Thị trường cá tra EU – Phần I: Tiềm năng thị trường cá tra sản xuất bền vững tại EU

Các nhà bán lẻ cho biết, cả giới bán lẻ và khách hàng đều chấp nhận chi thêm tiền cho chất lượng sản phẩm chứ không phải cho các chứng nhận. Điều này không có nghĩa là chứng nhận không có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro hay xây dựng uy tín thương hiệu, mà cần phải tìm hiểu các hoạt động sản xuất có trách nhiệm tại trại nuôi và nhà máy chế biến đóng góp thế nào vào quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm.

Tháng 9/2013, “Dự án Xây dựng chuỗi cung ứng cá Tra bền vững tại Việt Nam” (SUPA) đã hoàn thành báo cáo “Tiềm năng thị trường cá tra sản xuất bền vững tại EU” do chuyên gia tư vấn Carson Roper và WWF Áo thực hiện. Báo cáo khái quát tình hình và đưa ra các khuyến nghị đối với cá tra Việt Nam XK sang EU. Đây hiện là những phân tích mới nhất về sản phẩm cá tra tại thị trường này. Báo cáo có 8 phần và hàng tuần Bản tin Thương mại Thủy sản sẽ đăng tải từng phần của Báo cáo này.

Tại phần I, SUPA – dự án do Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) chủ trì và hợp tác với VASEP, WWF-Việt Nam và WWF- Áo, phân tích thị trường dựa trên 3 mục tiêu chính: tìm hiểu sự nhận thức của thị trường EU về ngành cá tra của Việt Nam; tiến hành phân tích các đối tượng thị trường chính và xu hướng thị trường EU; khuyến nghị cho việc cải thiện hình ảnh của cá tra Việt Nam nhằm tăng khối lượng XK và giá cá tra tại Châu Âu.

Hình ảnh của cá tra tại EU

Hình ảnh của cá tra tại thị trường bán lẻ EU bị ảnh hưởng bởi những báo cáo truyền thông tiêu cực và các chiến dịch do các nhóm có cạnh tranh về lợi ích với cá tra tại từng thị trường NK thực hiện. Theo đó, ngành cá tra Việt Nam bị coi là một ngành sản xuất ồ ạt và có những tác động tiêu cực.

Thị trường EU, các đối tượng chính và xu hướng

Tốp 25 nhà bán lẻ hàng đầu thế giới năm 2012

1 Walmart Mỹ
2 Carrefour Group Pháp
3 Tesco Anh
4 Metro Group Đức
5 Schwartz Group Đức
6 Kroger Co. Mỹ
7 Costco Mỹ
8 Aldi Đức
9 Target Corp. Mỹ
10 Rewa Group Đức
11 Edeka Đức
12 Auchan Pháp
13 Aeon Nhật Bản
14 Woolworths Úc
15 Seven & I Nhật Bản
16 Coles Group Pháp
17 Casino Group Pháp
18 (ITM) Intermarché Pháp
19 E. Leclerc Pháp
20 Safeway Mỹ
21 Ahold Hà Lan
22 Supervalu Mỹ
23 J Sainsbury’s Anh
24 Loblaw Co. Canada
25 Delhaize

Bỉ

Dân số Châu Âu được dự đoán tăng từ 501 triệu người năm 2010 lên hơn 522,3 triệu vào năm 2030 với tiêu thụ cá bình quân đầu người tăng từ 22 kg lên 24 kg. Trong khi đó, khu vực này phụ thuộc rất nhiều vào nguồn NK để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ và sẽ còn tiếp tục phụ thuộc trong tương lai.

Thị trường bán lẻ EU là một khối thị trường trong đó 25 nhà bán lẻ hàng đầu thế giới chiếm tỷ trọng rất lớn.

Các thị trường chính tiêu thụ cá tra tại EU lần lượt là: Tây Ban Nha, Hà Lan, Đức và Anh. Thông qua Kế hoạch chiến lược CSR và chính sách thu mua thủy sản, các nhà bán lẻ EU thực hiện các chương trình kiểm soát và giới hạn sự lựa chọn. Quá trình kiểm soát và giới hạn lựa chọn đòi hỏi phải hạn chế các sản phẩm được giới thiệu cho khách hàng dựa vào các tiêu chí môi trường, xã hội và/hoặc các vấn đề cần cân nhắc khác. Hiệu quả của chương trình kiểm soát và giới hạn việc lựa chọn các sản phẩm thủy sản nuôi (đặc biệt là cá tra) dao động tùy theo thị trường và nhà bán lẻ.

