Biến ánh nắng mặt trời thành nhiên liệu

Các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Cambridge đã phát minh ra kỹ thuật liên quan đến tách nước thành khí oxy và khí hydro ở thực vật.

Theo các nhà nghiên cứu, khí hydro được sản sinh ra có thể trở thành một nguồn năng lượng tái tạo xanh và vô hạn.

Đội nghiên cứu đã sử dụng ánh nắng tự nhiên để chuyển đổi nước thành khí hydro và khí oxy nhờ sử dụng một hỗn hợp các thành phần sinh học và công nghệ nhân tạo.

Katarzyna Sokó, Trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Quang hợp tự nhiên không hiệu quả vì nó chỉ tiến hóa để sinh tồn nên chỉ tạo ra lượng năng lượng cần thiết tối thiểu, khoảng 1 – 2% khối lượng nó có thể biến đổi và dự trữ”.


Khí hydro được sản sinh ra có thể trở thành một nguồn năng lượng tái tạo xanh.(Ảnh minh họa)

Trong khi quang hợp nhân tạo đã có từ lâu, các kỹ thuật trước đây phụ thuộc vào các chất xúc tác, thường đắt đỏ và độc hại còn kỹ thuật mới thì sử dụng một enzyme có tên hydrogenase, không độc hại.

Bà Sokó giải thích: “Hydrogenase là một enzyme có trong tảo, có khả năng biến đổi các proton thành khí hydro. Trong quá trình tiến hóa, quá trình này đã bị vô hiệu hóa vì nó không cần thiết cho sự sinh tồn, nhưng chúng tôi đã thành công bỏ qua trạng thái không hoạt động để đạt được phản ứng như mong đợi – tách nước thành khí hydro và khí oxy”.

Các nhà nghiên cứu đang hy vọng kỹ thuật của họ có thể được sử dụng trên phạm vi lớn hơn để biến ánh nắng mặt trời thành nhiên liệu.

Theo Phạm Đình/tapchimoitruong.vn (14/9/2018)

Chế phẩm sinh học từ tinh bột sắn có thể giúp hoa quả tươi lâu

TS. Lê Đại Vương (Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế); TS. Võ Văn Quốc Bảo (Đại học Nông lâm Huế) cùng các cộng sự đã dày công nghiên cứu thành công chế phẩm sinh học từ tinh bột sắn có thể giúp hoa quả tươi lâu 35 ngày, thân thiện môi trường và an toàn cho sức khỏe con người.

TS. Lê Đại Vương cho biết, Thừa Thiên – Huế nổi tiếng với nhiều loại trái có múi đặc sản như bưởi Thanh Trà, quýt Hương Cần, cam Nam Đông… có giá trị dinh dưỡng cao, được người tiêu dùng ưa chuộng. Tuy nhiên, quá trình quan sát trên quýt Hương Cần chúng tôi thấy rằng hầu hết các hộ nông dân bị thương lái ép giá và thị trường tiêu thụ chưa mở rộng do dễ bị dập và úng vì không có biện pháp hữu hiệu để bảo quản. Vì vậy chúng tôi quyết định nghiên cứu để tìm ra một giải pháp bảo quản lâu dài, giá thành phù hợp, dễ áp dụng.

Đề tài “Ứng dụng nano bạc trong sản xuất chế phẩm màng bảo quản một số quả tươi” được nhóm nghiên cứu từ năm 2015. Theo TS. Lê Đại Vương, công nghệ nano là một lĩnh vực mới và hấp dẫn của khoa học, cho phép nâng cao nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực. Một trong số các hạt nano thân thiện với môi trường và con người được ứng dụng rộng rãi hiện nay là nano bạc. Các hạt nano bạc có diện tích mặt rất lớn, gia tăng tiếp xúc của chúng với vi khuẩn hoặc nấm và nâng cao hiệu quả diệt khuẩn, diệt nấm. Do đó, việc nghiên cứu chế tạo chế phẩm sinh học có khả năng kháng khuẩn từ tinh bột sắn, nano bạc từ một số nguồn gốc thực vật là rất thiết thực.

TS. Lê Đại Vương giới thiệu hiệu quả của nano bạc trong bảo quản quả tươi.

