Tập huấn Tiêu dùng Bền vững tại Hà Nội

Từ 26-28/02/2014, tại trung tâm Viện Công nghệ Châu Á tại Việt Nam (AIT – VN) đã diễn ra khóa tập huấn về Tiêu dùng bền vững – một trong những hoạt động đầu tiên trong giai đoạn Triển khai chính thức của GetGreen Việt Nam với sự tham gia của nhiều cá nhân là đại diện của các tổ chức, cơ quan tại Hà Nội và Đà Nẵng.

Getgreen

 Các thành viên tham gia TOT Hà Nội

Người thực hiện khóa tập huấn là Ông Floris van der Marel và Bà Jotte De Koning – Đại học công nghệ Delft (Hà Lan) – Đơn vị chủ trì dự án.

Với mục tiêu giúp các học viên tham dự khóa đào tạo có thể hiểu rõ về khái niệm tiêu dùng bền vững, đồng thời nâng cao nhận thức và hiểu biết của học viên về các phương pháp tiêu dùng khoa học, có lợi cho cả môi trường và cá nhân người tiêu dùng, buổi tập huấn của GetGreen đã sử dụng những hình thức giáo dục trực quan sinh động, thông qua các hoạt động, các trò chơi vui nhộn để giới thiệu những kiến thức về tiêu dùng bền vững đến với các học viên. Những phương pháp tiêu dùng, sinh hoạt được khóa tập huấn giới thiệu đều là những phương pháp đơn giản và dễ thực hiện, gắn liền với cuộc sống hàng ngày của mỗi người.

Thêm vào đó, khóa tập huấn còn hướng dẫn học viên về cách thức tự tổ chức một nhóm GetGreen nhỏ để nhân rộng những kiến thức về tiêu dùng bền vững tới những người xung quanh, các phương pháp duy trì hoạt động cho nhóm của mình. Đồng thời sẵn sang cung cấp nguồn tài liệu thông tin, tài liệu đào tạo và những ví dụ điển hình… từ phía dự án để nâng cao sự hiểu biết cũng như duy trì thông tin cho các nhóm Get Green nhỏ hơn của học viên.

getgreen2

Không chỉ được giới thiệu và đào tạo các kiến thức về tiêu dùng bền vững, các học viên khi tham dự khóa tập huấn vừa qua của Get Green còn được những người hướng dẫn truyền cảm hứng làm việc, học tập, cảm hứng sống xanh, giúp họ nâng cao sự tự tin, các kỹ năng cần thiết khi họ tự thành lập các nhóm nhỏ để cùng xây dựng lối sống  tiêu dùng bền vững và chia sẻ những kinh nghiệm của mình.

Kết thúc buổi tập huấn, ông Nguyễn Quang Trung – giảng viên Đại học Bách Khoa Đà Nẵng chia sẻ: “Khóa tập huấn rất ấn tượng và thú vị. Nó giúp tôi hiểu rõ hơn về tiêu dùng bền vững, một khái niệm tưởng chừng đơn giản nhưng lại chứa đựng nhiều ý nghĩa vô cùng thiết thực. Các phương pháp giảng dạy được sử dụng trong khóa tập huấn là những phương pháp rất tích cực, lấy người học làm trung tâm. Các hoạt động, các cách thức tiếp cận sinh động của giảng viên giúp chúng tôi tiếp thu nhanh được những kiến thức được trình bày. Trong đó tôi đặc biệt ấn tượng đối với phương pháp làm việc nhóm. Bởi phương pháp này giúp tôi dễ dàng hiểu được các nội dung mà mình vừa được học.

“Thông qua khóa tập huấn này, Get Green mong muốn nâng cao nhận thức cho các học viên, giúp họ có thể áp dụng các tips sống xanh vào trong cuộc sống hàng ngày của mình và trở thành hạt nhân trong việc nhân rộng và đưa lối sống bền vững đến với nhiều nhóm đối tượng hơn nữa, cùng chung tay thực hiện “Cử chỉ xanh – Sống anh lành” cùng Get Green để xây dựng một xã hội xanh sạch hơn, bền vững hơn.” – Ông Floris chia sẻ.

Theo getgreen.vn

 

 

Giới thiệu quỹ “Ủy thác tín dụng xanh” tại Thái Bình

Sáng 9/1/2014, Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Thái Bình tổ chức tổng kết hoạt động năm 2013 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2014. Tới tham dự hội nghị có sự có mặt của đồng chí Phạm Văn Xuyên – Phó chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình, đại diện các doanh nghiệp, đại diện các Sở, ngành tỉnh Thái Bình và đại diện Quỹ Ủy thác tín dụng xanh giới thiệu Quỹ tới các doanh nghiệp.

Tại hội nghị, ông Bùi Đình Trọng Phó trưởng ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Thái Bình đã báo cáo tổng kết hoạt động các khu công nghiệp năm 2013 và nêu rõ phương hướng và nhiệm vụ năm 2014.