Tây Ban Nha, Đức, Pháp và Anh là những thị trường hấp dẫn để phát triển kinh doanh cá tra. Kinh doanh cá “thịt trắng” (bao gồm cả cá tra) tại Tây Ban Nha bị ảnh hưởng do khủng hoảng tài chính nên có thể sẽ tăng trở lại khi kinh tế phục hồi. Tây Ban Nha là thị trường hấp dẫn nhờ có quan hệ thương mại với Bồ Đào Nha.

Kinh doanh cá tra thị trường Đức, Áo và Thụy Sĩ  bị ảnh hưởng sau khi một chương trình phóng sự bôi nhọ cá tra được phát sóng tại Đức năm 2011. Sau đó thị trường Đức đã chứng kiến sự phát triển mạnh của nhãn ASC nhằm lấy lại niềm tin của người tiêu dùng.

Tiêu thụ cá tra tại Pháp cũng sụt giảm vì các báo cáo truyền thông tiêu cực. Tại thị trường Anh, cá tra đạt chứng nhận bắt đầu được thị trường công nhận. Tất cả các thị trường trên đều có tiềm năng phát triển tiêu thụ cá tra khi hình ảnh con cá này được cải thiện.

Các nhà bán lẻ EU chủ yếu dựa trên các tiêu chí sau để đưa ra quyết định thu mua cá tra xuất xứ Việt Nam: chất lượng, giá cả và dịch vụ, an toàn thực phẩm, các vấn đề xã hội; tác động môi trường; sức khỏe động vật, anh sinh và truy xuất nguồn gốc. Những yếu tố này đều giúp giảm bớt nguy cơ mà nhà bán lẻ phải chịu đối với sản phẩm. Chất lượng, an toàn thực phẩm hoặc các vấn đề khác liên quan đến sản phẩm như vấn đề mặt xã hội, tác động môi trường hoặc sức khỏe động vật và an sinh thường được giải quyết thông qua các chương trình và hệ thống chứng nhận. “Nhãn đỏ” của Pháp là một ví dụ về chất lượng sản phẩm. An toàn thực phẩm được giải quyết thông qua Tổ chức Sáng kiến An toàn thực phẩm Toàn cầu (GFSI). Các vấn đề khác được giải quyết thông qua các chương trình chứng nhận nuôi cá như ASC, GlobalGAP, BAP, Friend of the Sea và chương trình cho cá nuôi sinh thái.

Việc quảng bá, bảo vệ nhà bán lẻ và xác định thương hiệu nhà cung cấp đóng vai trò vô cùng quan trọng tại các khối thị trường lớn như thị trường EU. Các nhà bán lẻ và các nhà cung cấp của họ đã xây dựng các chiến dịch truyền thông về thương hiệu để giảm thiểu rủi ro. Một số chương trình điển hình như:

– Chương trình “Forever Fish” của công ty Marks và Spencer phối hợp cùng Tổ chức Bảo tồn biển (MCS) và WWF Anh;

– Chương trình “Fish for Life” của công ty Young (và Findus);

– Chương trình “Forever Food” của công ty Iglo Foods;

– Quan hệ hợp tác giữa Edeka và WWF vì nghề cá bền vững;

– Ngoài ra còn có những chương trình được sử dụng để tăng cường việc xác định thương hiệu nhà bán lẻ trên sản phẩm thông qua các dấu hiệu và nhãn sản phẩm.

– Bảo đảm giá thấp của công ty ASDA;

– Sử dụng nhãn bền vững ASC của công ty Edeka;

Tất cả đều vì mục tối thượng là nâng cao uy tín sản phẩm. Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy phản ứng từ thị trường rất rõ ràng rằng người tiêu dùng đang bị lúng túng vì có quá nhiều loại nhãn sản phẩm. Do đó, nghiên cứu của SUPA xác định xu hướng hiện nay để tập trung trước hết vào việc xây dựng danh tiếng thương hiệu bằng những thông điệp dễ hiểu hướng tới người tiêu dùng: ví dụ như giá và chất lượng sản phẩm, khi nào cần thiết đẩy mạnh danh tiếng thương hiệu bằng cách gửi thông điệp về uy tín sản phẩm với các nhãn trong và ngoài nước.

