Cách kiểm tra SIM điện thoại đã được hỗ trợ mạng 5G hay chưa

Kể từ thời điểm các nhà mạng tại Việt Nam bắt đầu phủ sóng mạng 5G trên toàn quốc, không ít người đã đặt ra câu hỏi sử dụng SIM hiện tại có thể kết nối 5G hay không và những ai cần đổi SIM để sử dụng mạng 5G mới nhất?

Hiện nay, mạng 5G đã được các nhà mạng triển khai và phổ biến tại Việt Nam. Tuy nhiên, không ít người dùng thắc mắc về việc sử dụng SIM hiện tại trên điện thoại có thể kết nối 5G hay không?

Trước thắc mắc này, đại diện một nhà mạng tại Việt Nam cho biết những người đang sử dụng SIM vật lý hỗ trợ kết nối 4G vẫn có thể dùng loại SIM này để sử dụng mạng 5G. Trong khi đó, với những người dùng đang sử dụng eSIM chỉ cần đăng ký gói cước 5G để sử dụng mà cũng không cần phải đăng ký lại hoặc cấp đổi SIM mới.

Theo chia sẻ từ các nhà mạng, người dùng sở hữu điện thoại hỗ trợ 5G có thể sử dụng ngay dịch vụ mà không phải đổi SIM. Cụ thể, những người dùng đang sử dụng SIM vật lý hỗ trợ kết nối 4G vẫn có thể dùng loại SIM này để kết nối mạng 5G. Trong khi đó, những người dùng đang sử dụng eSIM thì chỉ cần đăng ký gói cước 5G để trải nghiệm mà không cần phải đăng ký lại hay cấp đổi SIM mới.


Ảnh minh họa

Tuy nhiên, những người dùng đang sử dụng SIM thường (SIM tiêu chuẩn) cần phải đổi sang SIM mới để sử dụng các công nghệ mạng mới hơn bởi loại SIM này thường chỉ hỗ trợ mạng 2G hoặc 3G.

Một cách đơn giản để kiểm tra xem SIM có hỗ trợ 5G hay không đó là người dùng chỉ cần kích hoạt chức năng kết nối mạng di động trên smartphone. Nếu thấy máy xuất hiện biểu tượng mạng 4G+ hoặc 4G, 4G LTE, điều này có nghĩa là SIM có hỗ trợ kết nối mạng 4G, do đó hoàn toàn có thể hỗ trợ kết nối mạng 5G. Tuy nhiên, nếu biểu tượng mạng chỉ hiển thị 3G hoặc H+, điều này có nghĩa là SIM chỉ hỗ trợ mạng 3G.

Tuy nhiên, cách thức kiểm tra này không hoàn toàn chính xác bởi người dùng có thể chỉ đang sử dụng smartphone hỗ trợ tối đa mạng 3G nên không hiển thị thông báo kết nối 4G dù SIM vẫn hỗ trợ mạng 4G.

Người dùng cũng có thể tháo SIM ra khỏi điện thoại để kiểm tra bởi trên các loại SIM thường có in biểu tượng 4G nếu đó là SIM hỗ trợ kết nối 4G. Điều này có thể giúp người dùng xác định SIM của mình có hỗ trợ kết nối 5G hay không. Nếu đã sở hữu điện thoại hỗ trợ dịch vụ 5G, sau khi mua các gói cước 5G của nhà mạng, người dùng có thể thực hiện theo các bước dưới đây để kích hoạt dịch vụ 5G trên điện thoại.

Cách bật chế độ 5G đối với các hệ điều hành

Đối với hệ điều hành iOS:

Bước 1: Vào Cài đặt (Settings) -> Di động (Mobile service) -> Tùy chọn dữ liệu di động (Mobile Data Option).

Bước 2: Trong mục Tùy chọn dữ liệu di động (Mobile Data Option), chọn Thoại & Dữ liệu (Voice & Data) và chọn chế độ 5G (5G Auto).

Đối với hệ điều hành Android:

Bước 1: Vào Cài đặt (Settings) -> Kết nối (Connections) -> Mạng di động (Mobile Network) -> Chế độ mạng (Network Mode).

Bước 2: Chọn chế độ 5G/LTE/WCDMA/GSM (Auto Connect).

