Nguy cơ lãng phí từ sản xuất dư thừa

Sản xuất dư thừa là một trong những lãng phí được đánh giá là nghiêm trọng và tồi tệ nhất trong các dạng lãng phí vì nó tiềm ẩn hoặc/và tạo ra các lãng phí khác.

Theo chuyên gia năng suất, sản xuất dư thừa có thể gây ra các nguy cơ sau đối với doanh nghiệp: Nếu sản xuất quá nhiều, doanh nghiệp sẽ lưu kho nhiều, khó thay đổi dòng sản phẩm theo thị hiếu và tiến bộ khoa học công nghệ, từ đó gia tăng rủi ro sự lỗi thời hàng hóa.

Đây sẽ là những hàng hóa, sản phẩm không theo kịp yêu cầu, đòi hỏi của thị trường và tiến bộ công nghệ, bị tụt hậu so với những sản phẩm ở thời điểm hiện tại. Việc loại bỏ những hàng hóa, sản phẩm này sẽ dẫn đến nguy cơ về sự giảm sút doanh thu và thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Sản xuất dư thừa cũng góp phần làm doanh nghiệp phải đối mặt với tình hình sản phẩm, hàng hóa hết hạn.

Chẳng hạn như mặt hàng dược phẩm, thực phẩm… doanh nghiệp không chỉ cần bảo quản đúng cách mà còn phải theo dõi hạn dùng. Nếu hết hạn sử dụng doanh nghiệp phải hủy các loại hàng hóa này, như vậy đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải tốn chi phí cho khoản tiến mua nguyên liệu, đầu vào ban đầu; bên cạnh đó phải mất thêm một khoản chi phí để xử lý và thải bỏ các hàng hóa hết hạn. Sản xuất dư thừa góp phần tăng thêm số lượng tồn kho so với nhu cầu thực, dẫn đến lượng tồn kho vượt quá khả năng lưu trữ, chiếm dụng diện tích. Từ đó phát sinh thêm chi phí cho các hoạt động lưu trữ và bảo quản hàng hóa.


Sản xuất dư thừa là một trong những lãng phí được đánh giá là nghiêm trọng và tồi tệ nhất trong các dạng lãng phí.

Với sản xuất dư thừa doanh nghiệp có thể phải bán các sản phẩm này với giá thấp hoặc phải bỏ đi dưới dạng phế liệu hoặc phải dùng loại đầu vào, bàn giao sản phẩm cho khách hàng với chất lượng cao hơn mức yêu cầu. Ngoài ra, doanh nghiệp phải đầu tư vốn trước thời hạn như đầu tư mua nguyên liệu và phụ tùng trước kỳ hạn mà doanh nghiệp có khả năng tiếp tục được đặt hàng. Sản xuất thừa còn dẫn đến gia tăng nhiều chi phí như: chi phí lưu kho, chi phí năng lượng, chi phí bảo quản, chi phí nhân lực, chi phí hành chính, chi phí thiết bị, chi phí tài chính…

Các nguyên nhân dẫn đến sản xuất dư thừa có thể là: Thường doanh nghiệp đều mong muốn chủ động trong sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của khách hàng càng nhanh càng tốt do vậy doanh nghiệp vẫn chấp nhận một khoảng sản xuất dư thừa nào đó như một khoảng dự phòng.

Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có được lượng sản xuất dư thừa mong muốn này. Nguyên nhân là do có một số khoản dự phòng nhưng mức này được tính toán chưa hợp lý dẫn đến dự phòng quá cao; Hoặc mặc dù doanh nghiệp chưa có đơn hàng, chưa ký hợp đồng, thông tin hợp đồng/đơn hàng chưa rõ đã bắt tay vào triển khai thực hiện để tạo thế chủ động và lợi thế so với đối thủ cạnh tranh. Cũng có một số doanh nghiệp dự báo sai nhu cầu hoặc sản xuất trước kỳ hạn và cho rằng khách hàng sẽ đặt lại đơn hàng cũ nên tiến hành triển khai sản xuất trước khi có thông tin chính thức.