Tính tới năm 2013, trên địa bàn tỉnh có 05 khu công nghiệp đã thành lập theo quy định của Chính phủ là Phúc Khánh, Nguyễn Đức Cảnh, Gia Lễ, Sông Trà và Cầu Nghìn với 138 dự án đầu tư và ước tính 47.400 lao động làm việc. Giá trị sản xuất đạt hơn 4.900 tỷ đồng, tăng 13,7% so với cùng kì năm trước. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ở các khu công nghiệp trong năm cơ bản ổn định, tốc độ tăng trưởng khá. Tuy nhiên, còn nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất, một số doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, thậm chí tạm ngừng sản xuất.

Trong định hướng phát triển và nhiệm vụ đề ra cho năm 2014, ngoài việc tiếp tục thu hút các dự án đầu tư lớn và có giá trị gia tăng cao, Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh cũng như các doanh nghiệp đều nhận thấy tầm quan trọng của sản xuất bền vững và thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hiện đang gặp khó khăn về vốn cũng như còn chưa được tiếp cận với các công nghệ sản xuất mới hiện đại.

Bà Nguyễn Lê Hằng – Điều phối viên quỹ Ủy thác Tín dụng xanh giới thiệu nguồn Quỹ

Nhằm giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn này, bà Nguyễn Lê Hằng – điều phối viên quỹ Ủy thác Tín dụng xanh (GCTF) thuộc Trung tâm sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) đã giới thiệu đến các doanh nghiệp nguồn quỹ đầu tư của chính phủ Thụy Sỹ. Quỹ GCTF là nguồn vốn ưu đãi bảo lãnh tới 50% tổng giá trị đầu tư công nghệ cho các doanh nghiệp và trả thưởng tối đa tới 25% tổng giá trị đầu tư sau khi đầu tư công nghệ đạt các tiêu chí trả thưởng của quỹ. Đây là môt giải pháp rất hấp dẫn giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các công nghiệp hiện đại trong sản xuất, tăng tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp và hướng các doanh nghiệp tới phát triển bền vững.

 

Đại diện doanh nghiệp phát biểu ý kiến tại Hội nghị

 Tại hội nghị, rất nhiều các doanh nghiệp đã bày tỏ sự quan tâm được tiếp cận với Quỹ để kịp thời tháo gỡ khó khăn và duy trì phát triển sản xuất kinh doanh cụ thể như công ty cổ phần ô tô An Thái Coneco, Nhà máy bao bì HDI.

Thông qua hội nghị tổng kết khu công nghiệp tỉnh Thái Bình, buổi giới thiệu Quỹ Ủy thác tín dụng xanh đã diễn ra thành công tốt đẹp và mở ra các cơ hội hợp tác của Quỹ với các doanh nghiệp tại tỉnh nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và góp phần phát triển hiệu quả của các khu công nghiệp.

Admin GCTF-VNCPC, tháng 1/2014

Thị trường cá tra EU-Phần II: Xu hướng và chính sách thu mua của các nhà bán lẻ hàng đầu

Tiếp theo phần I, phần II của Báo cáo “Tiềm năng thị trường cá tra sản xuất bền vững tại EU” đưa ra phân tích về những xu hướng và chính sách thu mua thủy sản của các nhà bán lẻ hàng đầu tại EU.
Thị trường cá tra EU-Phần II: Xu hướng và chính sách thu mua của các nhà bán lẻ hàng đầu
Sản phẩm cá tra đạt chứng nhận ASC bán tại siêu thị Sainsbury (Anh)

Thị trường EU phụ thuộc vào nguồn thủy sản NK để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cá và thủy sản. Năm 2013, khả năng tự cung thủy sản của EU chỉ có thể đáp ứng nhu cầu đủ cho đến ngày 7/7, cho thấy gần một nửa tiêu thụ thủy sản của EU phụ thuộc vào nguồn NK.

Năm 2011, các loài cá NK như cá minh thái Alaska, cá ngừ và cá tra chiếm tới 40,3% tổng lượng tiêu thụ của Đức. Tại Hà Lan, cá ngừ đứng vị trí thứ 2, cá tra đứng vị trí thứ 3 về khối lượng trên thị trường.

Thị trường EU gồm 27 thị trường đơn lẻ với dân số dự kiến tăng thêm 21,3 triệu lên 522,3 triệu người vào năm 2030. Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) dự đoán tiêu thụ bình quân thủy sản sẽ tăng từ 22 lên 24 kg/người/năm. Do đó, EU vẫn sẽ là thị trường quan trọng cho sản phẩm cá và thủy sản.

Báo cáo của FAO về thị trường cá tra EU

Tháng 6/2013, FAO đưa ra báo cáo thị trường cá tra tại EU. Theo Eurostat, năm 2012, NK cá tra vào thị trường EU đạt 143.200 tấn, trị giá 376 triệu USD, giảm 22% về khối lượng và 24% về giá trị so với năm 2011. Giá trung bình NK giảm 2,4% còn 2,36 USD/kg năm 2012. Các thị trường chính tại EU là Tây Ban Nha, Hà Lan, Ba Lan và Đức đều giảm NK cá tra từ Việt Nam. Ngược lại, một số thị trường vẫn tăng trưởng như Bỉ, Hy Lạp và Latvia.

