Bước tiến mới của pin vi sinh vật

Một nhóm các nhà nghiên cứu của Đại học Northwestern (Mỹ) đã đánh dấu một bước tiến mới cho pin vi sinh vật khi phát triển một loại pin nhiên liệu thu năng lượng từ vi sinh vật sống trong đất với khả năng hoạt động bền bỉ và hiệu quả.


 Pin vi sinh vật

Tiến sĩ George Wells – Phó giáo sư về kỹ thuật dân dụng và môi trường tại Trường Kỹ thuật McCormick của Northwestern, tác giả cấp cao của nghiên cứu – cho biết: “Những vi sinh vật này rất dồi dào, chúng sống trong đất ở khắp nơi. Chúng tôi có thể sử dụng những hệ thống thiết kế đơn giản để thu được điện từ chúng. Chúng tôi sẽ không thể cung cấp điện cho toàn bộ thành phố, nhưng có thể thu lượng điện nhỏ để phục vụ những ứng dụng thiết thực và cần ít năng lượng”.

Xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1911, pin nhiên liệu vi sinh vật trong đất (MFC) hoạt động giống như một cục pin với cực dương, cực âm và chất điện phân.

Mặc dù MFC đã tồn tại như một khái niệm trong hơn một thế kỷ, nhưng hiệu suất không đáng tin cậy và công suất đầu ra thấp đã cản trở nỗ lực sử dụng chúng trong thực tế, đặc biệt là trong điều kiện độ ẩm thấp.

Các hóa chất từ pin có thể thấm vào đất. Do đó, công nghệ mới cũng là một giải pháp thay thế thân thiện với môi trường, loại bỏ những lo ngại liên quan đến các thành phần pin độc hại và dễ cháy.


Pin nhiên liệu vi sinh vật thử nghiệm trong đất tại phòng thí nghiệm

Pin nhiên liệu mới sử dụng vải carbon cho cực anode và kim loại trơ, dẫn điện, cho cực cathode. Nhóm nghiên cứu dùng vật liệu chống nước trên bề mặt cực cathode, cho phép nó hoạt động khi ngập lụt và bảo đảm khô dần sau khi bị ngâm nước.

Pin chạy bằng đất có kích thước tương đương cuốn sách nhỏ, cung cấp giải pháp thay thế khả thi cho pin trong các cảm biến dưới lòng đất dùng cho nông nghiệp.

Nhóm chuyên gia nhấn mạnh độ bền của pin nhiên liệu mới, đề cập đến khả năng chống chọi với các điều kiện môi trường khác nhau, bao gồm cả đất khô cằn và những vùng dễ ngập lụt.

Nguyên mẫu pin nhiên liệu hoạt động hiệu quả, tạo ra lượng điện gấp 68 lần mức cần thiết để chạy các cảm biến của nó. Pin cũng đủ chắc chắn để vượt qua những biến động lớn về độ ẩm của đất. Nhóm chuyên gia cũng kết nối cảm biến đất với một ăng-ten nhỏ để liên lạc không dây. Điều này cho phép pin nhiên liệu truyền dữ liệu đến một trạm gần đó. Đáng chú ý, pin nhiên liệu mới không chỉ hoạt động được trong cả điều kiện khô ráo lẫn ẩm ướt mà còn hoạt động bền hơn các công nghệ tương tự khoảng 120%.

Bill Yen – cựu sinh viên Northwestern, người đứng đầu nhóm nghiên cứu đã bắt đầu hành trình kéo dài 2 năm để phát triển loại MFC mới – cho biết: “Số lượng thiết bị trong mạng lưới Internet vạn vật không ngừng tăng lên. Nếu hình dung một tương lai với hàng nghìn tỉ thiết bị này, chúng ta không thể chế tạo tất cả chúng bằng lithium, kim loại nặng và những chất độc nguy hiểm cho môi trường. Chúng ta cần tìm những giải pháp thay thế có thể cung cấp mức năng lượng nhỏ để vận hành mạng lưới thiết bị phi tập trung. Với giải pháp mới, chỉ cần có carbon hữu cơ trong đất để vi sinh vật phân giải, pin nhiên liệu có thể tồn tại vĩnh viễn”.