Khi tiến hành nghiên cứu chế phẩm bảo quản, nhóm đã phân lập, định danh nấm từ quả quýt Hương Cần rồi cấy nấm trên môi trường PDA (môi trường nuôi cấy vi sinh vật và nấm) có nồng độ nano bạc khác nhau để xác định được tính kháng khuẩn của dung dịch nano bạc. Từ đó, khẳng định dung dịch nano bạc có tính kháng khuẩn tốt dù nồng độ thấp (10 ppm) và nhóm chọn mẫu nano có nồng độ 30 ppm, 50 ppm để tạo chế phẩm sinh học.

Ở nồng độ 10 ppm, tính kháng khuẩn của nano yếu hơn so với 30,ppm, 50,ppm, 100,ppm, 150,ppm. Vì vậy, nhóm nghiên cứu chọn nano có nồng độ 30 ppm và 50 ppm để chế tạo màng bảo quản quả tươi. Để biết được những biến đổi của quýt trong quá trình bảo quản, nhóm đã tiến hành khảo sát một số yếu tố như cảm quan, hao hụt khối lượng, vitamin C, hàm lượng đường.

Sau 2 năm nghiên cứu giải pháp ứng dụng nano bạc trong sản xuất chế phẩm màng bảo quản một số quả tươi đã chứng minh hiệu quả với quả quýt Hương Cần, cà chua. Kết quả cho thấy, chế phẩm sinh học từ nano bạc, chitosan, tinh bột sắn đảm bảo tính an toàn thực phẩm và thân thiện với môi trường.

Nhóm nghiên cứu nhận thấy đối với quả quýt Hương Cần được phun chế phẩm nano có thể tươi lâu đến 35 ngày đồng thời vẫn giữ được độ ngọt, mùi vị và màu sắc của cam, so với chỉ 9 ngày nếu không bảo quản. Nhờ cách bảo quản này, quýt Hương Cần có thể được nhập khẩu hay vận chuyển đi xa trong thời gian dài và điều quan trọng nữa là cách sử dụng chế phẩm rất đơn giản, thuận tiện cho bà con áp dụng và giá thành cũng rất rẻ. Một lít chế phẩm chỉ có 50.000 đồng, sử dụng cho khoảng 2 – 3 tạ quýt.

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của đề tài, nhóm đã hợp tác với làng Hương Cần, xã Hương Toàn, huyện Hương Trà nhằm giúp bà con bảo quản quýt đặc sản. TS Vương khẳng định, việc áp dụng chế phẩm màng bảo quản quả tươi sẽ hạn chế việc thu hái quýt trước thời điểm thu hoạch, đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng và vitamin C trong quýt; Hạn chế thất thoát khối lượng, giữ được màu sắc và hương vị tự nhiên.

Sau khi ứng dụng thành công bảo quản quýt Hương Cần, nhóm sẽ triển khai hướng dẫn chi tiết kỹ thuật cho người dân để nhân rộng mô hình, phát triển với nhiều loại trái cây khác như thanh long, bưởi Thanh Trà…

Theo Nguyệt Minh/tapchimoitruong.vn (13/9/2018)

Biến CO2 thành năng lượng xanh

Hiện nay, hầu hết các biện pháp bảo vệ môi trường đều nhằm chống lại khí thải CO2, nguyên nhân chính gây ra hiệu ứng nhà kính. Nhưng ít ai biết rằng, CO2 có thể trở thành năng lượng xanh. Ở Pháp, Tập đoàn Suez đã hợp tác với Công ty Fermentalg phát triển một bể chứa carbon nhân tạo cho phép biến CO2 thành biogas.

Bể chứa carbon nhân tạo

Trong tự nhiên, các bồn chứa carbon (tức là các khu rừng và vỉa than bùn) hấp thụ khí CO2 tồn tại trong không khí. Lượng khí CO2 được các bồn chứa carbon tồn trữ nhiều gấp 3 lần so với trong khí quyển. Bồn chứa carbon tự nhiên lớn nhất hành tinh là biển. Các đại dương hấp thụ nhiều khí CO2 nhất với hơn 3,2 tỉ tấn CO2/năm (tương đương một nửa khí thải CO2 liên quan đến hoạt động của con người).

Phỏng theo cơ chế của các bồn chứa carbon tự nhiên, để sử dụng khí CO2 chuyển hóa thành năng lượng xanh, Suez và Fermentalg đã phát triển một bể chứa carbon sử dụng vi tảo đơn bào. Những vi tảo này được nuôi trong bể nước. Sau đó, nhờ vào quá trình quang hợp, khí CO2 sẽ được lưu lại trên những vi tảo. Quá trình này sẽ diễn ra liên tục, tạo ra một sinh khối. Sinh khối này sẽ được chuyển đến nhà máy để xử lý, từ đó cho phép sản xuất ra nhiều khí biogas, cuối cùng chuyển thành khí biomethane (khí thiên nhiên bền vững).