Thường các doanh nghiệp đều mong muốn chủ động trong sản xuất kinh doanh, mong muốn đáp ứng yêu cầu của khách hàng càng nhanh càng tốt do vậy nhiều doanh nghiệp vẫn chấp nhận một khoảng sản xuất dư thừa nào đó như một khoảng dự phòng.


Ảnh minh hoạ.

Trong một số trường hợp, khi doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thiện đơn hàng nhưng đơn hàng lại bị hủy hoặc thay đổi số lượng hay chủng loại. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sản xuất dư thừa. Mức độ nghiêm trọng của sản xuất dư thừa trong trường hợp này gặp ở các doanh nghiệp có quy mô sản xuất theo lô hàng lớn hoặc sản xuất hàng loạt nhiều hơn so với doanh nghiệp có loại hình sản xuất khác.

Việc quản lý trao đổi thông tin trong doanh nghiệp chưa tốt, thông tin truyền đạt giữa bộ phận kinh doanh và bộ phận sản xuất không xuyên suốt dẫn đến thông tin đầu vào, đầu ra (ví dụ: nguyên vật liệu) không rõ và giám sát thông tin, giám sát tuân thủ không tốt (ví dụ mặt dưới mặt bàn cần được làm bằng gỗ loại A, trong khi khách hàng chỉ yêu cầu loại B, v.v. hoặc kế hoạch sản xuất không đạt.

Phương Nam
https://vietq.vn/nguy-co-lang-phi-tu-san-xuat-du-thua-d225939.html

Nghiên cứu đột phá công nghệ tạo ra điện Mặt Trời vào ban đêm

Nghiên cứu từ Đại học UNSW (Australia) cho thấy, nhiệt hồng ngoại bức xạ của Trái Đất có thể được sử dụng để tạo ra điện, ngay cả sau khi Mặt Trời lặn.

Nghiên cứu từ Đại học UNSW (Australia) cho thấy, nhiệt hồng ngoại bức xạ của Trái Đất có thể được sử dụng để tạo ra điện, ngay cả sau khi Mặt Trời lặn, theo cách tương tự như Trái Đất nguội đi bằng cách bức xạ vào không gian lúc ban đêm.

Mặc dù lượng điện được tạo ra ở giai đoạn này rất nhỏ, ít hơn khoảng 100.000 lần so với lượng điện do tấm pin Mặt Trời, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng kết quả có thể được cải thiện trong tương lai.

Phó Giáo sư Ned Ekins-Daukes cho biết, năng lượng chiếu xuống Trái Đất vào ban ngày dưới dạng ánh sáng Mặt Trời và làm ấm hành tinh. Vào ban đêm, cùng mức năng lượng này bức xạ trở lại vào không gian dưới dạng ánh sáng hồng ngoại và có thể tạo ra điện bằng cách tận dụng quá trình này.

Theo Tiến sĩ Phoebe Pearce, khi có dòng năng lượng, có thể chuyển đổi thành các dạng khác nhau. Quá trình chuyển đổi trực tiếp ánh sáng Mặt Trời thành điện, do con người phát triển để chuyển đổi năng lượng mặt trời thành điện năng. Quá trình nhiệt bức xạ cũng tương tự, chuyển năng lượng trong tia hồng ngoại từ Trái Đất ấm vào vũ trụ lạnh.


Nghiên cứu sử dụng nhiệt hồng ngoại bức xạ của Trái Đất để tạo ra điện ngay cả sau khi Mặt Trời lặn. Ảnh minh họa

Nhóm nghiên cứu tin rằng, công nghệ mới có thể có nhiều ứng dụng trong tương lai, giúp sản xuất điện theo những cách hiện không thể thực hiện được.

