Bộ lọc than hoạt tính giúp loại bỏ hóa chất vĩnh cửu trong nước uống hàng ngày

Các nhà nghiên cứu tại một trường đại học của Mỹ đã tìm ra phương pháp giúp loại bỏ một lượng hóa chất vĩnh cửu có trong nguồn nước uống hàng ngày.

Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học trên khắp thế giới đã liên tục tìm kiếm các phương pháp nhằm loại bỏ các hóa chất này trong nước uống. Mới đây, Trường đại học British Columbia, Mỹ, đã tìm ra chất xúc tác có thể loại bỏ hóa chất vĩnh cửu có trong nguồn nước sinh hoạt hàng ngày của con người. Các hóa chất vĩnh cửu, viết tắt là PFAS, được sử dụng rất nhiều vì chúng giúp cho đồ vật chịu nhiệt cao, chống bẩn và kháng nước. Tuy nhiên, khi không còn được sử dụng và vứt bỏ ra bãi rác, những sản phẩm có chứa PFAS sẽ gây ô nhiễm nguồn nước vì các hóa chất này rất khó phân hủy. Chúng là những nhân tố nguy hiểm đe dọa sức khỏe, có liên quan đến các bệnh gan, ung thư, tuyến giáp và nhiều bệnh khác.

Theo phương pháp này, chỉ cần vài giờ để làm sạch nước, ngay cả khi không có nguồn tia cực tím ổn định để khử. Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã tạo ra một bộ lọc than hoạt tính có chứa chất xúc tác đã được cấp bằng sáng chế. Chất xúc tác quang lai oxit sắt (Fe/g-C) có thể thu giữ PFAS trong nước và phân hủy các hóa chất này thành các thành phần vô hại. Toàn bộ quá trình này khá nhanh, tùy vào lượng nước cần được xử lý.

 Bộ lọc than hoạt tính cho phép loại bỏ một lượng lớn hóa chất vĩnh cửu tồn tại trong nước uống

Các nhà nghiên cứu cho biết một số giải pháp trước đây chỉ có thể thực hiện hoặc thu giữ hoặc phân hủy các hóa chất này, nhưng với công nghệ được sử dụng trong nghiên cứu mới này, cả hai vấn đề nêu trên đều có thể được xử lý trong thời gian ngắn.

Theo các nhà khoa học, giải pháp mới này nhanh hơn rất nhiều so với các cách thức khác. Chất xúc tác được nghiên cứu chỉ cần 3 giờ đồng hồ là có thể loại bỏ 90% các hóa chất vĩnh cửu trong nước. Bên cạnh đó, phương pháp này còn có ưu điểm tiết kiệm chi phí và dễ thực hiện hơn các phương pháp khác đang được áp dụng.

Chẳng hạn như một số phương pháp cần có tia cực tím để tạo các phản ứng hóa học, nhưng phương pháp mới của nhóm nghiên cứu lần này hoàn toàn áp dụng được ở những nơi không có đủ ánh sáng. Trong điều kiện thiếu sáng, công nghệ mới này vẫn loại bỏ được 85% PFOA. PFOA cũng là một hóa chất vĩnh cửu.

Hơn nữa, công nghệ mới này có thể dùng để loại bỏ các thành phần “cứng đầu” khác gây ô nhiễm nước chứ không chỉ các hóa chất vĩnh cửu. Chất xúc tác đặc biệt này có thể dùng để xử lý các hệ thống cấp nước đô thị và các cơ sở công nghiệp.

Đây quả là một thành tựu nghiên cứu có giá trị quan trọng. Hiện, các nhà khoa học đã liên kết với một công ty thương mại để đưa công nghệ mới này đi vào đời sống.