Công nghệ này có thể đóng vai trò then chốt trong nền nông nghiệp bền vững và thân thiện với môi trường. Nó rất hữu ích trong theo dõi các yếu tố khác nhau của đất như độ ẩm, chất dinh dưỡng, chất gây ô nhiễm… và áp dụng phương pháp tiếp cận nông nghiệp chính xác dựa trên công nghệ. Nó cũng cho phép thu thập dữ liệu liên tục mà không cần thay pin hay làm sạch như các tấm pin mặt trời, điều này đặc biệt quan trọng ở các khu vực canh tác nông nghiệp rộng lớn.

Quỳnh Anh

https://petrotimes.vn/buoc-tien-moi-cua-pin-vi-sinh-vat-707171.html

Nhà khoa học chỉ cách đơn giản nhất để loại vi nhựa khỏi nước uống

Mới đây một nhóm các nhà khoa học từ Đại học Y Quảng Châu và Đại học Tế Nam (Trung Quốc) đã tìm ra phương pháp đơn giản và hiệu quả để loại bỏ vi nhựa ra khỏi nước uống uống.

Vi nhựa đang dần trở thành một vấn nạn toàn cầu, khi chúng có thể dễ dàng xâm nhập vào cơ thể của con người theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt là qua con đường thức ăn và đồ uống.

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, các vi nhựa gồm polystyrene, polyetylen, polypropylen và polyetylen terephthalate tồn tại trong nước máy mà ta uống mỗi ngày với số lượng khác nhau, tùy vào chất lượng nước tại từng khu vực.

Nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ (NAS) công bố mói đây nhất vào đầu tháng 1/2024 còn cho thấy trung bình mỗi lít nước đóng chai của các thương hiệu phổ biến có thể chứa 240.000 mảnh nhựa, gấp từ 10-100 lần so với các ước tính trước đây, làm gia tăng lo ngại về những nguy cơ tiềm ẩn đối với sức khỏe con người.

Để nghiên cứu về các hạt nhựa nano trong nước đóng chai, các nhà khoa học đã ứng dụng phương pháp soi kính hiển vi tán xạ Raman kích thích (SRS), theo đó sử dụng 2 tia laser quét qua mẫu thử để tạo ra cộng hưởng phân tử cụ thể rồi sau đó tiến hành phân tích thông qua thuật toán máy tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy mỗi lít nước đóng chai của 3 thương hiệu hàng đầu thị trường chứa từ 110.000 tới 370.000 mảnh nhựa, 90% trong số đó là hạt nhựa nano và 10% còn lại là hạt vi nhựa.

Trong đó loại nhựa xuất hiện nhiều nhất trong nước đóng chai là nylon, nhiều khả năng đến từ các bộ lọc nhựa dùng để lọc nước, và nhựa polyetylen terephthalate (PET) – nguyên liệu phổ biến trong sản xuất vỏ chai.

Cách tốt nhất để loại bỏ vi nhựa ra khỏi nước là lọc và đun sôi. Ảnh minh họa

Đồng tác giả nghiên cứu, Phó Giáo sư địa hóa học tại Đại học Columbia (Mỹ) Beizhan Yan, khuyến nghị người tiêu dùng cân nhắc sử dụng các nguồn nước thay thế, chẳng hạn như nước máy, nếu lo lắng về các hạt nhựa siêu nhỏ trong nước đóng chai.

Trước thực tế này, một nhóm các nhà khoa học từ Đại học Y Quảng Châu và Đại học Tế Nam (Trung Quốc) đã tìm ra phương pháp tương đối đơn giản và hiệu quả để loại bỏ chúng khỏi nước uống. Đó là kết hợp giữa đun sôi và lọc bỏ bất kỳ chất kết tủa nào có trong nước. Phương pháp tưởng như đơn giản này, lại vô cùng hiệu quả để chống lại vi nhựa.