Theo Tiến sĩ Michael Nielsen, từ nghiên cứu tới thương mại hoá vẫn còn chặng đường dài, tuy nhiên mở ra giải pháp tạo ra điện từ Mặt Trời ban đêm.

Liên quan tới tấm pin điện Mặt Trời, trước đó nhóm nghiên cứu tại Đại học Stanford (Mỹ) chế tạo pin Mặt Trời với khả năng thu năng lượng từ môi trường cả ngày lẫn đêm, giúp loại bỏ nhu cầu sử dụng thêm bộ lưu trữ điện.

Ban đêm, pin Mặt Trời tỏa nhiệt ra không gian và nhiệt độ bề mặt pin sẽ mát hơn vài độ so với không khí xung quanh. Thiết bị mới sử dụng một module nhiệt điện để tạo ra điện áp và dòng điện từ sự chênh lệch nhiệt độ giữa pin mặt trời và không khí. Quá trình này phụ thuộc vào cấu trúc nhiệt của hệ thống, bao gồm một bên nóng và một bên lạnh.

“Module nhiệt điện cần tiếp xúc tốt với cả bên lạnh (pin Mặt Trời ) lẫn bên nóng (môi trường xung quanh). Nếu không đảm bảo điều đó, bạn sẽ không thu được nhiều năng lượng”, Sid Assawaworrarit, thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết.

Nhóm chuyên gia đã chứng minh khả năng phát điện của thiết bị mới vào ban ngày, khi thiết bị hoạt động theo chiều ngược lại và đóng góp thêm năng lượng cho pin Mặt Trời truyền thống, cũng như vào ban đêm.

Nhóm nhà khoa học đặt mục tiêu tối ưu hóa khả năng cách nhiệt và các thành phần nhiệt điện của thiết bị. Họ cũng đang tìm cách cải tiến pin mặt trời để tăng hiệu quả tỏa nhiệt mà không ảnh hưởng đến khả năng thu năng lượng Mặt Trời.

Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực điện mặt trời

Nhằm mục đích đẩy mạnh khai thác và sử dụng tối đa, có hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo trong nước, từng bước gia tăng tỷ trọng của năng lượng tái tạo trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng quốc gia để giảm sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, cải thiện cơ cấu ngành năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế – xã hội bền vững, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo ở nước ta trong đó có điện Mặt Trời. Các cơ chế cũng đã tạo điều kiện cho hàng nghìn nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia thị trường từ nghiên cứu, sản xuất, phân phối, lắp đặt, dịch vụ, đến tài chính, bảo hiểm…, góp phần hình thành thị trường điện năng lượng tái tạo tại Việt Nam.

Song song với đó, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cũng đang hoàn thiện để có được các tiêu chuẩn kỹ thuật kiểm soát an toàn, chất lượng của hệ thống điện Mặt Trời. Tính đến hết năm 2019 có khoảng 1000 TCVN trong lĩnh vực điện và điện tử, trong đó có 19 TCVN về hệ thống điện Mặt Trời. Các tiêu chuẩn quốc gia TCVN về điện Mặt Trời phần lớn được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC (Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà quản lý, tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận có thể thừa nhận lẫn nhau kết quả thử nghiệm cũng như chứng chỉ chứng nhận.

Việc biên soạn các TCVN này được thực hiện chính bởi Ban kỹ thuật Tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC/E13 Năng lượng Tái tạo. Tiêu chuẩn quốc gia về tấm pin Mặt Trời hiện nay đã có bộ tiêu chuẩn về an toàn điện của tấm pin TCVN 12232 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 61730, bộ tiêu chuẩn về đánh giá chất lượng thiết kế của tấm pin TCVN 6781 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 61215. Bên cạnh đó còn có các tiêu chuẩn đối với thành phần của hệ thống pin mặt trời như bộ TCVN 12231 về an toàn của bộ nghịch lưu inverter được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 62109 và các TCVN cho hộp kết nối, cáp điện, v.v…

An Dương (T/h)

https://vietq.vn/australia-nghien-cuu-dot-pha-cong-nghe-tao-ra-dien-mat-troi-vao-ban-dem-d225631.html

Phương pháp đánh giá rủi ro khi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật

Thực trạng hiện nay cho thấy, có rất nhiều bất cập và khó khăn trong việc xây dựng, áp dụng quy chuẩn kỹ thuật. Để giải quyết những bất cập trên cần có phương pháp để đánh giá rủi ro khi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật.