 Bảo Linh (t/h)
https://vietq.vn/bo-loc-than-hoat-tinh-giup-loai-bo-hoa-chat-vinh-cuu-trong-nuoc-uong-hang-ngay-d224975.html

Tái sử dụng pin – Giải pháp bền vững lưu trữ năng lượng sạch

Nhằm giảm thiểu rác thải điện tử ra môi trường cũng như hướng đến một xã hội phát triển bền vững, Uỷ ban tiêu chuẩn IEC mới đây đã công bố bộ tiêu chuẩn hướng dẫn về việc tái sử dụng đối với loại pin xe điện đã hết hạn.

Pin là vật liệu quan trọng và cần thiết để lưu trữ và tái tạo nguồn năng lượng để sử dụng khi cần thiết. Theo Kịch bản Phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), pin là một phần thiết yếu của hệ thống năng lượng toàn cầu hiện nay và là công nghệ năng lượng phát triển nhanh nhất trên thị trường.

Để sản xuất ra một sản phẩm pin, cần rất nhiều chi phí, chưa kể, khi pin hết một vòng đời sử dụng có thể thải ra các chất ô nhiễm độc hại nếu không được xử lý đúng cách, có thể gây ra các vấn đề về rác thải điện tử, gây ô nhiễm môi trường.

Theo IEA ước tính rằng các loại pin không còn đáp ứng tiêu chuẩn sử dụng trong xe điện (EV), vẫn có thể duy trì tới 80% tổng dung lượng sử dụng được đối với các thiết bị khác. Với số lượng xe điện ngày càng tăng, dần thay thế cho dòng xe xăng, việc tái sử dụng pin sẽ là giải pháp có giá trị để lưu trữ năng lượng và bảo vệ môi trường, hướng tới một mục đích phát triển bền vững.


Tiêu chuẩn IEC 63338 – Hướng dẫn chung về việc tái sử dụng và tái chế pin và ắc quy thứ cấp

Tuy nhiên, việc tái sử dụng pin không hề dễ dàng, vì những thách thức về quy định công nghệ vẫn là rào cản đối với việc áp dụng. Không chỉ có rủi ro không may xảy ra trong quá trình tái sử dụng pin mà còn trong quá trình sử dụng chúng. Hơn nữa, nhiều quốc gia và khu vực đang xây dựng các yêu cầu và quy định khác nhau về việc tái sử dụng và tái sử dụng pin, hầu hết tập trung về các vấn đề về kỹ thuật hoặc an toàn.

Đây là thời điểm thích hợp để tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng nhằm giải quyết vấn đề này, cũng như tạo khung quy định chung, chuẩn mực để các quốc gia tham khảo. Tiêu chuẩn IEC 63338 – Hướng dẫn chung về việc tái sử dụng và tái chế pin và ắc quy thứ cấp, mới được công bố nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề này. Tiêu chuẩn đề cập đến các rủi ro về an toàn liên quan đến hệ thống lithium ion và niken cũng như xác định tính phù hợp để tái sử dụng hoặc tái chế, hay quy định chung về cảnh báo của nhà sản xuất, v.v.

Tiêu chuẩn này được phát triển bởi ủy ban kỹ thuật IEC TC 21/SC 21A dành cho các loại ắc quy và pin thứ cấp chứa chất điện phân kiềm hoặc chất điện phân không phải axit khác.

Đây là tiêu chuẩn mới nhất trong số nhiều tiêu chuẩn của Uỷ ban TC 21/SC 21A được thiết kế để hỗ trợ việc tái sử dụng và thay đổi mục đích sử dụng pin và hệ thống lưu trữ năng lượng pin một cách an toàn và đáng tin cậy.

Các tiêu chuẩn khác của Uỷ ban bao gồm IEC 63330-1 (yêu cầu chung về việc tái sử dụng các cell thứ cấp, mô-đun, bộ pin và hệ thống pin), IEC 62933-4-4 (yêu cầu về môi trường đối với hệ thống lưu trữ năng lượng dựa trên pin (BESS) có pin tái sử dụng) và IEC 62933-5-3 (yêu cầu về an toàn đối với hệ thống EES tích hợp lưới điện).

