Sẽ tối ưu phát triển năng lượng sạch?

Thông tin từ Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết, việc bổ sung điện gió vào Quy hoạch điện VIII sẽ được dựa trên những tính toán hợp lý nhất, kèm theo các điều kiện về lưới điện liên kết, cam kết của Việt Nam về giảm phát thải tại COP26.

Thực trạng phát triển nóng năng lượng tái tạo (NLTT) trong những năm vừa qua là chưa phù hợp với hạ tầng truyền tải của Việt Nam. Với hàng loạt đề xuất phát triển điện mặt trời, điện gió ngoài khơi tại các địa phương đang đặt ra cho Bộ Công Thương những thách thức lớn trong việc tính toán để NLTT phát triển bền vững, không để ảnh hưởng tiêu cực đến các nguồn điện còn lại.

Sẽ tối ưu phát triển năng lượng sạch?

Các địa phương đang để xuất phát triển 11.000 MW công suất điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.

Đánh giá về hiện trạng nguồn điện hiện nay, ông Nguyễn Tuấn Anh – Phó Cục trưởng Cục Điện lực và NLTT – cho biết, công suất năm 2020 đạt khoảng 69,3 GW, hệ thống điện cơ bản đáp ứng nhu cầu phụ tải. Tốc độ tăng trưởng bình quân nguồn điện giai đoạn 2011-2020 tương đương 12,9%/năm, so với tốc độ tăng trưởng phụ tải bình quân gần 10%/năm.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Tuấn Anh cũng chỉ ra các tồn tại và thách thức đối với việc phát triển nguồn điện trong thời gian qua chưa phù hợp với sự phân bố và phát triển phụ tải. Miền Bắc dự phòng giảm dần do tốc độ tăng trưởng phụ tải ở mức cao tương đương 9%/năm, nhưng tăng trưởng nguồn điện chỉ đạt 4,7%/năm, dự phòng giảm xuống 31% năm 2020.

Ở miền Trung và miền Nam, tăng trưởng nguồn điện nhanh hơn nhiều tăng trưởng phụ tải, dự phòng tăng cao 237% tại miền Trung, 87% tại miền Nam. Do đó, dẫn tới tình trạng nghẽn mạch trên lưới truyền tải và cắt giảm công suất nguồn điện gió, điện mặt trời, do thời điểm điện mặt trời phát cao công suất truyền ngược ra phía Bắc gây quá tải liên kết Bắc – Trung.

Dự báo nhu cầu điện trong những năm tới, Cục Điện lực và NLTT thông tin, theo các chỉ tiêu dự báo phụ tải trong dự thảo Quy hoạch điện VIII đã bám sát và phù hợp với các chỉ tiêu chính của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, tốc độ tăng trưởng GDP trong kịch bản trung bình là 6,8% giai đoạn 2021-2025, 6,4% giai đoạn 2026-2030 và giảm dần về 5,5% giai đoạn 2041-2045.

Cũng theo ông Nguyễn Tuấn Anh, định hướng phát triển nguồn điện theo quan điểm phát triển sau Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26) đã có những thay đổi, cụ thể, sẽ được xem xét lại việc phát triển nhiệt điện than; Tập trung phát triển điện gió trên bờ và điện gió ngoài khơi (ĐGNK). Đồng thời, tính toán cân đối nguồn – tải theo vùng miền, hạn chế truyền tải điện đi xa. Đảm bảo dự phòng từng miền ở mức độ hợp lý, đặc biệt là ở miền Bắc.

Theo đó, quy mô công suất phát triển ĐGNK vào năm 2030 là 5.000 MW và năm 2045 là 41.000 MW. Để ĐGNK trở thành một cột trụ quan trọng trong công cuộc chuyển dịch năng lượng quốc gia, việc nhanh chóng phát triển nguồn điện này là hết sức cấp thiết nhằm hướng đến phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Do đó, việc cần làm hiện nay là xây dựng chính sách phát triển ĐGNK. Xây dựng lộ trình phát triển ĐGNK đến 2045. Đặc biệt, cần xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho ĐGNK.