Như vậy, nhờ vào sử dụng vi tảo và quá trình quang hợp của ánh sáng mặt trời, người ta sử dụng khí CO2 để phát triển năng lượng tái tạo. Khí biomethane sau khi được xử lý có thể sử dụng cho hệ thống làm nước nóng hay lò hơi đốt gas.

Giải pháp hữu hiệu chuyển đổi năng lượng?

Năm 2016, bể chứa khí carbon đầu tiên được đặt ở Colombes, trong một nhà máy xử lý của SIAAP (Nghiệp đoàn xử lý nước thải liên vùng Paris). Sau đó, bể chứa thứ 2 có tên gọi “bể chứa thí điểm” được khánh thành vào năm 2017 ở Paris. Cuối cùng, ngày 2-5-2018, bể chứa thứ 3 được đưa vào hoạt động ở Poissy.

Mỗi lần lắp đặt các bể chứa, Tập đoàn Suez đều rất cẩn thận trong việc chọn vị trí, chọn những khu vực đông người qua lại, nơi có mật độ giao thông đông đúc và cũng là nơi có rất nhiều khí thải CO2. Cụ thể, ở trung tâm thành phố, nơi có ít cây xanh, những bể chứa khổng lồ này hoạt động với cơ chế giống như một khu rừng, tức là hấp thụ khí ô nhiễm nhờ quá trình quang hợp.

Chương trình quốc gia về năng lượng dài hạn đặt ra mục tiêu rất rõ ràng: Pháp phải giảm tiêu thụ năng lượng, sản xuất thêm năng lượng tái tạo và hạn chế khí thải nhà kính. Liệu các bể khí carbon có thể góp phần vào thành công của việc chuyển đổi năng lượng?

Suy cho cùng, các bể khí carbon hiện tại đang trong giai đoạn thử nghiệm, với việc lắp đặt thử nghiệm ở một số nơi.

Hiện tại, Suez chỉ chọn những thành phố lớn và những khu phố đông đúc để thu được tối đa lượng khí CO2. Nhưng trong tương lai không xa, các bể khí này có thể tích hợp vào các nhà máy để hấp thu đến 10.000 tấn khí CO2 mỗi năm. Theo Tập đoàn Suez, ứng dụng này không chỉ giải quyết những vấn đề của biến đổi khí hậu, mà còn có thể phát triển thành một ngành kinh tế.

Theo S.P/petrotimes.vn (30/8/2018)

Giảm thiểu khí bụi thải: Chiến lược Tăng trưởng xanh của ngành thép Việt Nam

Sản xuất gang, thép và cán thép phải sử dụng khối lượng lớn tài nguyên khoáng sản (quặng sắt, than cốc, đá vôi, đôlômit và một số loại khác), sắt thép phế, hóa chất… nên đã phát sinh các loại chất thải (rắn, khí, bụi và nước thải) gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, để thực thi hiệu quả công tác BVMT, việc triển khai “Chiến lược Tăng trưởng xanh (TTX) của ngành thép” gắn với “Chiến lược TTX quốc gia” là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của ngành thép Việt Nam giai đoạn 2018 – 2030.

Triển khai Chiến lược BVMT ngành thép Việt Nam giai đoạn 2018 – 2030

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng về BVMT trong hoạt động sản xuất (HĐSX) của các ngành công nghiệp nói chung và ngành thép nói riêng, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan và ngành thép Việt Nam xây dựng và triển khai thực hiện “Chiến lược BVMT” phù hợp với mục tiêu của “Chiến lược TTX”. Chiến lược BVMT ngành thép Việt Nam đã đạt được kết quả đáng kể (hạn chế sự gia tăng ô nhiễm môi trường do khí bụi thải trong HĐSX, môi trường sống và làm việc của các doanh nghiệp (DN) được nâng cao, bệnh nghề nghiệp đã giảm mạnh). Song vẫn còn những tồn tại cần phải giải quyết như: Tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường cần phải khắc phục; Phương tiện kỹ thuật BVMT của một số DN còn lạc hậu, nguồn lực BVMT hạn chế. Trong khi đó, nhận thức về BVMT chưa được nâng cao; Tổ chức và năng lực quản lý về BVMT của các DN chưa đáp ứng yêu cầu…

Vì thế, việc triển khai “Chiến lược BVMT ngành công nghiệp Việt Nam” và “Chiến lược BVMT ngành thép Việt Nam” trong đó có “Chiến lược TTX của ngành thép Việt Nam giai đoạn 2018 – 2030 là một yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Mục tiêu “Chiến lược TTX ngành thép” cần hướng tới là “Tăng trưởng sản xuất và phát triển bền vững, nâng cao hiệu quả HĐXS của từng DN sản xuất thép. Đổi mới công nghệ và thiết bị, giảm thiểu phát thải KNK, sản xuất thân thiện với môi trường”.

