiên trên thế giới xem xét ô nhiễm không khí từ một góc độ khác – ảnh hưởng của nó đối với nước uống được tạo ra từ không khí. Theo Inbar, không có hệ thống lọc hoặc xử lý nào được lắp đặt trong thiết bị được sử dụng trong nghiên cứu; nước được tạo ra là nước thu được từ không khí.

Các nhà nghiên cứu đã thực hiện một loạt phân tích hóa học nâng cao về nước và phát hiện ra rằng trong phần lớn trường hợp, bao gồm trong các mùa khác nhau và vào thời điểm khác nhau trong ngày, nước chiết xuất từ ​​không khí ở trung tâm của Tel Aviv là an toàn. Ngoài ra, với sự trợ giúp của nhiều công nghệ tiên tiến để theo dõi thành phần của khí quyển và bằng cách áp dụng các phương pháp thống kê tiên tiến.

“Điều gây quan ngại hiện nay là nước uống lấy từ không khí ở các khu vực đô thị có thể sẽ không đạt tiêu chuẩn và chúng tôi đã chứng minh được không phải như vậy. Chúng tôi hiện đang mở rộng nghiên cứu sang khu vực khác ở Israel, bao gồm Vịnh Haifa và các khu vực nông nghiệp, nhằm điều tra sâu về tác động của các chất ô nhiễm khác nhau đối với chất lượng nước khai thác từ không khí”, ông Inbar khẳng định.


Ông Offir Inbar tại phòng thí nghiệm của Đại học Tel Aviv. Ảnh: Đại học Tel Aviv

Ngoài ra, nhờ áp dụng các công nghệ mới nhất và các phương pháp thống kê hiện đại, nhóm nghiên cứu đã lượng hóa được mối quan hệ giữa khối lượng không khí bốc lên trong khí quyển với thời điểm tốt nhất để “thu hoạch” nước. Nghiên cứu này còn có ý nghĩa với các quốc gia không có biển nhưng lại thiếu nước ngọt.

Các nhà nghiên cứu cho rằng những quốc gia có khí hậu nóng ẩm, với phương pháp trên, chi phí lọc nước từ không khí sẽ giảm xuống rất nhiều. Bởi hiện nay, nước biển khử mặn chiếm một phần khá lớn trong nguồn nước uống hàng ngày tại Israel, nhưng chi phí đầu tư và giá thành vẫn tương đối cao.

Trước đó, Công ty Water-Gen ở Israel đã chế tạo thành công cỗ máy giúp ngưng tụ hơi nước trong không khí thành nước uống tinh khiết. Theo đó, các nhà nghiên cứu sử dụng hệ thống gồm nhiều lá nhựa mỏng xếp chồng lên nhau để làm ngưng tụ hơi nước từ dòng không khí di chuyển qua thiết bị theo các hướng khác nhau. “Mục tiêu của chúng tôi là thu nước từ không khí với mức tiêu thụ năng lượng tối thiểu”, ông Arye Kohavi, Giám đốc điều hành của Water-Gen cho biết.

Thiết bị hiện đang được lắp đặt với 3 kích cỡ khác nhau. Ở cùng nhiệt độ 26 độ C và độ ẩm 60%, cỗ máy lớn nhất ngưng tụ được 3.122 lít nước/ngày, cỗ máy trung bình tạo ra 446 lít nước/ngày và cỗ máy nhỏ nhất (sử dụng trong nhà hoặc văn phòng) sản xuất được 15 lít nước/ngày.

Công ty còn tìm cách đưa công nghệ này tới những nơi không có nước sạch và khí hậu nóng ẩm như Mỹ Latinh, Đông Nam Á, châu Phi. “Tại khu vực có khí hậu nóng hoặc ẩm ướt hơn, hệ thống sẽ sản xuất được nhiều nước hơn so với mức trung bình”, ông Kohavi nói.

Bảo An
http://vietq.vn/thu-nghiem-cong-nghe-bien-khong-khi-thanh-nuoc-uong-dat-chuan-d188302.html

LHQ kêu gọi tăng hành động hướng tới mục tiêu về năng lượng sạch

Tổng thư ký Guterres nhấn mạnh nhân loại đang bị bỏ xa trong trong cuộc chạy đua với thời gian để đạt được SDG7 vào năm 2030 và trung hòa khí thải gây hiệu ứng nhà kính vào giữa thế kỷ này.

Ngày 21/6, Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres kêu gọi tất cả các bên liên quan tăng cường hành động hướng tới Mục tiêu Phát triển Bền vững thứ 7 (SDG7) về phát triển năng lượng sạch với chi phí hợp lý.

Phát biểu khai mạc diễn đàn chuyên đề cấp bộ trưởng về Đối thoại cấp cao về năng lượng, ông Guterres nhấn mạnh nhân loại đang bị bỏ xa trong trong cuộc chạy đua với thời gian để đạt được SDG7 vào năm 2030 và trung hòa khí thải gây hiệu ứng nhà kính vào giữa thế kỷ này.

Tổng thư ký khẳng định: “Đến năm 2030, chúng ta phải cắt giảm 45% lượng khí thải toàn cầu so với năm 2010 và tiếp tục đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050, nhân loại cần phải tăng tốc thần kỳ, vì việc tiếp cận được nguồn năng lượng sạch và chi phí hợp lý ở cấp độ toàn cầu là rất quan trọng.”

Cánh đồng pin năng lượng Mặt Trời dưới chân Núi Cấm của Nhà máy điện Mặt Trời Sao Mai – An Giang. (Ảnh: TTXVN)

Tổng thư ký Guterres kêu gọi các quốc gia, thành phố, tổ chức tài chính và doanh nghiệp nâng cao mục tiêu và công bố cam kết trong khuôn khổ Energy Compacts (cơ chế toàn diện nhất của Liên hợp quốc nhằm phối hợp các cam kết tự nguyện về các mục tiêu trong SDG7 để đến năm 2030 đạt được các mục tiêu trong SDG7 và đến năm 2050, thế giới không có khí thải nhà kính).