Bảo Linh (biên dịch từ IEC)
https://vietq.vn/tai-su-dung-pin—giai-phap-ben-vung-luu-tru-nang-luong-sach-d224706.html

Chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái để phát triển kinh tế bền vững

Theo Vụ Quản lý các Khu kinh tế, Bộ KH&ĐT, tính đến hết tháng 7/2024, cả nước đã có 431 KCN, khu chế xuất được thành lập với tổng diện tích khoảng 132.300 ha, tạo ra quỹ đất công nghiệp khoảng 89.900 ha.

Trong đó có hơn 300 KCN đã đi vào hoạt động, thu hút được lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung cũng như các địa phương nói riêng.

Hiện đã có một số Khu công nghiệp truyền thống tiên phong chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái, thu hút nhiều Tập đoàn lớn đến đầu tư và hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế đất nước xanh, bền vững. Tuy vậy rất cần nhiều cơ chế, chính sách hơn nữa để thúc đẩy các Khu công nghiệp sinh thái thực sự đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước bền vững.

Một thực tế đáng mừng là, trong những năm gần đây, vốn FDI trong KCN, KKT chiếm khoảng 35 – 40% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước; nếu tính riêng trong lĩnh vực chế biến, chế tạo thì vốn FDI trong KCN, KKT chiếm 70 – 80% tổng vốn đăng ký cả nước. KCN và KKT đã thực sự trở thành các khu vực trọng điểm thu hút các nguồn vốn đầu tư và dự án lớn trong và ngoài nước, là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới, như: Samsung, LG, Canon, Foxconn, Lego, Gortek, Hyosung, Formosa… đóng vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.


Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền – Hải Phòng

Không nằm ngoài xu hướng chung của thế giới, với sự hỗ trợ của các tổ chức, chuyên gia quốc tế và nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ, trong giai đoạn 2015-2019, Việt Nam đã triển khai thí điểm sáng kiến KCN sinh thái tại 3 địa phương: Ninh Bình, Đà Nẵng, Cần Thơ do Bộ KH&ĐT phối hợp với tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc thực hiện với nguồn tài trợ từ Tổng cục kinh tế Liên bang Thụy Sỹ, Quỹ Môi trường toàn cầu và Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc.

Sau hơn 4 năm triển khai hỗ trợ chuyển đổi 4 KCN thí điểm là KCN Khánh Phú, KCN Gián Khẩu, KCN Hòa Khánh và KCN Trà Nóc 1&2, các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn do dự án đề xuất đã giúp 72 DN tiết kiệm được hơn 22.000 MWh điện, 600.000 m3 nước, gần 3.600 tấn hóa chất và chất thải, trên 76 tỷ đồng/năm và huy động trên 207 tỷ đồng từ khu vực tư nhân, cắt giảm khí CO2 phát thải…

Từ năm 2020-2024, từ nguồn hỗ trợ tài chính của Chính phủ Thụy Sỹ, Bộ KH&ĐT tiếp tục phối hợp với UNIDO nhân rộng mô hình KCN sinh thái thêm tại 3 địa phương: Hải Phòng, Đồng Nai và TP.HCM. Tính đến hết tháng 5/2024, đã có 90 doanh nghiệp được hỗ trợ với 889 giải pháp hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn tại 4 KCN: Hiệp Phước; Amata; Đình Vũ và Hoà Khánh, góp phần tiết kiệm năng lượng, nước, giảm phát thải CO2 và đem lại lợi ích kinh tế cho các DN; đề xuất thực hiện 62 cơ hội cộng sinh công nghiệp – đô thị cho 3 KCN với 18 trường hợp có tính khả thi cao, góp phần tối ưu hóa việc tái sử dụng chất thải, cụ thể hóa việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.

Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững, các KCN trong thời gian tới cần có những giải pháp đột phá, phù hợp với xu thế mới, các bộ, ngành đang đề xuất những chính sách khuyến khích phù hợp, hỗ trợ các nhà đầu tư có động lực triển khai các mô hình mang tính bền vững.