Tuy nhiên, tình hình vẫn khả quan tại một số thị trường như:

Đức: Dù NK cá tra vào Đức năm 2012 giảm nhưng cá tra vẫn phổ biến đối với người tiêu dùng tại đây. Đây là loài cá được tiêu thụ nhiều thứ 5 tại Đức. Mới đây, cá tra đạt tiêu chuẩn ASC đã có mặt trên thị trường. ASC là chứng nhận công nhận trại nuôi hoạt động có trách nhiệm và thân thiện với môi trường. Các sản phẩm cá tra dán nhãn ASC đầu tiên có xuất xứ từ 13 trại nuôi đạt ASC tại vùng ĐBSCL, chiếm 10% tổng sản lượng cá tra của Việt Nam. Hiện nay, sản phẩm dán nhãn ASC đã có mặt tại nhiều siêu thị trên toàn nước Đức như Topsea, Frosta, Femeg, Queens and Profish.

Pháp: Trong 10 năm gần đây, Tập đoàn Carrefour, nhà bán lẻ lớn thứ 2 thế giới luôn tích cực nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản. Nhận thức được yêu cầu khẩn cấp của toàn cầu trong việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản và tương lai của ngành thủy sản, Carrefour đã cam kết đóng góp vào việc tiêu thụ thủy sản bền vững.

Để đạt mục tiêu đề ra, Carrefour xây dựng chuỗi cung cấp thủy sản tươi và đông lạnh gắn liền với các mối quan tâm về môi trường và được chứng nhận đạt các tiêu chuẩn chất lượng khắt khe. Tất cả các sản phẩm cá tra tươi và đông lạnh của tập đoàn này đều có chứng nhận GlobalGAP.

Một trong những điểm chính trong chính sách của Carrefour là bảo đảm sự minh bạch và cung cấp thông tin cho người tiêu dùng. Carrefour chủ động liên kết người tiêu dùng với một trang web dành cho người tiêu dùng thủy sản đạt chứng nhận GlobalGAP. Trang web này là một phần của chiến dịch nâng cao nhận thức của người tiêu dùng của GlobalGAP.

Từ năm 2013, Carrefour in địa chỉ trang web www.mon-poisson.info trực tiếp trên bao gói của tất cả các sản phẩm cá tra đông lạnh bán dưới thương hiệu của Carrefour tại hệ thống siêu thị của tập đoàn tại EU. Trang web về nuôi trồng thủy sản sẽ cung cấp cho khách hàng của Carrefour các thông tin về tiêu chuẩn Thực hành nuôi tốt của GlobalGAL. Người tiêu dùng cũng có thể tra cứu xuất xứ của thủy sản họ ăn thông qua bằng công cụ tra cứu sử dụng bộ mã số 13 con số – số đăng ký GlobalGAP (GGN) – được GlobalGAP cấp riêng cho từng nhà sản xuất đạt chứng nhận và được ghi trên bao bì sản phẩm. Dữ liệu và công cụ tìm kiếm được đăng tải trên trang web của GlobeGAP và  được kết nối với trang web www.mon-poisson.info.

Anh: Sainsbury là nhà bán lẻ lớn đầu tiên tại Anh giới thiệu sản phẩm cá tra đạt chứng nhận ASC (River Cobbler). Đây là một bước tiến trong xu hướng sử dụng nguồn cá thay thế được nuôi có trách nhiệm thay thế cá tuyết và cá haddock trên thị trường.

Cá tra có xuất xứ từ khu vực ĐBSCL, được nuôi thương phẩm từ đầu những năm 2000. Từ năm 2011, Sainsbury đã hợp tác với Hội đồng Nuôi trồng thủy sản (ASC) để đảm bảo cá mua từ Việt Nam đều đạt chứng nhận. Quy trình chứng nhận bao gồm hoạt động đánh giá các tiêu chí toàn diện về môi trường và xã hội do tiêu chuẩn ASC đề ra như: các yêu cầu đảm bảo tính đa dạng sinh học trong khu vực, tác động tới các cộng đồng xung quanh trại nuôi, thức ăn nuôi cá được lấy từ những nguồn cung bền vững và có thể truy xuất.

Theo hệ thống cảnh báo nhanh đối với thực phẩm và thức ăn chăn nuôi của EU (RASFF), cảnh báo đối với cá tra NK từ Việt Nam giảm đáng kể từ 24 trường hợp năm 2010 xuống còn 4 trường hợp năm 2012. Đồng thời số lô bị trả về giảm từ 14 lô xuống còn 2 lô.

Chính sách thu mua

Chính sách thu mua của các nhà bán lẻ hàng đầu EU thường gắn liền với các mục tiêu của các tổ chức phi chính phủ quốc tế; 75% trong số 20 nhà bán lẻ hàng đầu EU cam kết phát triển bền vững.

Các nhà bán lẻ đưa những cam kết tham gia chương trình chứng nhận nuôi trồng thủy sản vào trong chính sách thu mua của họ. Hiện EU có 5 nhóm chương trình chứng nhận nuôi trồng thủy sản chính: Hội đồng Quản lý Nuôi trồng thủy sản (ASC), Friend of the Sea (FOS), Liên minh Nuôi trồng thủy sản Toàn cầu (GAA), GlobalGAP và các chương trình nuôi sinh thái (ở trong và ngoài EU).

– ASC hợp tác với các nhà bán lẻ: Ahold  (Hà Lan);  Metro Group  và  Edeka  (Đức);  và  Migros  (Thụy Sĩ).