Tính đến nay đã có 756 QCVN và 56 Quy chuẩn địa phương được xây dựng và ban hành, tuy nhiên vẫn còn những bất cập trong việc áp dụng QCVN về phòng cháy chữa cháy, thuốc thú ý, thức ăn chăn nuôi….. cùng với đó, các chỉ tiêu kỹ thuật ngày càng cao hơn mức cần thiết; Chi phí điều chỉnh dây truyền sản xuất, thử nghiệm, chứng nhận cao; Đối tượng, phạm vi quá rộng (Đ3 Luật…); Hạ tầng kỹ thuật, năng lực thử nghiệm không đảm bảo triển khai, áp dụng QCKT hiệu quả.

Trước thực trạng trên, ông Nguyễn Văn Khôi – Trưởng ban Tiêu chuẩn, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia đã đưa ra phương pháp đánh giá rủi ro, phương pháp này được tham khảo tại CENELEC Guide 32: Hướng dẫn đánh giá rủi ro đối với Thiết bị điện gia dụng và ASEAN/JSCEE Guide: Hướng dẫn đánh giá rủi ro UB Hỗn hợp Điện-Điện tử.

Theo đó, các thông tin cần cho đánh giá rủi ro: thứ nhất là, xác định phạm vi, đối tượng, mục đích áp dụng phù hợp của QCKT; thứ hai là, xác định các trường hợp sử dụng sai có thể xảy ra tai nạn của SPHH; thứ ba là, xác định các mối nguy (SX, lắp đặt, sử dụng…); thứ tư là, ước lượng rủi ro gây ra do từng mối nguy xác định; thứ năm là, thống kê tai nạn, sự cố của SP (5-10 năm gần đây); thứ sáu là, thông tin liên quan đến các rủi ro có thể xảy ra (tiếng ồn, độ rung, bụi, khói, hóa chất được sử dụng hoặc vật liệu được xử lý bởi thiết bị…).

Về nhận diện rủi ro từ mối nguy từ điện bao gồm: Dòng điện rò, nguồn điện, tích điện, phóng điện hồ quang, điện giật, bỏng; Nhận diện rủi ro từ mối nguy cơ học bao gồm: Sự mất ổn định, hư hỏng trong quá trình hoạt động; rơi/bắn ra vật thể có khả năng gây tai nạn; bề mặt, góc, cạnh không thích ứng; các bộ phận chuyển động; rung; lắp không đúng linh kiện; phát nổ; Nhận diện rủi ro mối nguy điện từ trường, bức xạ Ion… bao gồm: Nhiễu điện, điện từ; bức xạ quang; cháy; nhiệt độ; tiếng ồn; phát xạ chất độc hại; kết nối và gián đoạn nguồn điện; kết hợp thiết bị.

Ông Khôi cũng đưa ra công thức đánh giá rủi ro: R = C x P x N, trong đó, R: Mức độ rủi ro của sản phẩm; C: Mức độ nghiêm trọng của mối nguy; P: Xác suất xảy ra mối nguy; N: Mức độ thông dụng của sản phẩm.

Về đánh giá năng lực thử nghiệm: Khảo sát các tổ chức đánh giá sự phù hợp (3 miền); Đánh giá năng lực thử nghiệm (dựa trên các chỉ tiêu, yêu cầu kỹ thuật trong dự thảo QCKT); Đánh giá, xác định mức chi phí thử nghiệm, chứng nhận cho SPHH, dịch vụ…. (Theo các phương thức chứng nhận khác nhau 1, 5, 6, 7, 8).