Được biết, hiện nhiều địa phương trong cả nước đang đề xuất phát triển ĐGNK với Bộ Công Thương và Chính phủ, với tổng công suất lên tới hơn 110.000 MW. Chia sẻ về các tiêu chí lựa chọn dự án, ông Tuấn Anh cho hay, sẽ dựa vào mô hình tính toán cực tiểu, chi phí và kèm theo các ràng buộc như về lưới điện liên kết, cam kết của Việt Nam về giảm phát thải.

Cụ thể, tại mỗi vùng miền sẽ đưa ra cơ cấu nguồn điện trong từng giai đoạn. Trên cơ sở tính toán, quy mô có thể sẽ nhỏ hơn so với nhu cầu của một khu vực, nhưng đó là kết quả mô hình tính toán tối ưu mà quy hoạch đưa ra làm cơ sở lựa chọn.

P.V
https://petrotimes.vn/se-toi-uu-phat-trien-nang-luong-sach-637171.html

Hơn 80% công ty năng lượng đang đầu tư hoặc xem xét gia nhập thị trường hydro

Một cuộc thăm dò ý kiến ​​đối với những người “có tiếng nói” trong ngành năng lượng – từ dầu khí, điện và năng lượng tái tạo và các công ty đầu tư, cho thấy những quan ngại của họ đối với lĩnh vực hydro.

Theo Báo cáo Khảo sát triển vọng chuyển đổi năng lượng năm 2022 của Công ty luật Womble Bond Dickinson, 31% số người được hỏi cho biết họ đã tích cực hoạt động, đầu tư hoặc nghiên cứu hydro xanh lam hoặc xanh lục, 29% đang xem xét tham gia thị trường trong một vài năm tới, với 21% dự định chuyển sang lĩnh vực này trong năm tới. Chỉ 19% cho biết họ không hoạt động và hiện đang xem xét đầu tư hydro.

Tổng cộng 67% số người được hỏi nói rằng hydro đại diện cho các cơ hội tăng trưởng hấp dẫn nhất trong không gian năng lượng, xếp sau một chút so với pin lưu trữ (69%), nhưng trước hiệu quả năng lượng (58%) và điện khí hóa (56%).


Hơn 80% công ty năng lượng đang đầu tư hoặc xem xét gia nhập thị trường hydro (ảnh minh họa)

Trong một khảo sát đối với các phóng viên về những miêu tả tốt nhất về hydro: gần 30% được chọn “hydro xanh đáng để chờ đợi”; khoảng một nửa đã chọn “hydro xanh chỉ đơn giản là cầu nối cho sự chuyển dịch lâu dài sang hydro xanh”, và khoảng 20% đồng ý với “công nghệ hydro xanh sẽ tồn tại ở đây”.

Cuộc khảo sát cũng cho thấy những nhà đầu tư cho rằng những thách thức lớn nhất đối với thị trường hydro là việc cung cấp và lưu trữ H2, thiếu cơ sở hạ tầng và những lo ngại về an toàn.

Nhìn chung, các nhà đầu tư ít lo lắng hơn về sự phức tạp của việc phân phối hydro hoặc sự không chắc chắn của đường cong chi phí, cho thấy rằng họ nghĩ rằng cơ sở hạ tầng khí hóa thạch và khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) hiện có cung cấp “cơ sở kỹ thuật để phân phối hydro” và họ tin tưởng rằng hydro màu xanh lá cây hoặc hydro màu xanh lam sẽ sớm cạnh tranh về chi phí, báo cáo giải thích.