– Friend of the Sea cũng công bố lên trang web danh sách các nhà cung cấp thủy sản đạt chứng nhận của họ tại EU; trong đó ba nhà cung cấp chính cá tra tại EU chủ yếu ở Hà Lan và Thụy Sĩ.

– GAA hợp tác với: Aldi UK, ASDA, The Co-operative, Morrisons,  Tesco  và  Waitrose  (Anh);  Delhaize  (Bỉ);  Metro  Group  và Rewe  (Đức);

– Ủy ban Kỹ thuật Nuôi trồng thủy sản của GlobalGAP hợp tác với: Aldi  Süd,  Metro  Group  and  Rewe  (Đức);  El  Corte  Inglés  (Tây Ban Nha);  Aldi  UK,  ASDA, Morrisons, Sainsburys and Tesco (Anh); Ahold (Hà Lan) và Carrefour (Pháp và Tây Ban Nha).

Nhận thức về tính bền vững của thủy sản phụ thuộc vào từng nhà bán lẻ tại từng quốc gia. Một số nhà bán lẻ của Anh là Marks & Spencer Plan A hay Sainsbury xếp thủy sản bền vững vào nhóm ý tưởng sáng kiến. Các nhà bán lẻ khác như Rewe (Đức) lại xây dựng thương hiệu riêng cho thủy sản bền vững như Pro Planet.

Các tiêu chí thu mua thủy sản nuôi của nhà bán lẻ có thể vượt khỏi tầm một chương trình chứng nhận đơn lẻ và bao gồm các vấn đề chính phải đối mặt như sức khỏe động vật, thức ăn nuôi thủy sản không chứ thành phần nguyên liệu biến đổi gen hay truy xuất nguồn gốc.

Sáng kiến của GSSI

Tổ chức Sáng kiến Thủy sản bền vững Toàn cầu (GSSI) đã đưa ra một sáng kiến mới bao gồm nhiệm vụ và những mục tiêu rõ ràng để giúp các nhà bán lẻ đánh giá các chương trình chứng nhận khác nhau.

Mục tiêu của GSSI là đưa ra một công cụ chung, nhất quán và mang tính toàn cầu cho các chương trình chứng nhận và dán nhãn thủy sản nhằm đảm bảo niềm tin trong việc cung cấp và quảng bá thủy sản bền vững tới người tiêu dùng trên toàn cầu, cũng như thúc đẩy sự phát triển của những chương trình chứng nhận đó.

GSSI đặt ra mục tiêu:

– Tạo ra sự đồng thuận đối với các tiêu chí và chỉ số để đo lường và so sánh các chương trình chứng nhận và dán nhãn thủy sản, nhằm tạo điều kiện thực hiện và áp dụng những chương trình này;

– Tạo ra nền tảng cho nhiều đối tượng khác nhau trong ngành hợp tác và trao đổi kiến thức về tính bền vững của thủy sản;

– Giảm thiểu chi phí thông qua loại bỏ sự trùng lặp và nâng cao tính hiệu quả của các chương trình chứng nhận và dán nhãn, từ đó tăng khả năng thích ứng và linh hoạt trong chuỗi cung cấp.

GSSI đang tiếp tục phát triển sáng kiến để tiến tới áp dụng trên quy mô toàn cầu vào năm 2015. Một số đối tượng trong ngành thủy sản tại EU đã tham gia sáng kiến này.

Xem Báo cáo bản tiếng Anh tại đây

Theo Vasep.com.vn

Thị trường cá tra EU – Phần I: Tiềm năng thị trường cá tra sản xuất bền vững tại EU

Các nhà bán lẻ cho biết, cả giới bán lẻ và khách hàng đều chấp nhận chi thêm tiền cho chất lượng sản phẩm chứ không phải cho các chứng nhận. Điều này không có nghĩa là chứng nhận không có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro hay xây dựng uy tín thương hiệu, mà cần phải tìm hiểu các hoạt động sản xuất có trách nhiệm tại trại nuôi và nhà máy chế biến đóng góp thế nào vào quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm.

Tháng 9/2013, “Dự án Xây dựng chuỗi cung ứng cá Tra bền vững tại Việt Nam” (SUPA) đã hoàn thành báo cáo “Tiềm năng thị trường cá tra sản xuất bền vững tại EU” do chuyên gia tư vấn Carson Roper và WWF Áo thực hiện. Báo cáo khái quát tình hình và đưa ra các khuyến nghị đối với cá tra Việt Nam XK sang EU. Đây hiện là những phân tích mới nhất về sản phẩm cá tra tại thị trường này. Báo cáo có 8 phần và hàng tuần Bản tin Thương mại Thủy sản sẽ đăng tải từng phần của Báo cáo này.

Tại phần I, SUPA – dự án do Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) chủ trì và hợp tác với VASEP, WWF-Việt Nam và WWF- Áo, phân tích thị trường dựa trên 3 mục tiêu chính: tìm hiểu sự nhận thức của thị trường EU về ngành cá tra của Việt Nam; tiến hành phân tích các đối tượng thị trường chính và xu hướng thị trường EU; khuyến nghị cho việc cải thiện hình ảnh của cá tra Việt Nam nhằm tăng khối lượng XK và giá cá tra tại Châu Âu.