Vậy con cá tra Việt Nam có hình ảnh như thế nào?

Trước hết, có một tin vui là cá tra xuất xứ Việt Nam đang xuất hiện nhiều tại thị trường bán lẻ của EU. Hơn nữa, cá tra Việt Nam được công nhận có những thế mạnh về giá cả phải chăng, hương vị thơm, đã được rút xương và dễ chế biến. Tuy nhiên, loài cá này cũng gặp một số vấn đề liên quan đến chất lượng, an toàn thực phẩm, lo ngại về xã hội và môi trường, sức khỏe động vật và an sinh. Giải quyết những vấn đề này là yêu cầu quan trọng bởi chúng quyết định khả năng tiếp cận thị trường tại EU.

Những năm gần đây, Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều để đạt các chứng nhận nhằm cải thiện hình ảnh và nâng cao danh tiếng của cá tra. Tuy nhiên, quan trọng là cần hiểu được các chương trình chứng nhận nuôi thủy sản không phải là sự bảo đảm cho việc tiếp cận thị trường. Thứ nhất, chứng nhận chỉ đơn thuần là công cụ tạo điều kiện cho việc tiếp cận thị trường dễ dàng hơn. Thứ hai, chứng nhận không đảm bảo sản phẩm nuôi có thể tăng giá bán. Điều này đặc biệt đúng với những thị trường có tính cạnh tranh cao như Pháp, Anh và Đức. Vì vậy, chứng nhận thủy sản nuôi cần được coi là một yếu tố trong bước tiếp cận thị trường chính với mục đích đưa cá tra đạt chứng nhận thành một nguồn cung protein chất lượng, có thương hiệu và uy tín sản phẩm tại thị trường EU

Những khuyến nghị để cải thiện hình ảnh cá tra Việt Nam tại thị trường EU:

– Kiểm soát sự lựa chọn hay bị kiểm soát: Cần phải nắm bắt được cách các nhà bán lẻ nhìn nhận về các hoạt động chế biến và nuôi cá. Điều này đòi hỏi phải liên tục theo dõi các chính sách của các nhà bán lẻ và các vấn đề chính định hướng những chính sách này.

– Công nhận những ảnh hưởng kinh tế, tuy nhiên không thao túng cá tra tại thị trường EU. Nếu cá tra thực sự là loài cá tuân thủ quy luật giá cả thị trường tại EU, tiêu thụ loài cá này sẽ tăng lên ngay cả khi kinh tế suy thoái.

– Xác định cách thức để cá tra có thể làm giảm rủi ro của các nhà bán lẻ và làm tăng uy tín thương hiệu và uy tín của các sản phẩm mang thương hiệu.

– Xác định sự cân bằng giữa các kế hoạch sản xuất và tiếp thị cho cá tra.

– Chủ động kiểm soát trong các vấn đề như nguyên liệu chế biến thức ăn từ hạt biến đổi gen và sức khỏe động vật.

– Đưa ra những thông tin tích cực: phản hồi của nhà bán lẻ trong các cuộc phỏng vấn, trong đó cần thiết có cả những phỏng vấn chuyên sâu hơn về hoạt động nuôi và chế biến.

Theo phản hồi từ những nhà bán lẻ được phỏng vấn, cả nhà bán lẻ và khách hàng đều chấp nhận chi thêm tiền cho chất lượng sản phẩm chứ không phải cho các chứng nhận. Điều này không có nghĩa là chứng nhận không có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro hay xây dựng uy tín thương hiệu. Do đó, cần phải tìm hiểu các hoạt động sản xuất có trách nhiệm tại trại nuôi và nhà máy chế biến đóng góp thế nào vào quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm.