Bà Vương Thị Minh Hiếu, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các Khu Kinh tế, Bộ KH&ĐT cho biết: “Đối với mô hình khu công nghiệp sinh thái này thì ngoài những cơ chế chính sách ưu đãi, không phải quy định của pháp luật về thuế, chúng tôi định hướng sẽ bổ sung cơ chế chính sách, ví dụ như thời hạn hoạt động của các dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp cao hơn so với những dự án hạ tầng khu công nghiệp thông thường.

Đồng thời sẽ bổ sung cơ chế chính sách liên quan đến điều kiện tín dụng ưu đãi, các nguồn lực cho việc thực hiện các khu công nghiệp sinh thái. Ngoài ra nội dung quan trọng nhất của Luật, đó chính là nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về Khu công nghiệp- Khu kinh tế với trọng tâm là các cơ quan quản lý nhà nước về KCN-KKT ở các địa phương. Các Ban quản lý phải có đủ thẩm quyền, năng lực để phát triển những mô hình, theo hướng tiệm cận với quốc tế như là mô hình Khu công nghiệp sinh thái hay khu thương mại tự do”.


Bà Vương Thị Minh Hiếu – Phó Vụ trưởng Quản lý các Khu kinh tế – Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu mà đang thực sự trở thành xu thế tất yếu, là giá trị cốt lõi của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định tầm nhìn và định hướng chiến lược kinh doanh. Đây cũng vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam để phát triển bứt phá và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đơn cử như quá trình chuyển đổi từ truyền thống sang sinh thái của các khu công nghiệp An Phát (Hải Dương), Nam Cầu Kiền và Deep-C (Hải Phòng) đã tạo ra hiệu quả vượt trội cho chuỗi kinh tế tuần hoàn. Những mô hình này đang tạo sức cạnh tranh lớn trong thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời, là xu thế tất yếu trong quá trình chuyển đổi xanh. Khu công nghiệp Deep C nổi bật với hệ thống năng lượng tái tạo (điện mặt trời áp mái, điện gió); khu tổ hợp dịch vụ xã hội trong khu công nghiệp. Các công trình nơi đây đều dựa vào tự nhiên ứng phó biến đổi khí hậu.

Đặc biệt, khu công nghiệp Nam Cầu Kiền với vai trò tích cực của nhà đầu tư đã trở thành mô hình đang chuyển đổi sang khu công nghiệp sinh thái thí điểm, đã có hơn 1 triệu cây xanh được trồng, chiếm đến 33% diện tích đất khu công nghiệp. Hệ thống quan trắc nguồn thải tự động liên tục truyền dẫn thông tin về Sở Tài nguyên và Môi trường Hải Phòng (24/24 giờ) tất cả các ngày trong tuần. 81,4 kWh điện đã được tạo ra từ dự án điện mặt trời áp mái và được sử dụng trong vận hành khu công nghiệp, 25% lượng nước thải trong khu công nghiệp sau xử lý được tái sử dụng cho mục đích tưới cây, rửa đường, giảm lượng xả thải ra ngoài môi trường, tiết kiệm được 6 tỷ đồng mỗi năm chi phí mua nước sạch. 65% hệ sinh thái trong khu công nghiệp được phục hồi sau khi mô hình sinh thái đang được từng bước áp dụng tại Nam Cầu Kiền. Mô hình chuyển đổi này đang được nhân rộng trên cả nước, với tổng quy mô quỹ đất lên đến 3.500 ha.

Ông Phạm Hồng Điệp – một chủ đầu tư KCN Nam Cầu Kiền, Hải Phòng đề xuất: “Cơ chế, chính sách để khuyến khích cho các nhà đầu tư cũng như là các doanh nghiệp FDI hoặc DDI trong thu hút đầu tư phải có sự đồng bộ và có cơ chế chính sách khuyến khích để họ có cảm hứng, liên kết với nhau cùng xây dựng một Hệ kinh tế tuần hoàn, cũng như Hệ doanh nghiệp sống cộng sinh trong khu công nghiệp, dẫn đến thành công một khu công nghiệp sinh thái. Hiện nay, chúng tôi rất cần các vấn đề pháp lý và các cơ chế chính sách để tạo cảm hứng cho các nhà đầu tư”.