Hình ảnh của cá tra tại EU

Hình ảnh của cá tra tại thị trường bán lẻ EU bị ảnh hưởng bởi những báo cáo truyền thông tiêu cực và các chiến dịch do các nhóm có cạnh tranh về lợi ích với cá tra tại từng thị trường NK thực hiện. Theo đó, ngành cá tra Việt Nam bị coi là một ngành sản xuất ồ ạt và có những tác động tiêu cực.

Thị trường EU, các đối tượng chính và xu hướng

Tốp 25 nhà bán lẻ hàng đầu thế giới năm 2012

1 Walmart Mỹ
2 Carrefour Group Pháp
3 Tesco Anh
4 Metro Group Đức
5 Schwartz Group Đức
6 Kroger Co. Mỹ
7 Costco Mỹ
8 Aldi Đức
9 Target Corp. Mỹ
10 Rewa Group Đức
11 Edeka Đức
12 Auchan Pháp
13 Aeon Nhật Bản
14 Woolworths Úc
15 Seven & I Nhật Bản
16 Coles Group Pháp
17 Casino Group Pháp
18 (ITM) Intermarché Pháp
19 E. Leclerc Pháp
20 Safeway Mỹ
21 Ahold Hà Lan
22 Supervalu Mỹ
23 J Sainsbury’s Anh
24 Loblaw Co. Canada
25 Delhaize

Bỉ

Dân số Châu Âu được dự đoán tăng từ 501 triệu người năm 2010 lên hơn 522,3 triệu vào năm 2030 với tiêu thụ cá bình quân đầu người tăng từ 22 kg lên 24 kg. Trong khi đó, khu vực này phụ thuộc rất nhiều vào nguồn NK để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ và sẽ còn tiếp tục phụ thuộc trong tương lai.

Thị trường bán lẻ EU là một khối thị trường trong đó 25 nhà bán lẻ hàng đầu thế giới chiếm tỷ trọng rất lớn.

Các thị trường chính tiêu thụ cá tra tại EU lần lượt là: Tây Ban Nha, Hà Lan, Đức và Anh. Thông qua Kế hoạch chiến lược CSR và chính sách thu mua thủy sản, các nhà bán lẻ EU thực hiện các chương trình kiểm soát và giới hạn sự lựa chọn. Quá trình kiểm soát và giới hạn lựa chọn đòi hỏi phải hạn chế các sản phẩm được giới thiệu cho khách hàng dựa vào các tiêu chí môi trường, xã hội và/hoặc các vấn đề cần cân nhắc khác. Hiệu quả của chương trình kiểm soát và giới hạn việc lựa chọn các sản phẩm thủy sản nuôi (đặc biệt là cá tra) dao động tùy theo thị trường và nhà bán lẻ.

Tây Ban Nha, Đức, Pháp và Anh là những thị trường hấp dẫn để phát triển kinh doanh cá tra. Kinh doanh cá “thịt trắng” (bao gồm cả cá tra) tại Tây Ban Nha bị ảnh hưởng do khủng hoảng tài chính nên có thể sẽ tăng trở lại khi kinh tế phục hồi. Tây Ban Nha là thị trường hấp dẫn nhờ có quan hệ thương mại với Bồ Đào Nha.

Kinh doanh cá tra thị trường Đức, Áo và Thụy Sĩ  bị ảnh hưởng sau khi một chương trình phóng sự bôi nhọ cá tra được phát sóng tại Đức năm 2011. Sau đó thị trường Đức đã chứng kiến sự phát triển mạnh của nhãn ASC nhằm lấy lại niềm tin của người tiêu dùng.

Tiêu thụ cá tra tại Pháp cũng sụt giảm vì các báo cáo truyền thông tiêu cực. Tại thị trường Anh, cá tra đạt chứng nhận bắt đầu được thị trường công nhận. Tất cả các thị trường trên đều có tiềm năng phát triển tiêu thụ cá tra khi hình ảnh con cá này được cải thiện.

Các nhà bán lẻ EU chủ yếu dựa trên các tiêu chí sau để đưa ra quyết định thu mua cá tra xuất xứ Việt Nam: chất lượng, giá cả và dịch vụ, an toàn thực phẩm, các vấn đề xã hội; tác động môi trường; sức khỏe động vật, anh sinh và truy xuất nguồn gốc. Những yếu tố này đều giúp giảm bớt nguy cơ mà nhà bán lẻ phải chịu đối với sản phẩm. Chất lượng, an toàn thực phẩm hoặc các vấn đề khác liên quan đến sản phẩm như vấn đề mặt xã hội, tác động môi trường hoặc sức khỏe động vật và an sinh thường được giải quyết thông qua các chương trình và hệ thống chứng nhận. “Nhãn đỏ” của Pháp là một ví dụ về chất lượng sản phẩm. An toàn thực phẩm được giải quyết thông qua Tổ chức Sáng kiến An toàn thực phẩm Toàn cầu (GFSI). Các vấn đề khác được giải quyết thông qua các chương trình chứng nhận nuôi cá như ASC, GlobalGAP, BAP, Friend of the Sea và chương trình cho cá nuôi sinh thái.