Theo nghiên cứu được công bố, có tới 90% nhựa nano và nhựa vi mô (NMP) có thể được loại bỏ bằng quá trình đun sôi và lọc, dù hiệu quả sẽ thay đổi tùy theo từng loại nước.

“Việc đun sôi nước trước khi uống là vô cùng đơn giản và hiệu quả. Phương pháp này được chứng minh là có thể “khử nhiễm” NMP khỏi nước máy gia đình, cũng như giảm bớt lượng NMP hấp thụ của con người thông qua việc tiêu thụ nước”, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng chúng ta vẫn nên lọc qua nước trước khi uống, nhằm loại bỏ các cặn vôi (tên khoa học: canxi cacbonat) sau khi chúng hình thành từ quá trình đun sôi nước. Quá trình lọc nước này có thể được thực hiện đơn giản với một lưới lọc trà.

Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng với việc phổ biến tác hại của vi nhựa và cách loại bỏ chúng, thói quen uống nước đun sôi có thể trở nên phổ biến hơn trong bối cảnh chất thải nhựa vẫn còn là một vấn nạn trên thế giới.

Ngọc Nga (T/h)
https://vietq.vn/nha-khoa-hoc-chi-cach-don-gian-nhat-de-loai-vi-nhua-khoi-nuoc-uong-d219318.html

Tường chắn sóng tự cấp điện

Một nhóm các nhà nghiên cứu ở Nhật Bản đang phát triển dự án nhằm tạo ra tường chắn sóng thần có khả năng tự cấp điện cho các hệ thống cảnh báo và xử lý khẩn cấp, giúp bảo vệ bến cảng hiệu quả.


Viện Công nghệ Tokyo đề xuất một bức tường chắn có thể tự sản xuất điện giúp bảo vệ các thị trấn ven biển trước sóng thần.

Đã hơn 1 thập niên sau khi xảy ra thảm họa kép động đất và sóng thần tại tỉnh Fukushima – một trong những trận thiên tai tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại, nhiều thị trấn duyên hải đã rút ra bài học xương máu, đó là cần nghiên cứu xây dựng những bức tường chắn sóng cao hơn, hữu hiệu hơn.

Theo Hệ thống Cảnh báo Sóng thần Mỹ, mỗi năm trên thế giới chỉ có khoảng 2 trận sóng thần gây thiệt hại hoặc chết người. Những vụ sóng thần mạnh với khả năng gây thiệt hại hoặc chết người ở cách xa nguồn hơn 1.000km xảy ra với tần suất khoảng 2 vụ mỗi thập niên. Tuy nhiên, sóng thần vẫn là một trong những hiện tượng có sức hủy diệt lớn nhất hành tinh và ở Nhật Bản – quốc gia hứng chịu tới 20% số trận sóng thần trên thế giới, đây là mối đe dọa thường trực.

Tường chắn sóng có thể nâng hạ giúp bảo vệ các thị trấn ven biển trước sóng thần, nhưng trong tình huống mất điện và tường chắn không hoạt động, thảm họa sẽ xảy ra. Để khắc phục vấn đề này, nhóm nghiên cứu tại Viện Công nghệ Tokyo đề xuất một bức tường chắn có thể tự sản xuất điện.


Tường chắn sóng tự cấp điện

Nhằm ngăn chặn và giảm thiệt hại từ sóng thần, những tường chắn lớn được lắp đặt dưới đáy biển xung quanh bến cảng. Chúng có thể được nâng lên nhanh chóng khi thảm họa xuất hiện. Nhưng trong trường hợp mất điện sau thảm họa, việc hạ chúng xuống để cảng hoạt động lại bình thường trở thành một bài toán.