Khánh Mai (t/h)
https://vietq.vn/huong-dan-cach-kiem-tra-sim-dien-thoai-cua-ban-da-duoc-ho-tro-mang-5g-hay-chua-d226773.html

5 nguyên tắc cải tiến khi áp dụng Lean

Lean mang lại những cải thiện đáng kể về năng suất chất lượng cho quá trình tạo ra sản phẩm nhờ giảm thiểu tình trạng sai lỗi và các lãng phí. Đồng thời, áp dụng Lean cải thiện thời gian chu kỳ sản xuất giúp nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào, năng suất lao động và hiệu suất quá trình tạo sản phẩm cao hơn thông qua giảm chờ đợi (giữa người-người; giữa người-máy móc), giảm di chuyển, giảm các thao tác thừa trong quá trình làm việc/vận hành.

Loại bỏ lãng phí từ góc nhìn của khách hàng

Nguyên tắc đầu tiên của sản xuất tinh gọn là loại bỏ lãng phí, bất cứ hoạt động nào không tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm cuối cùng cần tìm cách loại bỏ. Trong một quá trình tạo sản phẩm, giá trị chỉ được tạo ra nếu khách hàng chấp nhận trả tiền cho những hoạt động đó và tổ chức cần gia tăng giá trị thông qua chỉ sản xuất ra các sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ đúng yêu cầu của khách hàng.

Quá trình tạo sản phẩm sử dụng các nguồn tài nguyên và lãng phí được sinh ra khi mà tài nguyên sử dụng nhiều hơn mức cần thiết khách hàng thực tế cần. Quan điểm và công cụ của Lean giúp mọi người trong tổ chức nâng cao nhận thức, đồng thời đưa ra quan điểm mới về xác định lãng phí, qua đó khai thác những cơ hội để giảm lãng phí.

Xác định và lập sơ đồ chuỗi giá trị

Chuỗi giá trị là tập hợp có thứ tự các hoạt động của mọi bộ phận trong tổ chức có liên quan đến quá trình cung cấp sản phẩm/dịch vụ, từ khâu đưa nguyên vật liệu đầu vào để sản xuất cho đến khi thành sản phẩm được chuyển giao cho khách hàng. Quá trình phân tích toàn bộ dòng chảy của sản phẩm như vậy sẽ giúp phát hiện các lãng phí và hoạt động không tạo giá trị. Dưới góc độ quan sát giá trị, mỗi hoạt động của quá trình sản xuất có thể được xếp vào một trong các dạng sau:

Hoạt động tạo ra giá trị: Là các hoạt động trực tiếp biến nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào để tạo ra đúng sản phẩm mà khách hàng yêu cầu và khách hàng sẵn sàng trả tiền cho những hoạt động đó.


Lean mang lại những cải thiện đáng kể về năng suất chất lượng cho quá trình tạo sản phẩm nhờ giảm thiểu tình trạng sai lỗi và các lãng phí.

Hoạt động không tạo ra giá trị: Là hoạt động không được yêu cầu hoặc không cần thiết để tạo ra sản phẩm mà khách hàng yêu cầu và khách hàng không sẵn sàng chi trả cho những hoạt động đó. Các hoạt động không tạo ra giá trị tiêu tốn tài nguyên và cần được loại bỏ hoặc giảm thiểu.

Hoạt động không tạo ra giá trị nhưng cần thiết: Là hoạt động mà khách hàng không chấp nhận trả tiền nhưng lại cần thiết để tổ chức, doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Các hoạt động này khó có thể loại bỏ trong ngắn hạn, thông thường chỉ loại bỏ khi có sự thay đổi phương thức sản xuất hoặc thay đổi về năng lực quá trình.

Kết quả một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu doanh nghiệp Lean (LERC), Vương quốc Anh chỉ ra rằng: Thông thường trong quá trình sản xuất chỉ có 5% hoạt động thực tế tạo ra giá trị gia tăng, 35% là hoạt động không tạo ra giá trị nhưng cần thiết và có đến 60% hoạt động không tạo ra giá trị. Việc loại bỏ các hoạt động không tạo ra giá trị là cơ sở để cải tiến hoạt động của doanh nghiệp.