Ông Bruno Jaspaert – Tổng giám đốc Khu công nghiệp Deep C (Hải Phòng) cho biết, các nguyên tắc phát triển hiện nay của Khu theo hướng đảm bảo thu hút các nhà đầu tư muốn đến đầu tư và đáp ứng các dịch vụ liên quan đến ESG (các tiêu chí về môi trường, xã hội và quản trị), đến chứng chỉ carbon, các sáng kiến để các nhà đầu tư báo cáo với cấp quản lý không chỉ hiệu quả về mặt lợi nhuận mà cả việc thực hiện trách nhiệm xã hội. Các sáng kiến đều đảm bảo phát triển một KCN theo định hướng xanh nhất và bền vững nhất. Tuy nhiên cũng còn một số khó khăn trong quá trình chuyển đổi từ Khu công nghiệp truyền thống sang Khu công nghiệp sinh thái.

“Có một ví dụ mà chúng tôi gặp khó khăn khi triển khai các sáng kiến, và ngay tại thời điểm này có nhiều việc chúng tôi cũng chưa thể làm được. Như việc chúng tôi có nhà máy xử lý nước thải có khả năng xử lý để chất lượng nước thải sau xử lý còn tốt hơn chất lượng nước thô. Nhưng hiện tại chúng tôi chưa thể đưa nước thải đã qua xử lý quay trở lại quy trình sản xuất công nghiệp mặc dù các nhà đầu tư thứ cấp trong khu công nghiệp sẵn sàng tái sử dụng nước thải đã qua xử lý này” – ông Bruno Jaspaert nói.

Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ mạnh dạn tiên phong thay đổi hướng phát triển các mô hình KCN mới, tập trung đẩy mạnh phát triển mô hình KCN sinh thái, KCN xanh, trong đó quy hoạch hình thành các khu Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, hướng đến xây dựng “Thung lũng Sillicon Việt Nam”. Các Khu công nghiệp, khu kinh tế lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm trụ cột cho phát triển trong tương lai.

Trong đó, chuyển hướng sang chủ động kiến tạo, tạo môi trường cho các DN công nghệ, start-up được hình thành và phát triển. Dành quỹ đất và nguồn lực cho các dự án R&D, nghiên cứu thử nghiệm sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, tiết kiệm năng lượng… Thu hút đầu tư có chọn lọc, chủ động tiếp xúc, bám sát các Tập đoàn hàng đầu thế giới trong các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên. Điều quan trọng nhất là phát triển kinh tế phải đi liền với phát triển hạ tầng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường, quy hoạch và triển khai các giải pháp xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong KCN, KKT, hoàn thiện hệ sinh thái công nghiệp – đô thị – dịch vụ, đảm bảo cho việc phát triển bền vững các KCN, KKT.

Xuân Lan/VOV1
https://vov.vn/kinh-te/chuyen-doi-sang-khu-cong-nghiep-sinh-thai-de-phat-trien-kinh-te-ben-vung-post1116812.vov

Tiêu chuẩn GHG Protocol về đo lường và báo cáo phát thải khí nhà kính

GHG Protocol do Viện Tài nguyên thế giới (WRI) và Hội đồng Doanh nghiệp Thế giới về Phát triển bền vững (WBCSD) phát triển để giúp các công ty, tổ chức và chính phủ tính toán, quản lý lượng phát thải khí nhà kính của họ.