Tuy nhiên, đi sâu hơn vào các số liệu thống kê, Công ty luật Transatlantic phát hiện ra rằng trong khi chỉ 41% giám đốc điều hành công ty năng lượng cảm thấy rằng việc phân phối hydro là quá phức tạp, 74% các nhà đầu tư đã làm như vậy. Tương tự, 56% nhà đầu tư lo lắng về sự không chắc chắn của đường cong chi phí, so với chỉ 21% giám đốc điều hành năng lượng.

“Tại sao lại có sự chênh lệch?” – báo cáo đưa ra câu hỏi và lý giải: “Có thể các nhà đầu tư thiếu nhiệt tình với công nghệ mới nổi này ít nhất một phần là do sự khan hiếm của các công ty thuần túy (quy mô) hoặc các cơ chế đầu tư chỉ tập trung vào tài nguyên. Các công ty tích cực theo đuổi phát triển hydro thường là các công ty chuyên về dầu mỏ hoặc các công ty đa dạng khác. Mặt khác, năng lượng mặt trời và gió trên đất liền được trang bị đầy đủ với các khoản đầu tư thuần túy và quỹ tập trung chặt chẽ”.

Cuộc khảo sát trực tuyến đã hỏi 170 người trả lời từ 170 công ty, bao gồm giám đốc điều hành C-suite (32%), giám đốc điều hành hoặc kinh doanh (7%) và cố vấn pháp lý nội bộ (29%) – một nhóm kết hợp được gọi là “giám đốc điều hành năng lượng”, với 29% được phân loại là “nhà đầu tư”. Phần lớn những người được hỏi đến từ Hoa Kỳ (84%), với những người đóng góp còn lại đến từ Canada (6%), Anh (4%), Ả Rập Xê-út (3%), Pháp (2%) và Bỉ (1%).

PV
https://petrotimes.vn/hon-80-cong-ty-nang-luong-dang-dau-tu-hoac-xem-xet-gia-nhap-thi-truong-hydro-636488.html

Có nên lắp đặt điện năng lượng mặt trời?

Lắp điện mặt trời hiện nay đang là xu hướng rất được quan tâm bởi những lợi ích mà nó mang lại. Vậy có nên lắp điện năng lượng mặt trời không?

Điện mặt trời là nguồn năng lượng được tạo ra bằng cách sử dụng các tấm pin mặt trời để chuyển đổi năng lượng từ bức xạ của ánh sáng mặt trời thành điện. Đây là nguồn năng lượng sạch cũng như đem lại rất nhiều giá trị cho con người, do đó hiện nay việc sử dụng điện từ nguồn điện mặt trời đang dần phổ biến trong các gia đình cũng như doanh nghiệp.

Có thể thấy trong những năm qua, điện mặt trời có tốc độ phát triển chóng mặt. Theo VEPR, tổng số hệ thống điện mặt trời áp mái trong 12 tháng (từ tháng 9/2019 đến tháng 9/2020) đã tăng tới 5 lần. Còn theo EVN, tính đến ngày 11/1/2021, tổng số dự án điện mặt trời ở Việt Nam là 101.996 với tổng công suất là 9.583 MWp. Sự phát triển này là phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Có được sự phát triển lớn mạnh ấy là bởi Việt Nam đã có nhiều chính sách, cơ chế phát triển điện mặt trời như:

Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 11/2017 về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời.
Điện mặt trời dư thừa được EVN mua lại với giá cao.
Các doanh nghiệp trong nước chung tay đầu tư, xây dựng hệ sinh thái điện mặt trời.

Tổng số hệ thống và công suất lắp hệ thống đặt điện mặt trời áp mái tính đến cuối tháng 9/2020 theo VEPG.

Vậy có nên đầu tư lắp điện mặt trời không? Nước ta được thiên nhiên ưu đãi nằm trong một số nước Đông Nam Á có dải phân bổ ánh nắng mặt trời nhiều nhất trong năm trên bản đồ bức xạ mặt trời của thế giới, do đó Việt Nam có tiềm năng rất lớn về điện năng lượng mặt trời cũng như năng lượng tái tạo nói chung.