Quá trình sản xuất liên tục

Khi đã lập được sơ đồ chuỗi giá trị cho một sản phẩm cụ thể, các lãng phí sẽ từng bước được loại bỏ. Quá trình sản xuất sản phẩm sẽ là một dòng chảy liên tục, không bị tắc nghẽn bởi bất kỳ lý do nào. Để đạt được điều này cần kết hợp một cách hài hòa giữa các công đoạn thủ công và thao tác của thiết bị, khi đó bán thành phẩm luôn được xử lý trơn tru giúp quá trình được sản xuất liên tục.

Sản xuất kéo

Với nguyên tắc này, hệ thống chỉ sản xuất khi có yêu cầu. Mỗi công đoạn sản xuất đều được “kéo” bởi công đoạn sau, vì vậy chỉ sản xuất khi công đoạn sau yêu cầu. Cơ chế kéo trong sản xuất có vai trò quyết định trong việc loại bỏ tồn kho không cần thiết của bán thành phẩm giữa các công đoạn sản xuất, nhờ đó giảm một cách đáng kể sai lỗi và lãng phí.

Cải tiến liên tục

Nỗ lực liên tục để đạt tới sự hoàn hảo là một phần trong yêu cầu khi áp dụng Lean. Trong quá trình triển khai các công cụ và phương pháp Lean, lãng phí ở tất cả khía cạnh lần lượt được phát hiện và loại bỏ. Kaizen là một phương pháp hữu hiệu để thực hiện hoạt động này.

Nam Dương
https://vietq.vn/5-nguyen-tac-cai-tien-khi-ap-dung-lean-d227197.html

THƯ MỜI THAM GIA KHẢO SÁT “HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN TRONG NGÀNH DỆT MAY”

Kính gửi: Quý Doanh nghiệp 

Lời đầu tiên, Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC) xin gửi đến  Quý Doanh nghiệp lời chào trân trọng nhất.

VNCPC là đơn vị tư vấn thuộc BK Holdings (Đại học Bách khoa Hà Nội) và là thành viên chính thức của mạng lưới toàn cầu về Sử dụng Hiệu quả Tài nguyên và Sản xuất sạch hơn (RECP-net) của UNIDO – UNEP.

Căn cứ Quyết định số 1384 QĐ-VP ngày 01/10/2024 của Bộ Công Thương về việc phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu gói thầu “Xây dựng Tài liệu Hướng dẫn Thực hiện Mô hình Kinh tế tuần hoàn cho Chất thải rắn ngành Dệt May” thuộc Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030, Vụ tiết kiệm Năng lượng và Phát triển bền vững đã giao cho VNCPC thực hiện nhiệm vụ trên.

Mục tiêu của nhiệm vụ là hỗ trợ các doanh nghiệp Dệt May áp dụng hiệu quả mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, hướng đến sản xuất và tiêu dùng bền vững.

Nhằm thu thập số liệu để đánh giá đúng và đầy đủ về hiện trạng chất thải rắn trong ngành Dệt May, trên cơ sở đó xây dựng Tài liệu Hướng dẫn Thực hiện Mô hình Kinh tế tuần hoàn cho Chất thải rắn ngành Dệt May, VNCPC kính mong Quý Doanh nghiệp  tham gia cung cấp thông tin trong: “Khảo sát về hiện trạng quản lý chất thải rắn trong ngành Dệt May” tại đây.

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác từ Quý Doanh nghiệp trong khảo sát này. Những thông tin và đóng góp của Quý Doanh nghiệp sẽ giúp chúng tôi xây dựng và hoàn thiện tài liệu  hướng tới hỗ trợ doanh nghiệp trong quản lý chất thải một cách hiệu quả nhất.

Sau khi hoàn thành Tài liệu Hướng dẫn về Mô hình Kinh tế tuần hoàn cho Chất thải rắn ngành Dệt May, chúng tôi trân trọng kính mời Quý Doanh nghiệp tham gia Hội thảo giới thiệu và triển khai tài liệu hướng dẫn. Hội thảo sẽ là dịp để Quý Doanh nghiệp trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm cũng như nhận được sự tư vấn từ các chuyên gia trong  ngành.

Chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm và tham gia của Quý Doanh nghiệp.

Xin trân trọng cảm ơn!

Để biết thêm thông tin xin vui lòng liên hệ:

Cán bộ hỗ trợ: Lê Văn Tùng, email: [email protected], di động: 0971.318.892.