Qua phân tích tác động môi trường do HĐSX của ngành thép Việt Nam (từ khâu HĐKS, luyện gang, luyện thép cho đến khâu cán và gia công sản phẩm thép) đã xác định khá đầy đủ và chính xác những tác nhân gây ô nhiễm. Để BVMT một cách hiệu quả và bền vững, từ kinh nghiệm của các nước phát triển trước hết cần thực hiện tốt việc “Quản lý chất thải”, coi đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong “Chiến lược TTX ngành thép”.

Nội dung “Quản lý chất thải” bao gồm: Xem xét nguồn gốc phát thải, phân loại và đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi trường; Kiểm soát, ngăn ngừa và làm giảm các chất gây ô nhiễm môi trường đến mức thấp nhất; Công nghệ xử lý chất thải; Quan trắc và phòng ngừa sự cố môi trường do chất thải gây ra.

Công nghệ sản xuất gang Lò cao từ quặng sắt của VNSTEEL.

Thiết lập phương pháp quản lý chất thải hợp lý sẽ đưa ra quyết định lựa chọn công nghệ xử lý chất thải (bao gồm xử lý, tái chế biến hay vứt bỏ) một cách hiệu quả, nhằm hạn chế tác động đến môi trường. “Quản lý chất thải” trong HĐSX của ngành thép Việt Nam theo mô hình:

Tái sử dụng và chế biến: Việc loại bỏ hoàn toàn các chất thải rất khó thực hiện. Vì thế, để xử lý chất thải nên theo xu hướng “tái chế biến” chất thải ngay bên trong hay ngoài nhà máy. Việc “tái chế” chất thải sẽ làm hạn chế và giảm thiểu lượng chất phát thải ra môi trường. Kết quả “tái chế” chất thải phụ thuộc vào các yếu tố: Khả năng sử dụng lại nguyên, nhiên và vật liệu thu được từ chất thải; Khả năng tách những nguyên liệu có giá trị và thu hồi được từ chất thải; Sản phẩm thu được sau khi thực hiện công nghệ xử lý chất thải.Kiểm soát, ngăn ngừa và tối thiểu hóa chất thải sẽ mang lại các lợi ích sau: Giảm tác nhân gây ô nhiễm môi trường; Tăng lợi nhuận cho DN do việc giảm chi phí lắp đặt thiết bị thu khí bụi thải và giảm chi phí thu gom chất thải rắn…; Nâng cao sức khỏe và an toàn cho người lao động. Để thực hiện tốt việc “ngăn ngừa và tối thiểu hóa chất thải” có thể thực hiện một số giải pháp sau: Kiểm soát nguồn và tác nhân phát thải; Chuẩn bị các nguyên vật liệu đầu vào có chất lượng tốt; Đổi mới công nghệ và thiết bị về BVMT.Mô hình quản lý chất thải trong ngành thép Việt Nam

Xử lý hay vứt bỏ chất thải là một trong những hoạt động được tiến hành sau khi phân loại chất thải phát sinh trong HĐSX. Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam đã áp dụng một số công nghệ xử lý tùy thuộc vào loại chất thải như sau: Lọc và hút khí bụi thải (thường dùng trong sản xuất thép lò điện, nhà máy nhiệt điện, xi măng); Xử lý đốt bằng nhiệt; Xử lý hóa học hay sinh học; Làm đông đặc thành khối các chất thải (sau đó sử dụng để tái chế, hay để chôn lấp, vứt bỏ… tùy thuộc vào thành phần chất thải sau phân loại.

Việc “vứt bỏ chất thải” bằng “chôn lấp” là giải pháp cuối cùng và chỉ được sử dụng khi phương pháp “tái chế biến” không khả thi về kỹ thuật và kinh tế. Tuy nhiên, việc “chôn lấp” phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định luật pháp về việc quản lý chôn lấp và hủy bỏ chất thải.