Trong nghiên cứu mới, các chuyên gia lắp đặt những bức tường chắn sóng ngắn và có thể dịch chuyển ở mỗi bến cảng, với khoảng trống rộng 30cm giữa chúng. Trong khoảng trống là các turbine phát điện thủy triều nhỏ, có khả năng tạo ra dư thừa điện để vận hành các tời – thiết bị giúp hạ tường chắn xuống đáy biển để bến cảng hoạt động lại sau khi nguy hiểm qua đi.

Hệ thống tường chắn tạo ra đủ điện để tự vận hành và khi không có sóng thần, chúng có thể tạo ra tới 1.000 kWh năng lượng sạch mỗi đợt thủy triều. Lượng điện này sẽ được cung cấp cho địa phương.

Tuy nhiên, không phải khu vực nào cũng có thể lắp đặt hệ thống này. Nhóm nghiên cứu đã đánh giá khoảng 56 cảng của Nhật Bản và nhận thấy chỉ 23 cảng trong số này có thể tạo ra đủ điện để hạ tường chắn.

“Theo chúng tôi biết, chưa có hệ thống nào trên thế giới sử dụng tường chắn sóng di động để sản xuất điện và dùng chính nguồn điện đó để vận hành. Trong điều kiện thiên tai khắc nghiệt ở Nhật Bản, nếu công nghệ tường chắn sóng di động mới có thể được thiết lập thông qua nghiên cứu này thì chắc chắn trong tương lai, nó có thể được xuất khẩu và triển khai ở nước ngoài như một công nghệ phòng chống thiên tai mang tính đột phá”, Giáo sư Hiroshi Takagi, trưởng nhóm dự án, cho biết.

Tường Linh
https://petrotimes.vn/tuong-chan-song-tu-cap-dien-706200.html

Pin mặt trời gập ghềnh có thể thu được nhiều năng lượng hơn tới 66%

Hiệu suất của pin mặt trời có thể bị ảnh hưởng do va chạm. Nghiên cứu mới cho thấy việc xây dựng các mái vòm nhỏ trên bề mặt pin mặt trời hữu cơ có thể tăng hiệu suất của chúng lên tới 2/3, đồng thời thu được ánh sáng từ góc rộng hơn.

Pin mặt trời thường phẳng, giúp tối đa hóa lượng bề mặt tiếp xúc với ánh sáng mặt trời tại bất kỳ thời điểm nào. Thiết kế này hoạt động tốt nhất khi Mặt trời ở trong một góc nhất định, do đó các tấm thường nghiêng trong khoảng từ 15 đến 40 độ để tận dụng tối đa thời gian trong ngày.

Các nhà khoa học đã thử nghiệm các hình dạng khác cho bề mặt, bao gồm cả việc nhúng các lớp vỏ nano hình cầu bằng silica để bẫy và luân chuyển ánh sáng mặt trời cho phép thiết bị thu được nhiều năng lượng hơn từ nó. Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học tại Đại học Abdullah Gül ở Türkiye đã thực hiện mô phỏng phức tạp về cách các va chạm hình mái vòm có thể thúc đẩy các bề mặt mặt trời hữu cơ.

Nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu các tế bào quang điện được chế tạo bằng polyme hữu cơ có tên P3HT:ICBA làm lớp hoạt động, phía trên một lớp nhôm và chất nền PMMA được phủ lớp bảo vệ trong suốt bằng oxit thiếc indium (ITO). Cấu trúc hình bánh này được giữ xuyên suốt toàn bộ mái vòm, hay còn gọi là “vỏ bán cầu” như nhóm gọi.


Thiết kế pin mặt trời mới bao gồm các “bán cầu” trên bề mặt, giống như các chấm chữ nổi có thể cải thiện hiệu quả.

Các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích phần tử hữu hạn 3D (FEA), phần tử của một hệ thống phức tạp thành các phần có thể quản lý được để chúng có thể mô phỏng và phân tích tốt hơn.