Xem Nội dung Chương I của báo cáo bản tiếng Anh tại đây

Theo Vasep

Hội thảo “Đổi mới sản phẩm, chìa khóa cho tương lai bền vững”

Không gian đồng sáng tạo và Ươm mầm sản phẩm bền vững mang tên Hàng Xanh, đặt tại số 45 Bát Sứ , Hà Nội

HÀ NỘI 14/11/2013 – Hội thảo “Đổi mới sản phẩm – Chìa khóa cho tương lai bền vững” được tổ chức nhằm báo cáo các thành quả đạt được và chia sẻ kinh nghiệm thực hiện đổi mới sản phẩm trong suốt bốn năm triển khai dự án Đổi mới Sản phẩm Bền vững (SPIN) tại Việt Nam, Lào và Campuchia. Hội thảo mang lại một cái nhìn toàn diện về thực tiễn đổi mới sản phẩm bền vững và triển vọng của Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung trong lĩnh vực này.

SPIN làm việc với hơn 500 công ty vừa và nhỏ thuộc 4 lĩnh vực: Dệt may, Đồ gỗ nội thất, Thủ công mỹ nghệ và Đóng gói; hỗ trợ đổi mới sản phẩm tại các khâu: Thiết kế sản phẩm (thiết kế lại và thiết kế mới sản phẩm), Xây dựng chiến lược sản phẩm, Tư vấn và Chuyển giao các công nghệ sạch. Dưới sự hợp tác bền chặt giữa doanh nghiệp, nhà thiết kế và chuyên gia của dự án, 2000 sản phẩm được thiết kế lại và thiết kế mới, thân thiện với môi trường, không gây độc hại tới sức khỏe người tiêu dùng, đặc biệt các sản phẩm này có tiềm năng lớn để đưa ra thị trường.

Dựa trên phương pháp luận sử dụng nguồn Tài nguyên hiệu quả và công nghệ Sạch, có 85 công ty tại Lào đổi mới sản phẩm tại khâu thiết kế và 85 công ty tại Campuchia tập trung đổi mới từ phía bên trong công ty. Tại Việt Nam, việc Đổi mới sản phẩm không chỉ dừng lại ở phạm vi của một công ty mà còn hình thành một chuỗi giá trị gồm nhóm các công ty cùng hoạt động trong một lĩnh vực để hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất. Tại Lào và Campuchia, SPIN hỗ trợ tại mức giúp các công ty tiếp cận thích ứng với tự nhiên đang biến đổi thì tại Việt Nam, các doanh nghiệp được hỗ trợ theo hướng tiếp cận chủ động: dựa trên các công nghệ được chuyển giao, SPIN biến đổi và phát triển chúng để phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và điều kiện tự nhiên của Việt Nam.

Chính mô hình và phương thức kinh doanh sáng tạo này giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng như tính thân thiện môi trường của sản phẩm.

Doanh nghiệp tham gia vào SPIN được nâng cao nhận thức, năng lực đối với việc đổi mới sản phẩm và quá trình sản xuất theo hướng bền vững. Ông Nguyễn Hồng Long, Điều phối viên khu vực dự án SPIN, cho biết: “Qua việc tham gia hội thảo và các khóa học do SPIN tổ chức, phần lớn các doanh nghiệp nhận ra rằng không quá khó để đổi mới sản phẩm bền vững mà vẫn đảm bảo được năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp được nâng cao năng lực và tạo động lực để hành động, bắt tay vào quá trình còn mới mẻ này bằng cách các kiến thức và công nghệ nhằm sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và tận dụng được nguồn thải vào việc tạo ra nguyên-vật liệu cho sản xuất.”

Thành công nhất, hơn 30 công nghệ bền vững được phát triển, tối ưu hóa và phối hợp thành nhóm công nghệ để để phù hợp với điều kiên của doanh nghiệp và tự nhiên tại Việt Nam. Trong đó, 3 nhóm công nghệ được áp dụng thành công nhất là Năng lượng tái tạo, Mô hình nông nghiệp hữu cơ không chất thải và Vật liệu xanh. Nhóm công nghệ Năng lượng tái tạo gồm buồng sấy bằng năng lượng mặt trời và bếp Khí hóa dân sinh và công nghiệp; được áp dụng thành công cho các công ty sản xuất nấm, mây tre như Ngọc Động, Hiệp Hòa… Công nghệ Vật liệu xanh được áp dụng thành công ở lĩnh vực xử lý tre trong sản xuất đồ nội thất, làm thành chậu hoa hữu cơ tự phân hủy, sản phẩm tre cuốn…