Hiện tượng hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ Trái Đất nóng lên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống con người. (Ảnh minh họa)

Khí nhà kính là một tập hợp các khí tự nhiên và nhân tạo có khả năng gây hiệu ứng nhà kính trên Trái Đất. Các khí này có khả năng hấp thụ và tỏa nhiệt độ, giữ lại nhiệt năng từ ánh sáng mặt trời và gây ra sự gia tăng của hiệu ứng nhà kính. Hiệu ứng nhà kính là hiện tượng mà các khí nhà kính tạo ra một lớp chắn bức xạ trong khí quyển, giữ lại nhiệt và làm tăng nhiệt độ bề mặt Trái Đất.

Hoạt động kiểm kê khí nhà kính có tầm quan trọng đối với việc đánh giá và quản lý tác động của con người lên biến đổi khí hậu và sự thay đổi trong hệ thống khí quyển. Vì vậy, không chỉ tại Việt Nam mà các nước trên thế giới luôn có sự quan tâm đối với hoạt động kiểm kê khí nhà kính của doanh nghiệp.

Theo đó, tiêu chuẩn GHG Protocol là một trong những tiêu chuẩn phổ biến được sử dụng để đo lường và báo cáo phát thải khí nhà kính hiện nay đối với các tổ chức, doanh nghiệp. GHG Protocol do Viện Tài nguyên thế giới (WRI) và Hội đồng Doanh nghiệp Thế giới về Phát triển bền vững (WBCSD) phát triển để giúp các công ty, tổ chức và chính phủ tính toán, quản lý lượng phát thải khí nhà kính của họ.

Tại COP 26, Việt Nam đặt ra mục tiêu giảm mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Ảnh minh họa.

GHG Protocol cung cấp hướng dẫn, phương pháp tính toán và khuôn khổ báo cáo theo ngành cụ thể cho các loại hình tổ chức và hoạt động khác nhau.

GHG Protocol chia phát thải khí nhà kính làm ba phạm vi: Phạm vi 1 – phát thải trực tiếp từ các nguồn được sở hữu hoặc kiểm soát. Phạm vi 2 – phát thải gián tiếp từ việc sản xuất các nguồn năng lượng điện, nhiệt, hơi do tổ chức mua và sử dụng. Phạm vi 3 – tất cả các phát thải gián tiếp khác xảy ra trong chuỗi giá trị.

GHG Protocol tương đối toàn diện và chi tiết, bao trùm nhiều lĩnh vực và hoạt động, đồng thời cung cấp thêm hướng dẫn, công cụ để tính toán, quản lý khí nhà kính.

Mai Phương
https://vietq.vn/tieu-chuan-ghg-protocol-ve-do-luong-va-bao-cao-phat-thai-khi-nha-kinh-d224449.html

2.166 cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính.

Theo đó, danh mục lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm:

Năng lượng: Công nghiệp sản xuất năng lượng; tiêu thụ năng lượng trong công nghiệp, thương mại, dịch vụ và dân dụng; khai thác than; khai thác dầu và khí tự nhiên.

Giao thông vận tải: Tiêu thụ năng lượng trong giao thông vận tải.

Xây dựng: Tiêu thụ năng lượng trong ngành xây dựng; các quá trình công nghiệp trong sản xuất vật liệu xây dựng.

Các quá trình công nghiệp: Sản xuất hóa chất; luyện kim; công nghiệp điện tử; sử dụng sản phẩm thay thế cho các chất làm suy giảm tầng ozon; sản xuất và sử dụng các sản phẩm công nghiệp khác.

Nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất: Chăn nuôi; lâm nghiệp và thay đổi sử dụng đất; trồng trọt; tiêu thụ năng lượng trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; các nguồn phát thải khác trong công nghiệp.

Chất thải: Bãi chôn lấp chất thải rắn; xử lý chất thải rắn bằng phương pháp sinh học; thiêu đốt và đốt lộ thiên chất thải; xử lý và xả thải nước thải.