Giải pháp giảm phát thải khí nhà kính ngành thép

HĐSX của ngành thép Việt Nam đã sử dụng các loại tài nguyên khoáng sản (quặng sắt, than, đá vôi, khí thiên nhiên…), sử dụng nhiệt năng và điện năng từ việc đốt cháy than, dầu, và khí thiên nhiên nên đã phát thải lượng KNK khá lớn.

Để giảm thiểu khí bụi thải (là tác nhân gây ô nhiễm môi trường) và giảm thiểu KNK (là tác nhân gây hiệu ứng KNK và BĐKH) do HĐSX, ngành thép Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau:

Nâng cao nhận thức và nguồn lực cho BVMT: Tuyên truyền để DN hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm về BVMT, thực hiện nghiêm các văn bản pháp luật về BVMT đã ban hành; Phối hợp với cơ quan chức năng tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử phạt các vi phạm BVMT trong các DN ngành thép. Chú trọng dào tạo nguồn nhân lực và tăng cường nguồn tài chính cho BVMT.

Đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ nhằm BVMT hiệu quả hơn. Lấy việc phòng ngừa ô nhiễm, giảm thiểu chất thải phát sinh gây tác động tiêu cực đến môi trường bằng việc sử dụng công nghệ ít tiêu tốn nhiên liệu và năng lượng, phát thải khí thấp, tuổi thọ thiết bị cao, chu kỳ tạo sản phẩm ngắn và thân thiện với môi trường…). Chú trọng áp dụng công nghệ “Sản xuất sạch hơn” tại các DN trọng điểm. Không khuyến khích đầu tư Dự án luyện than cốc tại Việt Nam và cần thay đổi công nghệ sản xuất than cốc theo phương pháp dập khô thay cho dập ướt nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các Nhà máy luyện cốc hiện nay ở Việt Nam.

Giảm tiêu hao, sử dụng nhiên liệu sạch và nâng cao chất lượng nguyên liệu đầu vào trong sản suất gang thép. Những năm qua với sự hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức quốc tế ngành thép Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp giảm tiêu hao nhiên liệu đạt với mức tiên tiến của các nước trong khu vực. Mức tiêu hao cụ thể đặt ra như sau: Đối với luyện gang, mức tiêu hao than cốc từ 400÷450 kg cốc/tấn gang; Đối với cán thép giảm tiêu hao dầu dưới 20 lít/tấn sản phẩm.

Việc sử dụng nhiên liệu sạch sẽ làm giảm phát thải KNK. Vì thế sau năm 2020 các DN thép sẽ thay đổi nhiên liệu (từ dùng than sang dùng khí) và tăng cường sử dụng năng lượng có hiệu quả.

Tiết kiệm năng lượng (TKNL) trong HĐSX của ngành thép Việt Nam: Cần nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng (nhiệt năng, điện năng và khí…), giảm thiểu các tổn thất, lãng phí năng lượng trong mọi hoạt động của DN; Cải tiến bổ sung các thiết bị phụ trợ, nguyên nhiên liệu phụ trợ nhằm tăng cường thúc đẩy nhanh quá trình nấu luyện, rút ngắn thời gian tạo sản phẩm bằng biện pháp cụ thể như: Bổ sung mỏ đốt cho lò điện EAF; Sử dụng loại mỏ đốt tái sinh cho lò nung phôi kết hợp với hệ thống buồng tích nhiệt; Tăng cường phun than cám antraxit kết hợp tăng ôxy để giảm tiêu hao than cốc vào lò cao…

Sử dụng nhiệt dư và khí thải: Trong khí thải lò luyện cốc, luyện gang, luyện thép (bằng lò chuyển) chứa lượng các chất CO, H2, CnHm… Có thể tận dụng nhiệt dư từ khí thải để sấy thép phế để rút ngắn thời gian luyện thép trong lò điện. Việc tận dụng nhiệt dư đã được áp dụng tại một số DN trong ngành thép Việt Nam (tại lò CONSTEEL của Công ty thép Việt và lò DANARC PLUS của Công ty thép Miền Nam…). Ngoài ra, có thể sử dụng khí thải làm nhiên liệu (nung, đốt) cho một số công đoạn sản xuất nội bộ Nhà máy (đốt lò nung, lò hơi) hoặc cấp cho các hộ bên ngoài có nhu cầu sử dụng (sản xuất điện bằng turbin…).