Kế hoạch triển khai tại Ủy ban TCĐLCLQG, ông Khôi cho biết, sẽ sửa Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, trong đó, bổ sung quy định Báo cáo đánh giá thẩm định và thẩm định nội dung này; Xây dựng Hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động (Hội thảo, lấy ý kiến…); Áp dụng các QCVN của Bộ KH&CN (QCVN về Thép, Led, CNG/LNG, Ổ cắm phích cắm, Automat…), trong đó, triển khai thu thập số liệu, tính toán, lập BCĐGTĐ.

Tiểu My
https://vietq.vn/phuong-phap-danh-gia-rui-ro-khi-xay-dung-quy-chuan-ky-thuat-d225381.html

Bộ lọc than hoạt tính giúp loại bỏ hóa chất vĩnh cửu trong nước uống hàng ngày

Các nhà nghiên cứu tại một trường đại học của Mỹ đã tìm ra phương pháp giúp loại bỏ một lượng hóa chất vĩnh cửu có trong nguồn nước uống hàng ngày.

Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học trên khắp thế giới đã liên tục tìm kiếm các phương pháp nhằm loại bỏ các hóa chất này trong nước uống. Mới đây, Trường đại học British Columbia, Mỹ, đã tìm ra chất xúc tác có thể loại bỏ hóa chất vĩnh cửu có trong nguồn nước sinh hoạt hàng ngày của con người. Các hóa chất vĩnh cửu, viết tắt là PFAS, được sử dụng rất nhiều vì chúng giúp cho đồ vật chịu nhiệt cao, chống bẩn và kháng nước. Tuy nhiên, khi không còn được sử dụng và vứt bỏ ra bãi rác, những sản phẩm có chứa PFAS sẽ gây ô nhiễm nguồn nước vì các hóa chất này rất khó phân hủy. Chúng là những nhân tố nguy hiểm đe dọa sức khỏe, có liên quan đến các bệnh gan, ung thư, tuyến giáp và nhiều bệnh khác.

Theo phương pháp này, chỉ cần vài giờ để làm sạch nước, ngay cả khi không có nguồn tia cực tím ổn định để khử. Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã tạo ra một bộ lọc than hoạt tính có chứa chất xúc tác đã được cấp bằng sáng chế. Chất xúc tác quang lai oxit sắt (Fe/g-C) có thể thu giữ PFAS trong nước và phân hủy các hóa chất này thành các thành phần vô hại. Toàn bộ quá trình này khá nhanh, tùy vào lượng nước cần được xử lý.

 Bộ lọc than hoạt tính cho phép loại bỏ một lượng lớn hóa chất vĩnh cửu tồn tại trong nước uống

Các nhà nghiên cứu cho biết một số giải pháp trước đây chỉ có thể thực hiện hoặc thu giữ hoặc phân hủy các hóa chất này, nhưng với công nghệ được sử dụng trong nghiên cứu mới này, cả hai vấn đề nêu trên đều có thể được xử lý trong thời gian ngắn.

Theo các nhà khoa học, giải pháp mới này nhanh hơn rất nhiều so với các cách thức khác. Chất xúc tác được nghiên cứu chỉ cần 3 giờ đồng hồ là có thể loại bỏ 90% các hóa chất vĩnh cửu trong nước. Bên cạnh đó, phương pháp này còn có ưu điểm tiết kiệm chi phí và dễ thực hiện hơn các phương pháp khác đang được áp dụng.

Chẳng hạn như một số phương pháp cần có tia cực tím để tạo các phản ứng hóa học, nhưng phương pháp mới của nhóm nghiên cứu lần này hoàn toàn áp dụng được ở những nơi không có đủ ánh sáng. Trong điều kiện thiếu sáng, công nghệ mới này vẫn loại bỏ được 85% PFOA. PFOA cũng là một hóa chất vĩnh cửu.