Đặc biệt, mô hình nông nghiệp hữu cơ không chất thải mang tên I-Nature gồm nhóm 25 công nghệ bền vững tạo ra nhiều vòng phát triển khép kín giúp tạo ra cân bằng cho môi trường để vây trồng và vật nuôi phát triển theo hệ tuần hoàn. Mô hình này được phát triển dựa trên nền tảng mô hình nông nghiệp truyền thống và áp dụng công nghệ mới, tạo ra một mô hình trang trại hoàn toàn không chất thải, không gây tác hại đến môi trường và sức khỏe của con người. Hiện nay, mô hình này đang được triển khai rộng rãi tại Ba Vì, Sóc Sơn tại 10 hộ gia đình đã góp phần mang lại thu nhập cho người dân địa phương.

Cũng theo ông Nguyễn Hồng Long, sau SPIN, nhóm các công nghệ bền vững và cộng đồng doanh nghiệp với mức độ cam kết cao trong lĩnh vực này được hình thành và tạo nền tảng mở ra triển vọng cho tương lai bền vững tại Việt Nam.

Tại hội thảo, Tiến sĩ Marcel Crul, Đại học Công nghệ Delft Hà Lan, sẽ trình bày về các cách thực hiện Đổi mới sản phẩm bền vững mới mà SPIN áp dụng cùng với các ví dụ điển hình tại Việt Nam. Cùng với đó, bà Nguyễn Thị Bích Hòa, Phó Giám đốc Viện Công nghệ châu Á tại Việt Nam sẽ chia sẻ về Năng lực Đổi mới sản phẩm bền vững đã được xây dựng tại Việt Nam với kết quả đầu ra là Không gian đồng sáng tạo và Ươm mầm sản phẩm bền vững mang tên Hàng Xanh, đặt tại số 45 Bát Sứ được khai trương chính thức trong tháng 9 năm 2013.

Thông tin tại website: http://scp.vn

Phương pháp, năng lực đổi mới và tương lai bền vững cho Việt Nam

Ngày 14/11/2013 – tại Press Club số 59 Lý Thái Tổ, dự án SPIN đã tổ chức thành công hội thảo “Đổi mới sản phẩm – Chìa khóa cho tương lai Bền vững”; nhận được sự quan tâm của gần 100 khách mời và các cơ quan báo chí trong nước. Hội thảo đã mang lại một cái nhìn toàn diện về hiện trạng, thách thức và cơ hội đổi mới sản phẩm bền vững tại Việt Nam của doanh nghiệp và chính sách quốc gia.

Tới tham dự hội thảo có các đại diện của doanh nghiệp đã và đang hợp tác với SPIN trong gần 4 năm qua, đại diên các bộ ban ngành có liên quan trong lĩnh vực phát triển bền vững, các tổ chức phi chính phủ đang hoạt động trong lĩnh vực này và các đại diện đến từ các cơ quan báo chí, truyền thông trong nước.

Tại hội thảo, TS. Marcel Cruel – Đại học Công nghệ Delft Hà Lan và bà Nguyễn Thị Bích Hòa – Phó giám đốc Viện công nghệ châu Á tại Việt Nam – đã báo cáo các phương pháp luận, Năng lực triển khai của các doanh nghiệp tại Việt Nam trong quá trình đổi mới sản phẩm bền vững; đồng thời, ông cũng đã giới thiệu tới toàn bộ Hội thảo hai đại biểu doanh nghiệp xuất sắc đã đổi mới thành công không chỉ về sản phẩm doanh nghiệp mà còn, quan trọng hơn, đổi mới cả về nhận thức đổi với lĩnh vực còn mới mẻ này ở Việt Nam.

Cụ thể, đó là nhãn hàng Hoa Ban+ của Cơ sở bảo trợ xã hội Thuận Hòa chuyên cung cấp các sản phẩm may mặc thủ công và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong từng sản phẩm, đồng thời vẫn thể hiện được tính hiện đại, đổi mới trong các sản phẩm ấy. Doanh nghiệp thứ hai là Tổng công ty Sản xuất Đầu tư dịch vụ xuất nhập khẩu Bình Định (PISICO); đây là doanh nghiệp đã được nâng cao nhận thức về việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và tiết kiệm, tái chế được các vật liệu thải trong quá trình sản xuất đồ nội thất để làm nên các sản phẩm nội thất mới, độc đáo và sáng tạo; giúp giảm phát thải vật liệu thừa ra môi trường và lãng phí chúng.