Trồng cây xanh và thảm cỏ trong khuôn viên các Nhà máy: Việc nâng cao hiệu quả đầu tư các dự án, trong đó có việc “lựa chọn địa điểm và kết cấu nhà xưởng” các Dự án của ngành thép Việt Nam phải phù hợp với BĐKH, nước biển dâng và bão, lụt… Ngoài việc lựa chọn địa điểm hợp lý và kết cấu nhà xưởng phù hợp, phải tính đến diện tích bố trí khu trồng cây xanh và thảm có (tối thiểu bằng 15% tổng diện tích đất Dự án) để tạo môi trường xanh và hấp thụ khí CO2 tại khu vực Nhà máy.

Đồng thời, áp dụng và triển khai mô hình hoạt động “Nhà máy – Công viên – Bữa ăn tự chọn” do Công đoàn ngành thép Việt Nam phát động. Với kết quả đạt được, ngành thép Việt Nam cần phải tiếp tục triển khai nhân rộng mô hình này trên pham vi và quy mô toàn ngành trước năm 2020.

Theo TS. Nghiêm Gia (Hội KHKT Đúc Luyện kim Việt Nam)/

ThS. Nguyễn Đức Vinh Nam (Tổng Công ty Thép Việt Nam – CTCP)/tapchimoitruong.vn

Tuần lễ Năng lượng tái tạo 2018: “Triệu ngôi nhà xanh vì Việt Nam thịnh vượng”

Ngày 21/8, tại Hà Nội, Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam và nhóm Công tác về Biến đổi khí hậu tổ chức khai mạc Tuần lễ “Năng lượng tái tạo Việt Nam” năm 2018 – khởi đầu cho chuỗi sự kiện diễn ra từ ngày 21-26/8 tại 3 thành phố lớn: Hà Nội, TP.HCM và Cần Thơ.

Tuần lễ Năng lượng tái tạo Việt Nam 2018 nhằm tạo diễn đàn cho các bên liên quan đối thoại tìm ra các giải pháp tháo gỡ những khó khăn và thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo; tăng cường nhận thức của công chúng về tính khả thi, các lợi ích của năng lượng tái tạo và kêu gọi hành động.

Chương trình cũng nhằm khởi động và huy động sự quan tâm của các bên liên quan vào thực hiện chương trình “Triệu ngôi nhà xanh vì Việt Nam thịnh vượng”.

Lễ cắt băng khai mạc Tuần lễ Năng lượng tái tạo Việt Nam 2018.

Phát biểu khai mạc Tuần lễ Năng lượng tái tạo Việt Nam 2018, bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc GreenlD, cơ quan điều phối VSEA cho biết: “Với thông điệp “Mở đường cho năng lượng tái tạo tới từng gia đình Việt”, chương trình tuần lễ năm nay hướng tới khuyến khích mọi công dân Viêt Nam trở thành một phần của quá trình chuyển dịch năng lượng và trở thành những người hưởng lợi trực tiếp của quá trình này. Cùng với các đối tác, chúng tôi mong muốn sẽ dành nhiều nỗ lực hơn cho việc đẩy mạnh ứng dụng điện mặt trời để tạo đột phá cho chuyển dịch năng lượng đảm bảo công bằng xã hội, tao điều kiện cho người tiêu dùng trở thành những nhà sản xuất và tiêu dùng thông thái…”

Theo bà Ngụy Thị Khanh, điểm nhấn tương tác với công chúng trong Tuần lễ năng lượng tái tạo Việt Nam 2018 chính là Giải chạy “Chạm tới Năng lượng xanh” sẽ diễn ra vào sáng 26/8/2018 tại Ecopark. “Đây không chỉ là sự kiện thể thao mà còn mang ý nghĩa môi trường và xã hội sâu sắc, hứa hẹn thu hút khoảng 700 người tham gia. Được tổ chức gắn liền với các thông điệp về quá trình chuyển dịch năng lượng bền vững, giải chạy sẽ giúp người tham gia hiểu hơn về sự phát triển của ngành năng lượng tại Việt Nam và có cơ hội được tận tay chạm tới những nguồn năng lượng mới, thân thiện với môi trường thông qua không gian triển lãm, trình diễn mô hình trực quan” – bà Ngụy Thị Khanh nhấn mạnh.

Toàn cảnh buổi lễ.