Hơn nữa, công nghệ mới này có thể dùng để loại bỏ các thành phần “cứng đầu” khác gây ô nhiễm nước chứ không chỉ các hóa chất vĩnh cửu. Chất xúc tác đặc biệt này có thể dùng để xử lý các hệ thống cấp nước đô thị và các cơ sở công nghiệp.

Đây quả là một thành tựu nghiên cứu có giá trị quan trọng. Hiện, các nhà khoa học đã liên kết với một công ty thương mại để đưa công nghệ mới này đi vào đời sống.

 Bảo Linh (t/h)
https://vietq.vn/bo-loc-than-hoat-tinh-giup-loai-bo-hoa-chat-vinh-cuu-trong-nuoc-uong-hang-ngay-d224975.html

Tái sử dụng pin – Giải pháp bền vững lưu trữ năng lượng sạch

Nhằm giảm thiểu rác thải điện tử ra môi trường cũng như hướng đến một xã hội phát triển bền vững, Uỷ ban tiêu chuẩn IEC mới đây đã công bố bộ tiêu chuẩn hướng dẫn về việc tái sử dụng đối với loại pin xe điện đã hết hạn.

Pin là vật liệu quan trọng và cần thiết để lưu trữ và tái tạo nguồn năng lượng để sử dụng khi cần thiết. Theo Kịch bản Phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), pin là một phần thiết yếu của hệ thống năng lượng toàn cầu hiện nay và là công nghệ năng lượng phát triển nhanh nhất trên thị trường.

Để sản xuất ra một sản phẩm pin, cần rất nhiều chi phí, chưa kể, khi pin hết một vòng đời sử dụng có thể thải ra các chất ô nhiễm độc hại nếu không được xử lý đúng cách, có thể gây ra các vấn đề về rác thải điện tử, gây ô nhiễm môi trường.

Theo IEA ước tính rằng các loại pin không còn đáp ứng tiêu chuẩn sử dụng trong xe điện (EV), vẫn có thể duy trì tới 80% tổng dung lượng sử dụng được đối với các thiết bị khác. Với số lượng xe điện ngày càng tăng, dần thay thế cho dòng xe xăng, việc tái sử dụng pin sẽ là giải pháp có giá trị để lưu trữ năng lượng và bảo vệ môi trường, hướng tới một mục đích phát triển bền vững.


Tiêu chuẩn IEC 63338 – Hướng dẫn chung về việc tái sử dụng và tái chế pin và ắc quy thứ cấp

Tuy nhiên, việc tái sử dụng pin không hề dễ dàng, vì những thách thức về quy định công nghệ vẫn là rào cản đối với việc áp dụng. Không chỉ có rủi ro không may xảy ra trong quá trình tái sử dụng pin mà còn trong quá trình sử dụng chúng. Hơn nữa, nhiều quốc gia và khu vực đang xây dựng các yêu cầu và quy định khác nhau về việc tái sử dụng và tái sử dụng pin, hầu hết tập trung về các vấn đề về kỹ thuật hoặc an toàn.

Đây là thời điểm thích hợp để tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng nhằm giải quyết vấn đề này, cũng như tạo khung quy định chung, chuẩn mực để các quốc gia tham khảo. Tiêu chuẩn IEC 63338 – Hướng dẫn chung về việc tái sử dụng và tái chế pin và ắc quy thứ cấp, mới được công bố nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề này. Tiêu chuẩn đề cập đến các rủi ro về an toàn liên quan đến hệ thống lithium ion và niken cũng như xác định tính phù hợp để tái sử dụng hoặc tái chế, hay quy định chung về cảnh báo của nhà sản xuất, v.v.