Tiếp đó, ông Nguyễn Hồng Long – Điều phối viên khu vực dự án SPIN – đã trình bày với toàn hội thảo kết quả cụ thể nhất của dự án SPIN sau gần 4 năm hoạt động; đó là Không gian trưng bày và ươm mầm sản phẩm Bền vững mang tên Hàng Xanh được đặt tại sô 45 Bát Sứ, Hà Nội. Dự án tin rằng, Hàng Xanh chính là minh chứng xác thực nhất cho một tương lai bền vững tại Việt Nam tại thời điểm hiện tại và trong tương lai, khi các doanh nghiệp được nâng cao nhận thức, năng lực cùng với sự ủng hộ của chính sách, tương lai ấy sẽ không còn là không tưởng.

Đại biểu tham gia đóng góp ý kiến tại Hội thảo

TS. Marcel Crul trả lời phỏng vấn

Kết thúc Hội thảo, các cử tọa tham dự được tham quan Hàng Xanh và tới thăm trang trại tri thức I-Nature để cảm nhận và trải nghiệm các sản phẩm bền vững của doanh nghiệp Việt.

Tin từ trang scp.vn

Hội thảo đánh giá dự án Cacbon thấp (Low carbon) trong ngành Lúa Gạo và Cà Phê tại Việt Nam và Campuchia

Sáng nay 16/10/2013 tại Khách Sạn PullMan, Hà Nội đã diễn ra buổi hội thảo đánh giá tiềm năng giảm thiểu nguồn carbon thấp (Low Carbon) trong ngành Lúa Gạo và Cà Phê tại hai nước Việt Nam và Campuchia, hội thảo sẽ diễn ra trong hai ngày 16 và 17/10/2013.

Dự án Low Carbon được sự tài trợ của Cục kinh tế liên bang Thụy Sỹ (SECO), do tổ chức UNIDO chủ trì sẽ hỗ trợ các Trung Tâm Sản Xuất Sạch Hơn tại Việt Nam(VNCPC) và Campuchia(CNCPO) nhằm mục đích đánh giá các tiềm năng giảm thiểu chất thải công nghiệp, giảm phát thải hiệu ứng nhà kính và tận dụng các nguồn năng lượng thấp đối với hai ngành Lúa Gạo, Cà Phê tại hai nước Việt Nam, Campuchia.

Tham dự hội thảo bao gồm các thành viên của các tổ chức SECO, UNIDO, Trung Tâm Sản Xuất Sạch Hơn Việt Nam(VNCPC), Trung Tâm Sản Xuất Sạch Hơn Campuchia(CNCPO) và đại diện các doanh nghiệp sản xuất, chế biến Gạo, Cà Phê tại hai nước Việt Nam, Campuchia cùng các cơ quan truyền thông trong ngành môi trường.

Mục tiêu của dự án là bước đầu khảo sát, đánh giá các công nghệ và quy trình sản xuất chế biến sản phẩm tại doanh nghiệp để từ đó rút ra các biện pháp nhằm giảm tiêu tốn năng lượng đồng thời giảm thiểu chất thải công nghiệp và tận dụng tái chế chất thải sau sản xuất. Sau những đánh giá này của các Trung Tâm Sản Xuất Sạch Hơn (VNCPC) tại hai nước, dự án Low Carbon sẽ thí điểm dùng nguồn vốn tài trợ cho các dự án trong ngắn và dài hạn bắt đầu từ năm 2014. Các dự án đầu tư công nghệ và quy trình này sẽ được thẩm định độ phức hợp, tính khả thi, tiềm năng và từ đó sẽ được nhân rộng cho tất cả các doanh nghiệp trong ngành Gạo, Cà Phê trong các năm tới tại hai nước Việt Nam, Campuchia.

Theo GCTF.vn 

Get Green và SPIN tham gia Hội nghị bàn tròn quốc gia về Sản xuất và Tiêu thụ bền vững

Trong hai ngày 27 và 28 tháng 9, Hội nghị bàn tròn quốc gia lần thứ 6 về Sản xuất và Tiêu thụ bền vững được phối hợp tổ chức bởi Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương và Trung tâm Sản xuất Sạch hơn Việt Nam tại TP Đà Nẵng.