Giám đốc GreenID Ngụy Thị Khanh mong muốn: “Chương trình Tuần lễ Năng lượng tái tạo Vỉêt Nam 2018 với 5 sự kiện chính diễn ra tại 3 thành phố lớn, 18 sự kiện hưởng ứng trên khắp cả nước kỳ vọng sẽ thu hút được sự tham gia trực tiếp của khoảng 2.300 đại biểu và khoảng hơn 10.000 lượt người theo dõi trực tuyến. Nhiều cơ hội hợp tác mới sẽ đươc phát triển thông qua Tuần lễ này, đồng thời đông đảo công chúng sẽ ủng hộ và tham gia tích cực vào sáng kiến triệu ngôi nhà xanh vì Việt Nam thịnh vượng để góp sức vào các nỗ lực cùng hành động ứng phó với biến đổi khi hậu và tăng trưởng xanh của quốc gia”.

Tại lễ khai mạc, ông Antoine Vander Elst, Tùy viên, Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam cho biết: “Hiện nay, năng lượng tái tạo không còn là giấc mơ xa vời hay là công nghệ đắt đỏ chỉ có ở các quốc gia giàu có. Nhờ sự phát triển rộng rãi của năng lượng tái tạo, đã góp phần nâng cao sự tin cậy, chất lượng của loại năng lượng này và giảm giá thành, giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và sức khỏe, tăng cường an ninh năng lượng và cung cấp nhiều cơ hội nghề nghiệp”.

Theo Phú Văn/petrotimes.vn (22/8/2018)

Phát triển đô thị thông minh và bền vững tại một số khu vực ở châu Á

Thị trấn Shioashiya (Nhật Bản); TP. Songdo (Hàn Quốc) và Singapore được đánh giá là 3 đô thị xanh, thông minh nhất châu Á, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để phát triển kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo môi trường bền vững, mang lại cuộc sống an toàn, lành mạnh cho người dân.

Shioashiya – Thị trấn tiêu hao năng lượng bằng 0

Nằm trong TP. Ashiya thuộc tỉnh Hyogo (Nhật Bản), thị trấn Shioashiya có diện tích 120.000 m2, dân số khoảng 9.000 người với 400 căn nhà riêng và 83 căn hộ chung cư, được thiết kế theo hướng ưu tiên sử dụng năng lượng tái tạo (NLTT). Mỗi ngôi nhà đều lắp đặt các tấm pin năng lượng mặt trời trên mái, ắc quy dự trữ điện năng và hệ thống quản lý năng lượng thông minh, giảm thiểu tiêu thụ năng lượng và tận dụng tối đa NLTT. Nhờ công nghệ cách nhiệt Puretech và hệ thống thông gió Eco-Navi, giúp cho ngôi nhà luôn mát mẻ vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông.

Mỗi ngôi nhà đều lắp đặt các tấm pin năng lượng mặt trời trên mái.

Ngoài ra, khu chung cư phức hợp cũng là công trình cân bằng về năng lượng của Shioashiya với việc lắp đặt hệ thống phát điện mặt trời trên tầng thượng cùng các pin nhiên liệu (loại thiết bị năng lượng có mức thải ô nhiễm gần như ” bằng 0″) bên trong căn hộ. Mỗi pin nhiên liệu là một nguồn phát, có thể sinh ra điện từ phản ứng hóa học giữa hyđ ô và ô xy. Nhờ đó, khu chung cư phức hợp có thể sản xuất khoảng 199 Mwh điện/năm, vượt mức nhu cầu tiêu thụ điện của TP và lượng điện thừa được bán cho những địa phương khác, mang lại lợi nhuận hàng năm khoảng 11.700 USD.

Bên cạnh các khu chung cư, Trung tâm cộng đồng Solar-Shima Terrace cũng là một công trình được trang bị hệ thống điện mặt trời, pin dự trữ, giúp tận dụng tối đa năng lượng gió, ánh sáng mặt trời.

Songdo – Khu đô thị nói không với xe tải rác

Songdo (tiếng Hàn có nghĩa là hòn đảo của cây thông) là một khu đô thị hiện đại của Hàn Quốc, được xây dựng từ năm 2003, trên một hòn đảo nhân tạo lấn biển, diện tích khoảng 6 km2, cách thủ đô Seoul khoảng 65 km. Phong cách kiến trúc thân thiện với môi trường là ưu tiên hàng đầu của Songdo và cũng là đặc điểm quan trọng của một TP thông minh, với hệ thống cảm biến được gắn khắp nơi. Hầu hết các cột đèn giao thông ở Songdo đều có camera, bộ cảm biến và những chiếc loa phát thanh. Bộ phận cảm biến có thể tự động điều chỉnh mức điện năng tiêu thụ theo điều kiện thời tiết, ánh sáng, tính toán lưu lượng giao thông để đưa ra quyết định sử dụng điện hiệu quả nhất.