Tín chỉ carbon và chứng chỉ I-REC: Những điểm khác biệt

Tín chỉ carbon và chứng chỉ Năng lượng tái tạo (I-REC: International Renewable Energy Certificate) là hai công cụ quan trọng trong quá trình chng biến đổi khí hậu. Cả hai đều được sử dụng để bù đắp cho lượng khí thải carbon, nhưng chúng hoạt động theo những cách khác nhau.

Tín chỉ carbon

Tín chỉ carbon là một đơn vị đo lường đại diện cho một tấn carbon dioxide đã được loại bỏ khỏi khí quyển hoặc không được phát thải. Chúng được sử dụng để bù đắp cho lượng khí thải carbon của các công ty, tổ chức và cá nhân.

Tín chỉ carbon được tạo ra bởi các dự án giảm phát thải khí nhà kính như: Trồng rừng, năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng, giảm thiểu phát thải trong các ngành công nghiệp.

Tín chỉ carbon là một đơn vị đo lường đại diện cho một tấn carbon dioxide đã được loại bỏ khỏi khí quyển hoặc không được phát thải.

Các dự án này được chứng nhận bởi các tổ chức uy tín, chẳng hạn như Tổ chức Bảo vệ Môi trường (EPA) của Hoa Kỳ hoặc Tổ chức Quốc tế về Chứng chỉ Carbon (ICCS). Các công ty, tổ chức và cá nhân có thể giao dịch tín chỉ carbon để bù đắp cho lượng khí thải carbon của họ.

Chứng chỉ I-REC

Chứng chỉ I-REC là một chứng chỉ xác nhận rằng một đơn vị năng lượng đã được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo, chẳng hạn như gió, mặt trời, thủy điện hoặc biomass. Chúng được sử dụng để chứng minh rằng một công ty hoặc tổ chức đang sử dụng năng lượng tái tạo.

Chứng chỉ I-REC được chứng nhận bởi Tổ chức Chứng nhận Năng lượng Tái tạo Quốc tế (I-REC Standard). I-REC Standard là một bộ tiêu chuẩn quốc tế quy định việc phát hành, giao dịch và sử dụng chứng chỉ I-REC.

Chứng chỉ I-REC được chứng nhận bởi Tổ chức Chứng nhận Năng lượng Tái tạo Quốc tế (I-REC Standard).

Chứng chỉ I-REC mang lại một số lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp, bao gồm: Chứng minh việc sử dụng năng lượng tái tạo; Thúc đẩy sự phát triển của năng lượng tái tạo; Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng năng lượng tái tạo.

Tín chỉ Carbon và Chứng chỉ I-REC giống và khác

Tín chỉ carbon đo lường lượng khí thải carbon đã được loại bỏ khỏi khí quyển hoặc không được phát thải. Chứng chỉ I-REC đo lường lượng năng lượng đã được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo.

Tín chỉ carbon thường được sử dụng để bù đắp cho lượng khí thải carbon của các công ty, tổ chức và cá nhân. Chứng chỉ I-REC thường được sử dụng để chứng minh rằng một công ty hoặc tổ chức đang sử dụng năng lượng tái tạo.

I-REC nhằm mục đích chứng minh rằng một công ty đang sử dụng năng lượng tái tạo, trong khi tín chỉ carbon nhằm mục đích khuyến khích các công ty giảm lượng khí thải của họ. I-REC được tạo ra và bán bởi các nhà máy điện tái tạo, trong khi tín chỉ carbon được tạo ra và bán bởi các dự án giảm phát thải khí nhà kính. I-REC có thể giúp các công ty đáp ứng các mục tiêu năng lượng tái tạo của họ, trong khi tín chỉ carbon có thể giúp các công ty giảm lượng khí thải của họ.

Dưới đây là bảng tóm tắt các điểm khác biệt và giống nhau giữa tín chỉ carbon và chứng chỉ I-REC:

Đặc điểm Tín chỉ Carbon Chứng chỉ I-REC
Đo lường Lượng khí thải CO2 Lượng năng lượng tái tạo
Mục đích Bù đắp cho lượng khí thải CO2 Chứng minh cho việc sử dụng năng lượng tái tạo
Đối tượng sử dụng Các công ty, tổ chức và cá nhân Các công ty, tổ chức và cá nhân

Theo đó, tín chỉ carbon giúp hạn chế lượng khí thải CO2 trong khi REC tạo ra năng lượng mới từ các nguồn tái tạo.