Việc quảng bá, bảo vệ nhà bán lẻ và xác định thương hiệu nhà cung cấp đóng vai trò vô cùng quan trọng tại các khối thị trường lớn như thị trường EU. Các nhà bán lẻ và các nhà cung cấp của họ đã xây dựng các chiến dịch truyền thông về thương hiệu để giảm thiểu rủi ro. Một số chương trình điển hình như:

– Chương trình “Forever Fish” của công ty Marks và Spencer phối hợp cùng Tổ chức Bảo tồn biển (MCS) và WWF Anh;

– Chương trình “Fish for Life” của công ty Young (và Findus);

– Chương trình “Forever Food” của công ty Iglo Foods;

– Quan hệ hợp tác giữa Edeka và WWF vì nghề cá bền vững;

– Ngoài ra còn có những chương trình được sử dụng để tăng cường việc xác định thương hiệu nhà bán lẻ trên sản phẩm thông qua các dấu hiệu và nhãn sản phẩm.

– Bảo đảm giá thấp của công ty ASDA;

– Sử dụng nhãn bền vững ASC của công ty Edeka;

Tất cả đều vì mục tối thượng là nâng cao uy tín sản phẩm. Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy phản ứng từ thị trường rất rõ ràng rằng người tiêu dùng đang bị lúng túng vì có quá nhiều loại nhãn sản phẩm. Do đó, nghiên cứu của SUPA xác định xu hướng hiện nay để tập trung trước hết vào việc xây dựng danh tiếng thương hiệu bằng những thông điệp dễ hiểu hướng tới người tiêu dùng: ví dụ như giá và chất lượng sản phẩm, khi nào cần thiết đẩy mạnh danh tiếng thương hiệu bằng cách gửi thông điệp về uy tín sản phẩm với các nhãn trong và ngoài nước.

Vậy con cá tra Việt Nam có hình ảnh như thế nào?

Trước hết, có một tin vui là cá tra xuất xứ Việt Nam đang xuất hiện nhiều tại thị trường bán lẻ của EU. Hơn nữa, cá tra Việt Nam được công nhận có những thế mạnh về giá cả phải chăng, hương vị thơm, đã được rút xương và dễ chế biến. Tuy nhiên, loài cá này cũng gặp một số vấn đề liên quan đến chất lượng, an toàn thực phẩm, lo ngại về xã hội và môi trường, sức khỏe động vật và an sinh. Giải quyết những vấn đề này là yêu cầu quan trọng bởi chúng quyết định khả năng tiếp cận thị trường tại EU.

Những năm gần đây, Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều để đạt các chứng nhận nhằm cải thiện hình ảnh và nâng cao danh tiếng của cá tra. Tuy nhiên, quan trọng là cần hiểu được các chương trình chứng nhận nuôi thủy sản không phải là sự bảo đảm cho việc tiếp cận thị trường. Thứ nhất, chứng nhận chỉ đơn thuần là công cụ tạo điều kiện cho việc tiếp cận thị trường dễ dàng hơn. Thứ hai, chứng nhận không đảm bảo sản phẩm nuôi có thể tăng giá bán. Điều này đặc biệt đúng với những thị trường có tính cạnh tranh cao như Pháp, Anh và Đức. Vì vậy, chứng nhận thủy sản nuôi cần được coi là một yếu tố trong bước tiếp cận thị trường chính với mục đích đưa cá tra đạt chứng nhận thành một nguồn cung protein chất lượng, có thương hiệu và uy tín sản phẩm tại thị trường EU

Những khuyến nghị để cải thiện hình ảnh cá tra Việt Nam tại thị trường EU:

– Kiểm soát sự lựa chọn hay bị kiểm soát: Cần phải nắm bắt được cách các nhà bán lẻ nhìn nhận về các hoạt động chế biến và nuôi cá. Điều này đòi hỏi phải liên tục theo dõi các chính sách của các nhà bán lẻ và các vấn đề chính định hướng những chính sách này.

– Công nhận những ảnh hưởng kinh tế, tuy nhiên không thao túng cá tra tại thị trường EU. Nếu cá tra thực sự là loài cá tuân thủ quy luật giá cả thị trường tại EU, tiêu thụ loài cá này sẽ tăng lên ngay cả khi kinh tế suy thoái.

– Xác định cách thức để cá tra có thể làm giảm rủi ro của các nhà bán lẻ và làm tăng uy tín thương hiệu và uy tín của các sản phẩm mang thương hiệu.

– Xác định sự cân bằng giữa các kế hoạch sản xuất và tiếp thị cho cá tra.

– Chủ động kiểm soát trong các vấn đề như nguyên liệu chế biến thức ăn từ hạt biến đổi gen và sức khỏe động vật.

– Đưa ra những thông tin tích cực: phản hồi của nhà bán lẻ trong các cuộc phỏng vấn, trong đó cần thiết có cả những phỏng vấn chuyên sâu hơn về hoạt động nuôi và chế biến.

Theo phản hồi từ những nhà bán lẻ được phỏng vấn, cả nhà bán lẻ và khách hàng đều chấp nhận chi thêm tiền cho chất lượng sản phẩm chứ không phải cho các chứng nhận. Điều này không có nghĩa là chứng nhận không có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro hay xây dựng uy tín thương hiệu. Do đó, cần phải tìm hiểu các hoạt động sản xuất có trách nhiệm tại trại nuôi và nhà máy chế biến đóng góp thế nào vào quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm.