So với bề mặt phẳng, pin mặt trời có các vết lồi lõm cho thấy khả năng hấp thụ ánh sáng được cải thiện lần lượt là 36% và 66%, tùy thuộc vào độ phân cực của ánh sáng. Những va chạm đó cũng cho phép ánh sáng đi vào từ nhiều hướng hơn so với bề mặt phẳng, mang lại góc bao phủ lên tới 82 độ.

Mặc dù nhóm nghiên cứu chưa thực sự chế tạo được phiên bản vật lý của pin mặt trời này nhưng nếu nguyên lý này hoạt động thì nó có thể hữu ích không chỉ cho năng lượng mặt trời trên mái nhà mà còn trong các hệ thống có điều kiện ánh sáng thay đổi như thiết bị điện tử đeo trên người.

“Với đặc tính hấp thụ và đa hướng được cải thiện, các lớp hoạt động hình vỏ bán cầu được đề xuất sẽ mang lại lợi ích trong các lĩnh vực ứng dụng khác nhau của pin mặt trời hữu cơ, chẳng hạn như thiết bị y sinh, các ứng dụng như cửa sổ phát điện và nhà kính….”, Giáo sư Dooyoung Hah, tác giả nghiên cứu cho biết.

Hà My
https://vietq.vn/pin-mat-troi-gap-ghenh-co-the-thu-duoc-nhieu-nang-luong-hon-toi-66-d218901.html

Đột phá về công nghệ – Pin thể rắn cho khả năng sạc đầy trong 10 phút

Các nhà nghiên cứu từ Trường Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng John A. Paulson (SEAS) của Harvard đã phát triển một loại pin thể rắn có thể sạc và xả ít nhất 6.000 lần và có thể được sạc lại trong khoảng thời gian ngắn.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Materials mô tả một phương pháp mới để chế tạo pin thể rắn với cực dương kim loại Lithium. Ông Xin Li, Phó Giáo sư Khoa học Vật liệu tại SEAS và là tác giả chính của bài báo, cho biết “Pin cực dương kim loại Lithium được coi là “chén thánh” của pin vì chúng có công suất gấp 10 lần cực dương than chì thương mại và có thể tăng đáng kể quãng đường lái xe của xe điện. Nghiên cứu của chúng tôi là một bước quan trọng hướng tới pin thể rắn thực tế hơn cho các ứng dụng công nghiệp và thương mại”.

Pin thể rắn có thể sẽ thay thế pin Lithium trong tương lai gần. Ảnh minh họa

Một trong những thách thức lớn nhất khi thiết kế pin thể rắn là sự hình thành các sợi nhánh trên bề mặt cực dương, gây nguy cơ chập hoặc cháy pin. Các sợi nhánh này xuất hiện khi ion Lithium di chuyển qua từ cực âm sang cực dương trong quá trình sạc, tạo ra một bề mặt không đồng đều và không đồng nhất, thuận lợi cho sự hình thành sợi nhánh bén rễ.

Trước đó, nghiên cứu đã thiết kế pin nhiều lớp để ngăn chặn sự xâm nhập của sợi nhánh, nhưng không ngăn chặn chúng hoàn toàn. Tuy nhiên, nghiên cứu mới nhất này đã đạt được thành công khi ngăn chặn sự hình thành sợi nhánh bằng cách sử dụng các hạt silicon có kích thước micron ở cực dương.

Trong thiết kế này, các hạt silicon giữ vai trò quan trọng trong việc hạn chế phản ứng kết dính và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mạ đồng nhất một lớp kim loại Lithium dày. Ông Xin Li giải thích: “Trong thiết kế của chúng tôi, kim loại Lithium được bao quanh hạt silicon, giống như lớp vỏ sô cô la cứng bao quanh lõi hạt dẻ trong kẹo sô cô la”.