Hiện các công ty đang sử dụng cả I-REC và tín chỉ carbon trong kế toán và báo cáo lượng khí thải. Họ đang sử dụng I-REC để bù đắp mức tiêu thụ năng lượng và mua tín chỉ carbon để bù đắp cho các nguồn phát thải khác.

Như vậy, cả tín chỉ Carbon và chứng chỉ I-REC đều đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự bền vững và giảm lượng khí nhà kính, nhưng hai hệ thống này lại mang đến những ưu điểm và ứng dụng khác nhau.

VNCPC

Tìm hiểu về Chứng chỉ Năng lượng Tái tạo (P2)

Thị trường REC tại Việt Nam tuy còn tương đối non trẻ nhưng đang phát triển mạnh mẽ. Theo Bộ Công Thương, thị trường REC Việt Nam có thể đạt 1 tỷ USD vào năm 2030.

Thị trường REC toàn cầu sẽ đạt 300 tỷ USD

Trên thế giới hiện nhu cầu Chứng chỉ REC ngày càng tăng nhờ chính sách khuyến khích của các chính phủ. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ước tính thị trường REC dự kiến sẽ đạt 300 tỷ USD vào năm 2030.

Hiện thị trường REC được phân khúc theo khu vực, loại REC và ứng dụng. Bắc Mỹ và châu Âu là hai khu vực có thị trường REC lớn nhất. Chứng chỉ REC năng lượng mặt trời đang chiếm phần lớn thị phần, tiếp theo là REC năng lượng gió và REC thủy điện.

Tính đến tháng 8/2023, trên thế giới đã có hơn 512,33 triệu chứng chỉ I-REC đã được phát hành và đã có hơn 4.200 dự án tại 48 quốc gia được cấp chứng chỉ I-REC.

Hiện thị trường REC được phân khúc theo khu vực, loại REC và ứng dụng.

Thị trường REC tại Việt Nam

Thị trường REC tại Việt Nam còn tương đối non trẻ nhưng đang phát triển mạnh mẽ. Theo Bộ Công Thương, thị trường REC Việt Nam có thể đạt 1 tỷ USD vào năm 2030. Thị trường REC được phân khúc theo loại REC và ứng dụng. Chứng chỉ REC năng lượng mặt trời vẫn chiếm phần lớn thị trường, tiếp theo là REC năng lượng gió và REC thủy điện. Các ứng dụng chính của REC bao gồm đáp ứng các yêu cầu tuân thủ và giao dịch năng lượng.

Hiện nay, các xu hướng chính đang định hình thị trường REC Việt Nam bao gồm: Tăng cường phát triển năng lượng tái tạo; Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường REC; Nhu cầu ngày càng tăng về bù đắp phát thải carbon; Tham gia thị trường REC quốc tế.

Tại Việt Nam, chứng chỉ I-REC đã hoạt động từ năm 2014 và được điều hành bởi tổ chức phi lợi nhuận I-REC Standard Foundation. Việc cấp chứng chỉ I-REC tại địa phương do một thực thể độc lập quản lý.

Theo số liệu tính đến cuối 10/2023, đã có 492 dự án đang vận hành với tổng công suất hơn 8.000 MW được cấp chứng chỉ I-REC, bao gồm 353 dự án điện mặt trời, 124 dự án thủy điện và 15 dự án điện gió. Hiện có 196 dự án đang vận hành với tổng công suất 864,593 MW được cấp chứng chỉ TIGR, bao gồm 191 dự án điện mặt trời, 3 dự án thủy điện và 2 dự án điện gió.

Chứng chỉ I-REC đã hoạt động từ năm 2014 tại Việt Nam.

Quy trình đăng ký Chứng chỉ REC tại Việt Nam

Quy trình đăng ký Chứng chỉ REC tại Việt Nam bao gồm các bước sau:

Xác định nguồn năng lượng tái tạo: Đầu tiên, cần xác định nguồn năng lượng tái tạo cụ thể mà chứng chỉ REC sẽ được liên kết.

Xác minh và đánh giá: Bên thứ ba độc lập thực hiện xác minh và đánh giá quá trình sản xuất năng lượng tái tạo từ nguồn đã xác định. Quá trình này đảm bảo rằng năng lượng tái tạo được sản xuất và đáp ứng các tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể.