Xem Nội dung Chương I của báo cáo bản tiếng Anh tại đây

Theo Vasep

Hội thảo “Đổi mới sản phẩm, chìa khóa cho tương lai bền vững”

Không gian đồng sáng tạo và Ươm mầm sản phẩm bền vững mang tên Hàng Xanh, đặt tại số 45 Bát Sứ , Hà Nội

HÀ NỘI 14/11/2013 – Hội thảo “Đổi mới sản phẩm – Chìa khóa cho tương lai bền vững” được tổ chức nhằm báo cáo các thành quả đạt được và chia sẻ kinh nghiệm thực hiện đổi mới sản phẩm trong suốt bốn năm triển khai dự án Đổi mới Sản phẩm Bền vững (SPIN) tại Việt Nam, Lào và Campuchia. Hội thảo mang lại một cái nhìn toàn diện về thực tiễn đổi mới sản phẩm bền vững và triển vọng của Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung trong lĩnh vực này.

SPIN làm việc với hơn 500 công ty vừa và nhỏ thuộc 4 lĩnh vực: Dệt may, Đồ gỗ nội thất, Thủ công mỹ nghệ và Đóng gói; hỗ trợ đổi mới sản phẩm tại các khâu: Thiết kế sản phẩm (thiết kế lại và thiết kế mới sản phẩm), Xây dựng chiến lược sản phẩm, Tư vấn và Chuyển giao các công nghệ sạch. Dưới sự hợp tác bền chặt giữa doanh nghiệp, nhà thiết kế và chuyên gia của dự án, 2000 sản phẩm được thiết kế lại và thiết kế mới, thân thiện với môi trường, không gây độc hại tới sức khỏe người tiêu dùng, đặc biệt các sản phẩm này có tiềm năng lớn để đưa ra thị trường.

Dựa trên phương pháp luận sử dụng nguồn Tài nguyên hiệu quả và công nghệ Sạch, có 85 công ty tại Lào đổi mới sản phẩm tại khâu thiết kế và 85 công ty tại Campuchia tập trung đổi mới từ phía bên trong công ty. Tại Việt Nam, việc Đổi mới sản phẩm không chỉ dừng lại ở phạm vi của một công ty mà còn hình thành một chuỗi giá trị gồm nhóm các công ty cùng hoạt động trong một lĩnh vực để hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất. Tại Lào và Campuchia, SPIN hỗ trợ tại mức giúp các công ty tiếp cận thích ứng với tự nhiên đang biến đổi thì tại Việt Nam, các doanh nghiệp được hỗ trợ theo hướng tiếp cận chủ động: dựa trên các công nghệ được chuyển giao, SPIN biến đổi và phát triển chúng để phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và điều kiện tự nhiên của Việt Nam.

Chính mô hình và phương thức kinh doanh sáng tạo này giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng như tính thân thiện môi trường của sản phẩm.

Doanh nghiệp tham gia vào SPIN được nâng cao nhận thức, năng lực đối với việc đổi mới sản phẩm và quá trình sản xuất theo hướng bền vững. Ông Nguyễn Hồng Long, Điều phối viên khu vực dự án SPIN, cho biết: “Qua việc tham gia hội thảo và các khóa học do SPIN tổ chức, phần lớn các doanh nghiệp nhận ra rằng không quá khó để đổi mới sản phẩm bền vững mà vẫn đảm bảo được năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp được nâng cao năng lực và tạo động lực để hành động, bắt tay vào quá trình còn mới mẻ này bằng cách các kiến thức và công nghệ nhằm sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và tận dụng được nguồn thải vào việc tạo ra nguyên-vật liệu cho sản xuất.”

Thành công nhất, hơn 30 công nghệ bền vững được phát triển, tối ưu hóa và phối hợp thành nhóm công nghệ để để phù hợp với điều kiên của doanh nghiệp và tự nhiên tại Việt Nam. Trong đó, 3 nhóm công nghệ được áp dụng thành công nhất là Năng lượng tái tạo, Mô hình nông nghiệp hữu cơ không chất thải và Vật liệu xanh. Nhóm công nghệ Năng lượng tái tạo gồm buồng sấy bằng năng lượng mặt trời và bếp Khí hóa dân sinh và công nghiệp; được áp dụng thành công cho các công ty sản xuất nấm, mây tre như Ngọc Động, Hiệp Hòa… Công nghệ Vật liệu xanh được áp dụng thành công ở lĩnh vực xử lý tre trong sản xuất đồ nội thất, làm thành chậu hoa hữu cơ tự phân hủy, sản phẩm tre cuốn…

Đặc biệt, mô hình nông nghiệp hữu cơ không chất thải mang tên I-Nature gồm nhóm 25 công nghệ bền vững tạo ra nhiều vòng phát triển khép kín giúp tạo ra cân bằng cho môi trường để vây trồng và vật nuôi phát triển theo hệ tuần hoàn. Mô hình này được phát triển dựa trên nền tảng mô hình nông nghiệp truyền thống và áp dụng công nghệ mới, tạo ra một mô hình trang trại hoàn toàn không chất thải, không gây tác hại đến môi trường và sức khỏe của con người. Hiện nay, mô hình này đang được triển khai rộng rãi tại Ba Vì, Sóc Sơn tại 10 hộ gia đình đã góp phần mang lại thu nhập cho người dân địa phương.