Đặc biệt, nhờ vào quá trình mạ và bóc vỏ nhanh chóng trên bề mặt bằng phẳng, pin có thể sạc lại chỉ trong khoảng 10 phút. Phiên bản pin dạng túi, kích thước bằng tem bưu chính, đã được chế tạo với công nghệ này, vượt trội với việc giữ lại 80% công suất sau 6.000 chu kỳ sạc, khiến chúng trở nên ưu việt so với các pin dạng túi hiện tại trên thị trường.

Nghiên cứu này là một bước quan trọng hướng tới việc phát triển pin thể rắn thực tế hơn, có ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp và thương mại, đồng thời mở đường cho sự tiến bộ trong lĩnh vực pin xe điện.

Duy Trinh (T/h)
https://vietq.vn/dot-pha-ve-cong-nghe—pin-the-ran-cho-kha-nang-sac-day-trong-10-phut-d218254.html

Vật liệu cách âm từ rơm có khả năng hạn chế cháy nổ, thấm nước

Nhóm nhà khoa học Việt Nam đã có một bước tiến lớn trong lĩnh vực vật liệu sau khi nghiên cứu thử nghiệm thành công tường cách âm từ rơm có khả năng hạn chế cháy nổ, thấm nước.

Cháy nổ trở thành một vấn đề lớn được sự quan tâm của xã hội. Xử lý vấn đề này sẽ giúp sản phẩm dễ được chấp thuận hơn trong xây dựng. Với độ ẩm cao của khí hậu nhiệt đới như ở Việt Nam, sản phẩm không bị nước thấm sẽ có tuổi thọ lâu hơn. Với nghiên cứu tách sợi xenlulose rỗng từ rơm, TS Vũ Việt Dũng (35 tuổi, quê Nam Định) cùng cộng sự tạo tấm tường cách âm đạt các tiêu chuẩn cho công trình xây dựng.

Theo TS Vũ Việt Dũng, trong nước có một số đơn vị làm tường cách âm bằng rơm nhưng, “các sản phẩm chủ yếu sử dụng chất phụ gia như xi măng, keo… làm chất kết dính, không hoàn toàn tự nhiên”. Sản phẩm của nhóm đã được kiểm định các chỉ số về độ cách âm, cách nhiệt và tiêu âm đạt tiêu chuẩn cho công trình xây dựng. Sản phẩm phù hợp cách âm ở tần số thấp (âm thanh trầm) như các quán bar, phòng ngủ, khách sạn… hoặc cách nhiệt trong mái nhà xưởng, vách…

Về vấn đề vật liệu chế tạo từ rơm nên có nhiều lo ngại về nguy cơ cháy nổ. TS Dũng lý giải, tường từ rơm vẫn có thể bắt lửa nhưng đặc tính chậm cháy lan vì cấu trúc liền khối khiến ngọn lửa âm ỉ bên trong, tốc độ cháy không bằng các vật liệu bằng mút xốp, nhựa…

Vật liệu cách âm từ rơm có khả năng hạn chế. (Ảnh chụp màn hình)

Từ khi sản phẩm ra mắt lần đầu tiên năm 2022, ông Dũng cho biết, nhận được nhiều đóng góp nhằm cải tiến sản phẩm. Ghi nhận các ý kiến này, ông đã nghiên cứu nâng cấp một số tính chất sản phẩm, bao gồm khả năng kháng ẩm và cháy nổ ở mức độ tiêu chuẩn. Theo thử nghiệm từ TS Vũ Việt Dũng, nước không còn ngấm vào tấm cách âm từ rơm. Khi tiếp xúc với ngọn lửa cao từ bình khò lửa, vật liệu không dễ cháy, không bị cháy lan ra sang bên khi ngọn lửa tắt.

Sau những cải tiến về mặt tính chất sản phẩm, một số mẫu sản phẩm mới từ rơm đã được hình thành với kích thước 600 x 600 mm. Các sản phẩm đều sử dụng lõi rơm ép chặt giảm độ rỗng có bổ sung các mặt cứng hai bên làm tăng khả năng cách âm và cách nhiệt. Với trọng lượng nhẹ, dễ di chuyển, cắt gọt và lắp đặt tới mọi công trình khi thi công.