Tiêu chuẩn này được phát triển bởi ủy ban kỹ thuật IEC TC 21/SC 21A dành cho các loại ắc quy và pin thứ cấp chứa chất điện phân kiềm hoặc chất điện phân không phải axit khác.

Đây là tiêu chuẩn mới nhất trong số nhiều tiêu chuẩn của Uỷ ban TC 21/SC 21A được thiết kế để hỗ trợ việc tái sử dụng và thay đổi mục đích sử dụng pin và hệ thống lưu trữ năng lượng pin một cách an toàn và đáng tin cậy.

Các tiêu chuẩn khác của Uỷ ban bao gồm IEC 63330-1 (yêu cầu chung về việc tái sử dụng các cell thứ cấp, mô-đun, bộ pin và hệ thống pin), IEC 62933-4-4 (yêu cầu về môi trường đối với hệ thống lưu trữ năng lượng dựa trên pin (BESS) có pin tái sử dụng) và IEC 62933-5-3 (yêu cầu về an toàn đối với hệ thống EES tích hợp lưới điện).

Bảo Linh (biên dịch từ IEC)
https://vietq.vn/tai-su-dung-pin—giai-phap-ben-vung-luu-tru-nang-luong-sach-d224706.html

2.166 cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính.

Theo đó, danh mục lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm:

Năng lượng: Công nghiệp sản xuất năng lượng; tiêu thụ năng lượng trong công nghiệp, thương mại, dịch vụ và dân dụng; khai thác than; khai thác dầu và khí tự nhiên.

Giao thông vận tải: Tiêu thụ năng lượng trong giao thông vận tải.

Xây dựng: Tiêu thụ năng lượng trong ngành xây dựng; các quá trình công nghiệp trong sản xuất vật liệu xây dựng.

Các quá trình công nghiệp: Sản xuất hóa chất; luyện kim; công nghiệp điện tử; sử dụng sản phẩm thay thế cho các chất làm suy giảm tầng ozon; sản xuất và sử dụng các sản phẩm công nghiệp khác.

Nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất: Chăn nuôi; lâm nghiệp và thay đổi sử dụng đất; trồng trọt; tiêu thụ năng lượng trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; các nguồn phát thải khác trong công nghiệp.

Chất thải: Bãi chôn lấp chất thải rắn; xử lý chất thải rắn bằng phương pháp sinh học; thiêu đốt và đốt lộ thiên chất thải; xử lý và xả thải nước thải.


2.166 cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê

Quyết định nêu cụ thể danh mục 2.166 cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính cập nhật năm 2024; trong đó có 1.805 cơ sở thuộc ngành công thương; 75 cơ sở thuộc ngành giao thông vận tải; 229 cơ sở thuộc ngành xây dựng và 57 cơ sở thuộc ngành tài nguyên và môi trường.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ sở phát thải khí nhà kính thực hiện kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở theo hướng dẫn của các Bộ: Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường; nộp báo cáo kiểm kê khí nhà kính của cơ sở theo Nghị định của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon theo quy định.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực thuộc có liên quan đôn đốc các cơ sở phát thải khí nhà kính trên địa bàn thuộc danh mục ban hành kèm theo Quyết định này thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo quy định; cập nhật, điều chỉnh danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính trên địa bàn phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ quản lý lĩnh vực có liên quan theo quy định.

Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ: Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rà soát, cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Quyết định 13/2024/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2024. Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18/1/2022 ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính hết hiệu lực từ ngày 1/10/2024.

Các cơ sở phát thải khí nhà kính thuộc danh mục quy định tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg nhưng không thuộc danh mục quy định tại Quyết định 13/2024/QĐ-TTg không có nghĩa vụ thực hiện và nộp báo cáo kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở năm 2025.

Nam Dương
https://vietq.vn/2166-co-so-phat-thai-khi-nha-kinh-phai-thuc-hien-kiem-ke-khi-nha-kinh-d224385.html