GetGreen Vietnam - 360-1030SPIN logo - 360-1030

Hội nghị nhận được sự quan tâm và tham gia của hơn 120 đại biểu đại diện cho các cơ quan Bộ, các doanh nghiệp, các tổ chức và các nhà tư vấn đang hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và tiêu thụ bền vững.

Hội nghị năm nay tập trung vào 3 nội dung cơ bản: các công cụ, giải pháp sản xuất và tiêu thụ bền vững; Xanh hóa nền sản xuất và Thúc đẩy tiêu thụ bền vững ở Việt Nam. Các tham luận tại hội nghị phần lớn rất có giá trị đóng góp cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp như xây dựng các mô hình khu công nghiệp sinh thái, các hoạt động mua sắm công xanh, đô thị bền vững, các công nghệ sạch, các công cụ tích hợp nhằm sử dụng hiệu tài nguyên cho doanh nghiệp.

Hội nghị được diễn ra trong thời điểm mà Việt Nam đang triển khai rất nhiều các chương trình quốc gia về sản xuất và tiêu thụ bền vững: như Dự thảo kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng Xanh; các mục tiêu xanh hóa nền công nghiệp; chiến lược quốc gia về sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020 trước thực trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác cạn kiệt, việc sản xuất gây ô nhiễm môi trường tại các cơ sở sản xuất công nghiệp cũng như lối sống không bền vững hiện nay của xã hội.

Trung tâm Sản xuất Sạch hơn Việt Nam chủ trì một trong 3 hội thảo kỹ thuật tại Hội thảo với chủ đề Hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn vì cuộc sống xanh và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Dự án SPIN đã chia sẻ tại hội thảo các kết quả của dự án thông qua việc đổi mới và phát triển các sản phẩm bền vững phục vụ cho mẫu hình “Ăn, Mặc, Ở” và những chia sẻ từ dự án Get Green về Thúc đẩy tiêu dùng bền vững tại Việt Nam.

Các kết quả từ hai dự án đã được rất nhiều đại biểu quan tâm về tính thực tế và khả năng thương mại hóa của các sản phẩm bền vững ở Việt Nam cũng như làm sao thay đổi nhận thức và hành vi của người tiêu dùng tại Việt Nam cũng như kế hoạch nhân rộng sau khi hai dự án kết thúc nhằm phục vụ cho việc xanh hóa lối sống.

Theo scp.vn

Giới thiệu mô hình Nông nghiệp không chất thải

Mô hình nông nghiệp không chất thải là mô hình nông nghiệp bền vững, trong đó người nông dân chủ động phát triển các mô hình trồng trọt chăn nuôi, giải quyết rác thải sinh hoạt của mình mà không cần phụ thuộc vào nhà cung cấp dịch vụ. Trong mô hình này, chất thải của nhóm này lại là đầu vào của nhóm kia, kết hợp với một số kỹ thuật xanh, mô hình nông nghiệp không chất thải đem lại năng suất cao và lợi nhuận lớn cũng như sự chủ động hoàn toàn cho người nông dân.

zerowaste_1

Dự án Đổi mới sản phẩm bền vững SPIN thực hiện chuyển giao mô hình nông nghiệp không chất thải cho công ty TNHH Tre Xứ Thanh, tại Quan Hóa, Thanh Hóa. Tham gia cùng với các chuyên gia trong nước còn có Todd Hyman, chuyên gia nông nghiệp người Mỹ.

Trong chuyến công tác này, dự án đã nhận được cam kết thực hiện từ phía công ty. Các chuyên gia đã hướng dẫn cụ thể và cùng làm với cán bộ công ty để những người trực tiếp thực hiện có thể nắm rõ cách làm cũng như ý nghĩa của từng công nghệ trong cả mô hình.

zerowaste_2

Do mô hình khép kín, làm tốt phần việc từng bộ phận sẽ tăng năng suất cả trang trại.