Cấp chứng chỉ REC: Sau khi quá trình xác minh và đánh giá hoàn tất, chứng chỉ REC được cấp phát cho đơn vị sản xuất năng lượng tái tạo. Mỗi chứng chỉ REC biểu thị một đơn vị của năng lượng tái tạo đã được sản xuất.

Giao dịch và sử dụng REC: Chứng chỉ REC có thể được mua bán trên thị trường năng lượng. Các bên mua chứng chỉ REC có thể sử dụng chúng để chứng minh và xác nhận việc sử dụng năng lượng tái tạo, mặc dù họ không mua trực tiếp năng lượng từ nguồn tái tạo. Điều này cho phép họ đạt được mục tiêu năng lượng tái tạo hoặc tuân thủ các yêu cầu quy định.

VNCPC

Nghiên cứu tạo ra thiết bị có thể thu thập nước trong khí quyển để làm mát tấm pin mặt trời

Do các tấm pin mặt trời cần phải lắp thêm hệ thống làm mát chạy bằng nguồn điện nên rất tốn kém. Vì vậy các nhà nghiên cứu tại Saudi Arabia đã tạo ra một thiết bị mới có thể thu thập nước trong khí quyển để làm mát tấm pin mặt trời.

Các nhà nghiên cứu tại Saudi Arabia đã tạo ra một thiết bị mới có thể thu thập nước trong khí quyển để làm mát các tấm pin mặt trời mà không cần sử dụng điện. Công nghệ mới giảm chi phí vận hành, tăng gấp đôi tỷ lệ thu thập nước ở các vùng khô cằn.

Năng lượng mặt trời hiện chiếm hơn 80% sản lượng năng lượng tái tạo của Saudi Arabia. Quốc gia này còn xuất khẩu năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, có một nghịch lý là các tấm pin mặt trời có nguy cơ nóng, cháy nổ do hoạt động mạnh. Do đó, các tấm pin mặt trời cần phải lắp thêm hệ thống làm mát chạy bằng nguồn điện.

Một nhóm nghiên cứu quốc tế, do Giáo sư Qiaoqiang Gan đứng đầu, đã thiết kế một giải pháp tiềm năng. Thiết bị mới không cần điện, chỉ sử dụng trọng lực để chiết xuất nước từ không khí và dựa vào các vật liệu rẻ tiền, sẵn có.

Ngoài việc giữ cho các tấm pin mặt trời và các công nghệ bán dẫn khác mát mẻ, nước có thể được tái sử dụng để tưới tiêu, giặt giũ, làm mát các tòa nhà lắp đặt tấm pin mặt trời và các ứng dụng khác. Các nhà khoa học ước tính, khí quyển chứa lượng nước nhiều gấp 6 lần so với tổng lượng nước ngọt trong các con sông cộng lại.

Giáo sư Gan cho biết, có thể thu thập lượng nước từ khí quyển. Tại quốc gia khô cằn như Saudi Arabia, cần có thêm nguồn điện để chạy thiết bị thu thập nước. Đây là rào cản ở những khu vực nông thôn, thiếu điện, những tấm pin mặt trời khó có thể hoạt động được.

Giáo sư Dan Daniel và Shakeel Ahmad trong nhóm của Gan, phát hiện rằng bằng cách thêm lớp phủ bôi trơn là hỗn hợp của polyme và dầu silicon, họ có thể thu thập được nhiều nước hơn dựa vào trọng lực.


Thiết bị mới không cần điện, chỉ sử dụng trọng lực để chiết xuất nước từ không khí và dựa vào các vật liệu rẻ tiền, sẵn có để làm mát tấm pin điện mặt trời. Ảnh minh họa

Giáo sư Ahmad cho hay, các giọt nước trong khí quyển có xu hướng bám chặt vào bề mặt, do đó phải thu thập nhưng tụ chủ động. Lớp phủ của nhóm nghiên cứu đã loại bỏ tình trạng bám chặt, thu thập nước thụ động. Hệ thống này hoạt động hoàn toàn dựa trên cơ chế làm mát bức xạ thụ động nên không tiêu thụ bất kỳ điện năng nào.

Thiết bị mới đã được thử nghiệm 6 lần trong khoảng thời gian một năm trong điều kiện tự nhiên tại thị trấn Thuwal, cách Jeddah khoảng 100km về phía Bắc và có thể thu được gần gấp đôi nước so với các công nghệ khác.