Để đạt được mục tiêu trên, thế giới cần cấp điện cho 760 triệu người hiện vẫn trong tình trạng không có điện sử dụng; đảm bảo các phương thức nấu ăn sạch đối với 2,6 tỷ người vẫn đang sử dụng các nguồn nhiên liệu gây hại với môi trường; tăng mạnh quy mô, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, đến năm 2040 ngừng sử dụng năng lượng than ở cấp độ toàn cầu, giảm dần trợ giá cho năng lượng hóa thạch và tái định hướng các nguồn vốn đến việc chuyển đối năng lượng một cách công bằng và toàn diện; thúc đẩy cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng, tạo ra việc làm trong ngành năng lượng sạch; tăng gấp 3 đầu tư vào năng lượng sạch và đảm bảo sự chuyển đổi năng lượng được công bằng toàn diện, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Tổng thư ký Liên hợp quốc nhấn mạnh thêm rằng các nước phát triển phải tôn trọng cam kết cung cấp 100 tỷ USD hằng năm cho các hoạt động chống biến đổi khí hậu ở các nước đang phát triển.

Ông nói: “Đối thoại Cấp cao về Năng lượng là cột mốc quan trọng đối với Hội nghị thượng đỉnh các bên tham gia Công ước khí hậu lần thứ 26 (COP26) và khi chúng tôi hướng đến việc phục hồi sau đại dịch COVID-19, chúng tôi có cơ hội để hoạch định một tương lai bền vững”./.

Kiều Trang (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/lhq-keu-goi-tang-hanh-dong-huong-toi-muc-tieu-ve-nang-luong-sach/721674.vnp

Lớp phủ bề mặt thu giữ giọt bắn trong không khí

Bệnh COVID-19 chủ yếu lây truyền qua chất dịch đường hô hấp được phát tán trong không khí khi người nhiễm bệnh nói chuyện, ho hoặc hắt hơi – bao gồm các giọt bắn lớn và hạt khí dung (aerosol).

Biện pháp chính để loại bỏ những giọt bắn này là mở cửa sổ và sử dụng các thiết bị lọc không khí để thu giữ và loại chúng ra khỏi không khí nhanh hơn. Để tăng cường hiệu quả phòng chống nguy cơ nhiễm COVID-19 trong không khí, các nhà nghiên cứu tại Đại học Northwestern (Mỹ) vừa phát triển thành công một loại lớp phủ mới trong suốt chống virus, có thể biến bất kỳ bề mặt nào thành “tấm keo dính” để thu giữ các giọt bắn trong không khí.

Ảnh chụp 3D cho thấy lớp phủ mới thật sự có hiệu quả thu giữ các giọt bắn trong không khí.

Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã sử dụng PAAm-DDA – loại polymer thường được sử dụng trong các sản phẩm chăm sóc tóc và mỹ phẩm khác với công dụng giữ ẩm – để làm thành phần chính của lớp phủ mới. Họ dùng cọ quét dung dịch lỏng này lên nhiều bề mặt khác nhau và thực hiện các thử nghiệm để đánh giá hiệu quả thu giữ giọt bắn giữa bề mặt được quét chất phủ và bề mặt không có chất phủ.

Kết quả cuối cùng cho thấy so với tấm chắn bằng kính Mica bình thường, tấm chắn được quét lớp phủ mới đã “bắt” được hầu hết các hạt khí dung và 80% các giọt bắn lớn. Ngoài ra, do lớp phủ chứa PAAm-DDA giúp cho tấm chắn không bị thấm bẩn bởi các giọt bắn nên nó không cần phải làm sạch thường xuyên như các tấm chắn không được quét lớp chất phủ. Sau một thời gian sử dụng, người dùng chỉ cần lau sạch bằng nước và tiến hành quét lại.

Nhờ ưu điểm là có thể sử dụng trên nhiều bề mặt (bao gồm bê tông, kim loại và vải), trưởng nhóm Jiaxing Huang cho biết lớp phủ mới có thể dùng cho các khu vực ít tiếp xúc như tường hoặc rèm cửa để biến chúng thành “thiết bị chức năng” giúp thu giữ các aerosol.

Thiếu vitamin D có thể khiến bệnh COVID-19 thêm nặng

Theo phóng viên TTXVN tại Tel Aviv, nghiên cứu mới của trường Đại học Bar Ilan (Israel) cho thấy những bệnh nhân COVID-19 bị thiếu vitamin D có nguy cơ bị biến chứng nặng cao hơn người bình thường.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu 1.176 bệnh nhân COVID-19 nhập viện trong giai đoạn từ tháng 4-2020 đến tháng 2-2021, trong đó 253 người có hàm lượng vitamin D trong cơ thể dưới mức trung bình. Những người này đều được đo hàm lượng vitamin D tối thiểu 14 ngày và tối đa là 730 ngày trước khi có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2. Quá trình điều trị cho thấy họ dễ bị các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí nguy hiểm tính mạng, cao hơn những người khác. Dù vậy, nhóm tác giả nhấn mạnh nghiên cứu này không khẳng định bổ sung vitamin D sẽ giúp bệnh nhân COVID-19 giảm bớt các triệu chứng nặng hoặc nguy cơ tử vong.

AN NHIÊN (Theo WION, Daily Mail)
https://baocantho.com.vn/lop-phu-be-mat-thu-giu-giot-ban-trong-khong-khi-a134536.html