Công ty đã được dướng dẫn dùng máy băm chặt để băm những loài cây dại làm phân xanh, kết hợp với các nguyên liệu như mùn cưa tre, than tre, phủ bằng vải không dệt toptex để tạo phân compost. Ủ phân compost không những diệt trừ mầm bệnh mà thành phần compost ưu nhiệt còn tạo điều kiện cho các vi khuẩn hữu ích sinh sôi và khi phát triển đủ số lượng thì các vi khuẩn này sẽ diệt trừ mầm bệnh. Khoảng 3 tấn rác có thể cho ra 1 tấn thành phẩm. Dùng phân compost này để bón cho cây trồng đem lại năng suất cao. Các chuyên gia khảo sát địa hình và thiết kế chuồng lợn, đưa ra bản vẽ thi công để công ty thực hiện. Trong đó, phân và nước tiểu của lợn được tách riêng ra (phân để nuôi ấu trùng ruồi BSF, còn nước tiểu để nuôi bèo tấm). Thức ăn nuôi lợn chính là những loại cây trồng phát triển nhanh như rau muống, rau lang, khoai nước (được bón bằng phân compost), ấu trùng ruồi Chiến binh đen (BSF) được nấu bằng bếp khí hóa, giun đỏ cũng là nguồn dinh dưỡng và nguồn miễn dịch cho lợn. Ngoài ra, các kỹ thuật nuôi lợn cũng được chuyển giao cho cán bộ công ty.

Bên cạnh đó, do bèo tấm phát triển rất nhanh và là thực vật giàu protein nhất, chuyên gia cũng hướng dẫn công ty tận dụng nguồn nước tiểu để nuôi bèo và cách thu hoạch bèo tấm làm nguồn cung cấp thức ăn cho lợn và gà.

Cùng với nuôi lợn, công ty cũng xây dựng trại gà để tận dụng nguồn thức ăn phong phú tự sản xuất được như: rau, giun đỏ và ấu trùng ruồi BSF là những nguồn protein giàu dinh dưỡng.

Các chuyên gia đã hướng dẫn cán bộ công ty cách thức tạo ra nguồn cung cấp ấu trùng ruồi BSF ổn định bằng thùng rác sinh học (mesophilic bin) và thùng biopod, sử dụng các chất thải sinh hoạt hữu cơ (cho thùng rác sinh học) và phân (cho thùng biopod) làm thức ăn. Cơ chế này cho phép xử lý tối đa 60 kg phân/ngày và tạo ra 10 kg ấu trùng BSF. Dư lượng của ấu trùng ruồi BSF (chủ yếu là xenlulo) lại rất thích hợp làm thức ăn cho giun đỏ (làm giun đỏ phát triển nhanh hơn bình thường 28 – 35%). Phân giun đỏ làm môi trường trồng cây rất tốt và giảm được lượng phân bón đáng kể. Giun đỏ là nguồn thức ăn chăn nuôi rất tốt, bổ dưỡng, ngoài ra gà và lợn khi ăn giun đỏ cũng giảm thiểu bệnh tật.

Xử lý chất thải sinh hoạt của người lao động cũng là vấn đề được công ty quan tâm. Vì vậy, toilet sinh học là giải pháp hiệu quả được đưa ra. Phân sẽ được ấu trùng ruồi BSF xử lý (như một loại chất thải hữu cơ), nước tiểu được tách ra dùng cho bể nuôi bèo, còn tro của sản phẩm bếp khí hóa được dùng để khử mùi hôi.

zerowaste_3

Hiện nay, mô hình Nông nghiệp không chất thải này đang được Dự án SPIN tiếp tục phối hợp nghiên cứu và hoàn thiện cùng nhiều kỹ thuật nông nghiệp khác tại trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Những công nghệ này khi được đưa vào trong một gói khép kín đem lại hiệu quả to lớn về môi trường, kinh tế cũng như xã hội ở nông thôn. Vì vậy, nhân rộng mô hình này là việc thật sự có ý nghĩa, đem lại lợi ích về nhiều mặt cho người dân nông thôn, đó cũng là điều dự án đang hướng tới. Hiện tại, dự án SPIN cũng đang triển khai mô hình nông nghiệp không chất thải cho Hợp tác xã Suối Giàng – Yên Bái, mà người dân chủ yếu là người H’Mông. Dự kiến sau khi mô hình được hoàn thiện sẽ đưa vào giảng dạy và thực hành tại Đại học Nông nghiệp Hà Nội và chuyển giao áp dụng rộng rãi vào cuộc sống cho người dân tại vùng nông thôn Việt Nam.

Theo scp.vn