Theo các chuyên gia, hệ thống không tiêu thụ bất kỳ điện năng nào, giúp tiết kiệm năng lượng. Ngoài ra, hệ thống không phụ thuộc vào bất kỳ bộ phận cơ học nào như máy nén hoặc quạt, giúp giảm chi phí bảo trì so với các hệ thống truyền thống, giúp tiết kiệm hơn nữa.

Đề cập tới lĩnh vực điện mặt trời, những năm gần đây, Việt Nam chú trọng triển khai và đạt được kết quả bước đầu, đóng góp quan trọng vào đảm bảo an ninh năng lượng và mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.

Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc phát triển năng lượng tái tạo (NLTT), trong đó có chính sách phát triển năng lượng mặt trời. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng xác định: “Ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng mới và NLTT như điện mặt trời, thủy điện… Nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo, đáp ứng cho nhu cầu sử dụng năng lượng, đặc biệt đối với hải đảo, vùng sâu, vùng xa”.

Chính phủ có chủ trương phát triển năng lượng sạch, NLTT để bổ sung năng lượng quốc gia; đồng thời, hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực khai thác và sử dụng NLTT, lồng ghép chương trình phát triển NLTT với các chương trình phát triển kinh tế – xã hội khác.

Để đưa chính sách vào cuộc sống, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản về phát triển nguồn năng lượng điện mặt trời, trong đó điển hình như: Quyết định số 2068/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Chiến lược này khuyến khích phát triển và sử dụng năng lượng mới, có cơ chế hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu sản xuất thử nghiệm và xây dựng mô hình thí điểm NLTT, miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế sản xuất và lưu thông máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ phát triển NLTT. Đồng thời, Chiến lược nêu quan điểm phát triển đồng bộ và hợp lý hệ thống năng lượng bao gồm điện, dầu, khí, than năng lượng mới và tái tạo; trong đó quan tâm phát triển năng lượng sạch, năng lượng mới và tái tạo.

Mặc dù, NLTT trong đó có điện mặt trời ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh, nhưng một số ý kiến cho rằng, quy mô điện mặt trời ở nước ta chưa phản ánh hết tiềm năng, lợi thế từ thiên nhiên. Để tận dụng lợi thế, tiềm năng đó, cần có nhiều cơ chế và chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, đơn vị đầu tư vào lĩnh vực điện mặt trời.

Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực điện mặt trời

Tính đến hết năm 2019 có khoảng 1000 tiêu chuẩn trong lĩnh vực điện và điện tử, trong đó có 19 tiêu chuẩn về hệ thống điện mặt trời. Các tiêu chuẩn quốc gia về điện mặt trời phần lớn được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC (Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà quản lý, tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận có thể thừa nhận lẫn nhau kết quả thử nghiệm cũng như chứng chỉ chứng nhận.

Việc biên soạn các tiêu chuẩn này được thực hiện chính bởi Ban kỹ thuật Tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC/E13 Năng lượng Tái tạo. Tiêu chuẩn quốc gia về tấm pin mặt trời hiện nay đã có bộ tiêu chuẩn về an toàn điện của tấm pin TCVN 12232 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 61730, bộ tiêu chuẩn về đánh giá chất lượng thiết kế của tấm pin TCVN 6781 được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 61215.

Bên cạnh đó còn có các tiêu chuẩn đối với thành phần của hệ thống pin mặt trời như bộ TCVN 12231 về an toàn của bộ nghịch lưu inverter được xây dựng trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế IEC 62109 và các TCVN cho hộp kết nối, cáp điện, v.v…

Ngoài các tiêu chuẩn quốc gia đã được công bố nêu trên, vẫn cần thiết phải bổ sung thêm các tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng và tái chế pin mặt trời cũng như có các biện pháp quản lý chất lượng, nâng cao năng lực thử nghiệm, chứng nhận, công nhận nhằm đảm bảo các yêu cầu quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm đồng thời góp phần bảo vệ môi trường.

Vân Thảo (T/h)
https://vietq.vn/nghien-cuu-tao-ra-thiet-bi-moi-co-the-thu-thap-nuoc-trong-khi-quyen-de-lam-mat-tam-pin-mat-troi-d226169.html