2.166 cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê

Quyết định nêu cụ thể danh mục 2.166 cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính cập nhật năm 2024; trong đó có 1.805 cơ sở thuộc ngành công thương; 75 cơ sở thuộc ngành giao thông vận tải; 229 cơ sở thuộc ngành xây dựng và 57 cơ sở thuộc ngành tài nguyên và môi trường.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ sở phát thải khí nhà kính thực hiện kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở theo hướng dẫn của các Bộ: Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường; nộp báo cáo kiểm kê khí nhà kính của cơ sở theo Nghị định của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon theo quy định.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực thuộc có liên quan đôn đốc các cơ sở phát thải khí nhà kính trên địa bàn thuộc danh mục ban hành kèm theo Quyết định này thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo quy định; cập nhật, điều chỉnh danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính trên địa bàn phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ quản lý lĩnh vực có liên quan theo quy định.

Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ: Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rà soát, cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Quyết định 13/2024/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2024. Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18/1/2022 ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính hết hiệu lực từ ngày 1/10/2024.

Các cơ sở phát thải khí nhà kính thuộc danh mục quy định tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg nhưng không thuộc danh mục quy định tại Quyết định 13/2024/QĐ-TTg không có nghĩa vụ thực hiện và nộp báo cáo kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở năm 2025.

Nam Dương
https://vietq.vn/2166-co-so-phat-thai-khi-nha-kinh-phai-thuc-hien-kiem-ke-khi-nha-kinh-d224385.html

Mỹ phát triển các dung môi có khả năng loại bỏ hơn 98% hạt nhựa siêu nhỏ khỏi nước

Một nhóm nghiên cứu Mỹ đang phát triển các dung môi có khả năng loại bỏ hơn 98% hạt nhựa siêu nhỏ khỏi nước. Kết quả này có hiệu quả với cả nước mặn và nước ngọt.

Các nhà khoa học tại Đại học Missouri (Mỹ) đã tạo ra các dung môi chống thấm nước làm từ thành phần tự nhiên, có thể nổi như dầu trên mặt nước. Sau khi trộn dung môi với nước, chúng sẽ từ từ nổi lên lại trên mặt nước, mang theo các hạt nhựa siêu nhỏ (nhựa nano) trong cấu trúc phân tử của chúng.

Trong phòng thí nghiệm, nhóm chỉ sử dụng một lọ nhỏ dung môi để loại bỏ các hạt nhựa nano khỏi nước. Các nghiên cứu trong tương lai sẽ tập trung vào việc mở rộng toàn bộ quy trình lọc nhựa nano để có thể ứng dụng dung môi vào các vùng nước lớn hơn như ao hồ, hay thậm chí là đại dương.

Nhóm cho biết phương pháp mới này hiệu quả với cả nước mặn và nước ngọt. “Những dung môi này được làm từ các thành phần an toàn, không độc hại cùng khả năng chống thấm nước giúp ngăn ô nhiễm lan sang các nguồn nước khác”, bà Piyuni Ishtaweera, trưởng nhóm nghiên cứu tại Đại học Missouri, cho biết.

Những dung môi dùng để lọc nhựa ra khỏi nước được làm từ các thành phần an toàn, không độc hại. Ảnh: Tuổi Trẻ

“Chiến lược của chúng tôi là sử dụng một lượng nhỏ dung môi để hấp thu các phân tử nhựa có trong một lượng nước lớn”, ông Gary Baker, một tác giả của nghiên cứu và làm việc tại khoa hóa Đại học Missouri, nói.

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm dung môi với 5 kích cỡ khác nhau của hạt nhựa nano có gốc polystyrene – một loại nhựa phổ biến trong ly nhựa. Kết quả cho thấy dung môi của nhóm có hiệu quả vượt trội hơn so với các nghiên cứu trước đây, vốn tập trung vào một cỡ hạt nhựa nano.

Hiện tại nhóm nghiên cứu vẫn chưa hiểu hết khả năng của dung môi, do đó họ cần nghiên cứu thêm về điều này cũng như khám phá các phương pháp để tái sử dụng dung môi nhiều lần.