Tận dụng đặc tính hút ẩm của sản phẩm với những sợi cenlulose rỗng bên trong, âm thanh sẽ đi vào trong, năng lượng âm thanh bị tổn thất và giữ lại trước khi đi ra ngoài. Với độ rỗng lớn, khả năng hấp thụ âm có thể lên tới 90%. Vật liệu tiêu âm phù hợp sử dụng rộng rãi trong các không gian có kích thước lớn như nhà hát, hội trường, sân khấu hay trong các phòng hòa nhạc. Một lợi ích khác là các sản phẩm tự nhiên, không hóa chất sẽ đảm bảo sức khỏe cho người sử dụng hơn.


Thiết kế rỗng cho khả năng hấp thụ âm tốt. (Ảnh: NVCC)

Thử nghiệm cho thấy vật liệu này đạt hệ số cách âm (Transmission loss [dB]) 65 dB ở tần số thấp dưới 1.000 Hz. Đây là dải tần số thường gặp trong đời sống hàng ngày từ tiếng ồn quán karaoke, phương tiện giao thông, máy móc nhà xưởng hay các công trình xây dựng.

Theo ông Dũng, sản phẩm cách âm cách nhiệt từ sợi rơm đã bổ sung các đặc tính tốt về kháng nước, chống cháy lan, có thể là sự lựa chọn phù hợp để lắp đặt cho các công trình tiêu âm (hội trường, giảng đường…) và cách âm cho nhà ở, khách sạn…

Nghiên cứu về việc tách sợi xenlulose rỗng từ rơm của TS Vũ Việt Dũng và nhóm đã tạo ra một sản phẩm cách âm và cách nhiệt bền vững, không chỉ giải quyết vấn đề cháy nổ mà còn đáp ứng các yêu cầu cao cấp của công trình xây dựng hiện đại. Đây không chỉ là một đóng góp quan trọng cho lĩnh vực nghiên cứu mà còn là một lựa chọn tích cực cho ngành công nghiệp xây dựng và bảo vệ môi trường.

Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 7839 : 2007 (ISO 11546 : 1995) về Âm học – Xác định hiệu quả cách âm của vỏ cách âm

TCVN 7839 : 2007 do Ban kỹ thuật Tiêu chuẩn TCVN/ TC 43 ” Âm học” biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.

– TCVN 7839 – 1 : 2007 (ISO 11546 – 2 :1995) Phần 1: Phép đo ở điều kiện phòng thí nghiệm (để công bố kết quả).

– TCVN 7839 – 2 : 2007 (ISO 11546 – 2 :1995) Phần 2: Phép đo tại hiện trường (cho mục đích công nhận và kiểm định).

Về phạm vi áp dụng: Tiêu chuẩn này được áp dụng không hạn chế với vỏ cách âm đứng cách biệt có thể tích nhỏ hơn 2m3. Trong trường hợp sử dụng nguồn âm thực để xác định hiệu quả cách âm của vỏ cách âm có thể tích vượt quá 2m3 thì các yêu cầu liên quan đến thể tích tối đa cho phép phải đáp ứng đầy đủ trong tiêu chuẩn được sử dụng. Phương pháp nguồn âm thực của thiết bị có thể áp dụng cho bất kỳ loại vỏ cách âm nào, ví dụ như vỏ cách âm gắn cố định vào máy.

Khi sử dụng phương pháp hoán vị hoặc phương pháp nguồn âm nhân tạo, thể tích tối đa của vỏ cách âm là 2 m3. Phương pháp này không áp dụng cho loại vỏ cách âm vừa sát.

Duy Trinh (t/h)
https://vietq.vn/vat-lieu-cach-am-tu-rom-co-kha-nang-han-che-chay-no-tham-nuoc-d218136.html