Cũng theo ông Nguyễn Hồng Long, sau SPIN, nhóm các công nghệ bền vững và cộng đồng doanh nghiệp với mức độ cam kết cao trong lĩnh vực này được hình thành và tạo nền tảng mở ra triển vọng cho tương lai bền vững tại Việt Nam.

Tại hội thảo, Tiến sĩ Marcel Crul, Đại học Công nghệ Delft Hà Lan, sẽ trình bày về các cách thực hiện Đổi mới sản phẩm bền vững mới mà SPIN áp dụng cùng với các ví dụ điển hình tại Việt Nam. Cùng với đó, bà Nguyễn Thị Bích Hòa, Phó Giám đốc Viện Công nghệ châu Á tại Việt Nam sẽ chia sẻ về Năng lực Đổi mới sản phẩm bền vững đã được xây dựng tại Việt Nam với kết quả đầu ra là Không gian đồng sáng tạo và Ươm mầm sản phẩm bền vững mang tên Hàng Xanh, đặt tại số 45 Bát Sứ được khai trương chính thức trong tháng 9 năm 2013.

Thông tin tại website: http://scp.vn

Phương pháp, năng lực đổi mới và tương lai bền vững cho Việt Nam

Ngày 14/11/2013 – tại Press Club số 59 Lý Thái Tổ, dự án SPIN đã tổ chức thành công hội thảo “Đổi mới sản phẩm – Chìa khóa cho tương lai Bền vững”; nhận được sự quan tâm của gần 100 khách mời và các cơ quan báo chí trong nước. Hội thảo đã mang lại một cái nhìn toàn diện về hiện trạng, thách thức và cơ hội đổi mới sản phẩm bền vững tại Việt Nam của doanh nghiệp và chính sách quốc gia.

Tới tham dự hội thảo có các đại diện của doanh nghiệp đã và đang hợp tác với SPIN trong gần 4 năm qua, đại diên các bộ ban ngành có liên quan trong lĩnh vực phát triển bền vững, các tổ chức phi chính phủ đang hoạt động trong lĩnh vực này và các đại diện đến từ các cơ quan báo chí, truyền thông trong nước.

Tại hội thảo, TS. Marcel Cruel – Đại học Công nghệ Delft Hà Lan và bà Nguyễn Thị Bích Hòa – Phó giám đốc Viện công nghệ châu Á tại Việt Nam – đã báo cáo các phương pháp luận, Năng lực triển khai của các doanh nghiệp tại Việt Nam trong quá trình đổi mới sản phẩm bền vững; đồng thời, ông cũng đã giới thiệu tới toàn bộ Hội thảo hai đại biểu doanh nghiệp xuất sắc đã đổi mới thành công không chỉ về sản phẩm doanh nghiệp mà còn, quan trọng hơn, đổi mới cả về nhận thức đổi với lĩnh vực còn mới mẻ này ở Việt Nam.

Cụ thể, đó là nhãn hàng Hoa Ban+ của Cơ sở bảo trợ xã hội Thuận Hòa chuyên cung cấp các sản phẩm may mặc thủ công và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong từng sản phẩm, đồng thời vẫn thể hiện được tính hiện đại, đổi mới trong các sản phẩm ấy. Doanh nghiệp thứ hai là Tổng công ty Sản xuất Đầu tư dịch vụ xuất nhập khẩu Bình Định (PISICO); đây là doanh nghiệp đã được nâng cao nhận thức về việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và tiết kiệm, tái chế được các vật liệu thải trong quá trình sản xuất đồ nội thất để làm nên các sản phẩm nội thất mới, độc đáo và sáng tạo; giúp giảm phát thải vật liệu thừa ra môi trường và lãng phí chúng.

Tiếp đó, ông Nguyễn Hồng Long – Điều phối viên khu vực dự án SPIN – đã trình bày với toàn hội thảo kết quả cụ thể nhất của dự án SPIN sau gần 4 năm hoạt động; đó là Không gian trưng bày và ươm mầm sản phẩm Bền vững mang tên Hàng Xanh được đặt tại sô 45 Bát Sứ, Hà Nội. Dự án tin rằng, Hàng Xanh chính là minh chứng xác thực nhất cho một tương lai bền vững tại Việt Nam tại thời điểm hiện tại và trong tương lai, khi các doanh nghiệp được nâng cao nhận thức, năng lực cùng với sự ủng hộ của chính sách, tương lai ấy sẽ không còn là không tưởng.

Đại biểu tham gia đóng góp ý kiến tại Hội thảo

TS. Marcel Crul trả lời phỏng vấn

Kết thúc Hội thảo, các cử tọa tham dự được tham quan Hàng Xanh và tới thăm trang trại tri thức I-Nature để cảm nhận và trải nghiệm các sản phẩm bền vững của doanh nghiệp Việt.

Tin từ trang scp.vn