Phương pháp cải tiến này không chỉ mang lại giải pháp thiết thực cho vấn đề ô nhiễm các hạt nhựa nano, mà còn mở đường cho những nghiên cứu và phát triển sâu hơn về công nghệ lọc nước tiên tiến.

Nhựa nano có thể phá vỡ hệ sinh thái dưới nước và xâm nhập chuỗi thức ăn, gây rủi ro sức khỏe như bệnh tim mạch hay hô hấp cho con người và động vật. Do đó việc loại bỏ nhựa nano để giúp nước sạch hơn luôn là một thách thức cấp thiết của giới khoa học. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí ACS Applied Engineering Materials.

Liên quan tới rác thải nhựa, theo thống kê từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa thải ra môi trường, trong đó 0,28- 0,73 triệu tấn bị thải ra biển nhưng chỉ 27% trong số này được tái chế, tận dụng bởi các cơ sở, doanh nghiệp. Điều đáng nói, việc xử lý và tái chế rác thải nhựa còn nhiều hạn chế khi có đến 90% rác thải nhựa được xử lý theo cách chôn, lấp, đốt và chỉ có 10% còn lại là được tái chế.

Theo đại diện Đoàn Thanh niên Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường, Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ từ rác thải nhựa, bình quân mỗi hộ gia đình sử dụng khoảng 1 kg túi nilon/tháng, riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh trung bình mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn rác thải nhựa và túi nilon. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường nước, đất và không khí.

Do đó, Việt Nam cần xây dựng chính sách phát triển thị trường sản phẩm tái chế, dán nhãn xanh cho các sản phẩm, quy định tỷ lệ tái chế trong mỗi sản phẩm nhựa…Đặc biệt muốn chống rác thải nhựa, điều quan trọng đầu tiên phải kéo dài vòng đời sản phẩm nhựa, giảm thiểu thải bỏ ra môi trường. Muốn vậy phải có quy chuẩn cho các sản phẩm nhựa.

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 32:2018/BTNMT về môi trường đối với phế liệu nhựa nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất

Quy chuẩn này do Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định và được ban hành bởi Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về các loại phế liệu nhựa được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất; các loại phế liệu nhựa không được phép nhập khẩu; tạp chất không được lẫn trong phế liệu nhựa nhập khẩu; tạp chất không mong muốn được phép còn lẫn trong phế liệunhựa nhập khẩu; các yêu cầu kỹ thuật khác đối với phế liệu nhựa nhập khẩu từ nước ngoài. Quy chuẩn này không điều chỉnh đối với phế liệu nhựa nhập khẩu từ các doanh nghiệptrong khu phi thuế quan trên lãnh thổ Việt Nam.

Yêu cầu về phân loại, làm sạch phế liệu quy chuẩn quy định phế liệu nhựa nhập khẩu bao gồm một hoặc một số khối hàng phế liệu nhựa đã được phân loại riêng biệt theo từng mã HS thuộc Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Từng khối hàng phế liệu nhựa nhập khẩu phải được sắp xếp tách riêng trong lô hàng hoặc công ten nơ nhập khẩu để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra tại địa điểm đăng ký kiểm tra theo quy định của pháp luật. Trong mỗi khối hàng phế liệu nhựa nhập khẩu được phép lẫn lượng phế liệu nhựa có mã HS khác (thuộc Danh mục phế liệu nhựa được phép nhập khẩu) so với mã HS khai báo trong hồ sơ nhập khẩu. Tỷ lệ khối lượng phế liệu nhựa có mã HS khác không vượt quá 20% tổng khối lượng của khối hàng phế liệu nhựa nhập khẩu.

Phế liệu nhựa nhập khẩu phải được loại bỏ các chất, vật liệu, hàng hóa cấm nhập khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm đáp ứng các yêu cầu.

Vân Thảo (T/h)
https://vietq.vn/my-phat-trien-cac-dung-moi-co-kha-nang-loai-bo-hon-98-hat-nhua-sieu-nho-khoi-nuoc-d224314.html