Songdo có nhiều sản phẩm thân thiện với môi trường như trạm sạc pin cho xe điện, hệ thống tái sử dụng nước thông minh, nhưng ấn tượng nhất là hệ thống xử lý rác thải đặc biệt. Tại Songdo, không có xe chở rác chạy trên đường phố, thay vào đó, một hệ thống đường ống nén khí sẽ hút rác từ máng đổ rác của các tòa nhà rồi chuyển tới cơ sở phân loại rác tập trung. Tại đây, rác được xử lý, biến thành năng lượng hoặc đưa đi tái chế. Nhờ hệ thống thu gom chất thải trên, Songdo dự kiến ​​tái chế 76% lượng chất thải trước năm 2020.

Tại đây, rác được xử lý, biến thành năng lượng hoặc đưa đi tái chế.

Đồng thời, Songdo cũng khuyến khích thực hiện giảm thiểu nhu cầu sử dụng ô tô. Các tòa chung cư, văn phòng, công viên, cơ sở y tế, trường học… được thiết kế gần nhau để người dân tiện di chuyển qua các điểm dừng xe buýt, hoặc tàu điện ngầm. Ngoài ra, Songdo bố trí 40% cho các không gian xanh và làn đường dành riêng cho xe đạp để khuyến khích người dân sử dụng xe đạp, giúp giảm khí thải nhà kính.

Tuy đang trong quá trình xây dựng, nhưng Songdo đã có 40.000 cư dân sinh sống và là trụ sở làm việc của 2.600 doanh nghiệp.

Thùng rác kết nối với ống khí nén vận chuyển bên dưới ở TP. Songdo, Hàn Quốc

Singapore – Trung tâm công nghệ thông minh tỷ đô 

Những năm qua, Singapore có tốc độ phát triển nhanh, nhờ sự ổn định chính trị, các kế hoạch phát triển dài hạn và chính sách mở cửa thu hút đầu tư. Từ một thuộc địa nhỏ tại Đông Nam Á, giờ đây, Singapore đã trở thành cảng biển, trung tâm lọc dầu, nơi sản xuất đồ điện tử và trung tâm ngân hàng lớn trên thế giới.

 Singapore đã ứng dụng khoa học, công nghệ vào tất cả các lĩnh vực của đời sống con người như chăm sóc sức khỏe, quản lý đô thị, giao thông, môi trường… Chính phủ Singapore đã cải tạo JTC LaunchPad – khu công nghiệp cũ xuống cấp rộng 6.5 ha thành trung tâm khởi nghiệp sôi động. Tòa nhà đầu tiên mang tên Block 71 là trụ sở hoạt động của hơn 100 startup (doanh nghiệp khởi nghiệp) công nghệ JTC LaunchPad @ One-North. Các công ty hoạt động trong Block 71 được miễn phí sử dụng wifi, điện nước, đồ ăn. Năm 2010, Chính phủ Singapore đã khởi động Chương trình Technology Incubation Scheme, như một mũi tên trúng hai đích, vừa hỗ trợ các startup mới, vừa thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ thương hiệu “nơi dễ dàng cho kinh doanh”, số lượng startup mới thành lập ở Singapore tăng từ 24.000 lên 55.000 trong giai đoạn 2005 – 2015.

Bên cạnh đó, Singapore đang áp dụng các công nghệ tiên tiến để thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững, với mục tiêu trở thành “quốc gia thông minh” đầu tiên trên thế giới. Gần đây, “đảo quốc sư tử” chính thức ra mắt chung cư đầu tiên tích hợp giải pháp công nghệ LifeUp 3 trong 1, bao gồm: Nhà, cộng đồng và thanh toán thông minh đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Khác với các ứng dụng nhà thông minh trước đây, giải pháp công nghệ mới cho phép tích hợp một cách đầy đủ nhất các tính năng nhận diện khuôn mặt, nhận dạng biển xe thông minh, khóa cửa sinh trắc học, điều chỉnh hệ thống ánh sáng, cũng như nhiệt độ điều hòa, nước nóng để tiết kiệm năng lượng… Với tất cả những hoạt động đó, Singapore đang nỗ lực và quyết tâm phát triển đô thị có hệ sinh thái thông minh, không rác thải, trở thành nơi đáng sống cho mọi người dân.

Theo Trương Huyền/tapchimoitruong.vn (8/2018)