Ưu điểm của năng lượng mặt trời
1. Tiết kiệm chi phí hóa đơn tiền điện hàng tháng

Với các hộ gia đình hay doanh nghiệp thì tiền điện hàng tháng luôn chiếm một chi phí không nhỏ. Vì vậy việc lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời sẽ giúp bạn tạo ra nguồn điện năng miễn phí cho các thiết bị của mình. Ngay cả khi bạn không sản xuất đủ 100% năng lượng mà bạn tiêu thụ thì nó cũng làm giảm đáng kể hóa đơn tiền điện và giúp bạn tiết kiệm được rất nhiều tiền.

2. Sinh lời từ đầu tư điện năng lượng mặt trời

Kinh phí để đầu tư lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời không phải là chi phí mà coi là một khoản đầu tư có lợi nhuận cao. Bạn hoàn toàn có thể thu lời từ nguồn điện năng dư thừa bằng việc bán lại cho EVN với mức giá 1.943 đồng/ kWh. Nhờ việc tiết kiệm điện và kiếm lợi nhuận từ lượng điện dư thừa, trung bình khách hàng sẽ hoàn vốn chỉ trong vòng 4 – 5 năm sau khi lắp điện năng lượng mặt trời và có thể sinh lời liên tục trên 30 năm.

Năng lượng điện mặt trời sẽ giúp tiết kiệm và bảo vệ môi trường.

3. Góp phần bảo vệ môi trường và hệ sinh thái

Quá trình tạo ra điện mặt trời không sản sinh ra khí thải. Việc sử dụng hệ thống điện năng lượng mặt trời cũng giúp giảm tải cho các nhà máy phát điện, từ đó giảm bớt tối đa lượng khí CO2 các nhà máy thải ra môi trường cũng như hiệu ứng nhà kính.

Bên cạnh đó hệ thống tấm pin năng lượng mặt trời phủ trên mái nhà sẽ giúp giảm nóng cho ngôi nhà, nhà xưởng, văn phòng, chung cư… và giảm công suất tiêu thụ điện năng của điều hòa.

Hệ thống điện năng lượng mặt trời có tuổi thọ cao, lên tới 35 năm. Do đó người sử dụng chỉ cần đầu tư 1 lần nhưng có thể dùng lâu dài. cũng như lượng rác thải ra ngoài môi trường sẽ không đáng kể nếu chia đều cho chừng ấy năm.

4. Tăng giá trị cho ngôi nhà

Các ngôi nhà hay công trình được trang bị hệ thống điện năng lượng mặt trời thực tế thường được đánh giá là có giá trị tài sản cao hơn và bán nhanh hơn so với những ngôi nhà không lắp đặt. Những ngôi nhà / công trình này sẽ được định giá và bán cao hơn từ 3-5% so với những ngôi nhà khác trong khu vực.

5. Nâng cao giá trị doanh nghiệp

Lắp đặt hệ thống điện mặt trời sẽ làm gia tăng tính bền vững và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Từ đó tạo ra hướng tích cực, nâng tầm cho doanh nghiệp đối với nhà nước cũng như góp phần tác động mạnh mẽ cho các quyết định mua hàng của người tiêu dùng, tạo thiện chí và cải thiện kết quả kinh doanh.

6. Chi phí bảo trì thấp

Chi phí bảo trì cho hệ thống điện năng lượng mặt trời thường xuyên rất thấp bởi nó rất ít khi bị hỏng. Các thiết bị lắp đặt đều là những thiết bị chính hãng có thời gian bảo hành từ 25 – 30 năm. Các thiết bị khung giá đỡ cũng ít khi bị hao mòn hoặc hư hỏng, được bảo trì từ 5-10 năm. Chỉ cần được vệ sinh sạch sẽ thì các thiết bị này sẽ lâu hỏng hóc hơn và có thể sử dụng với thời gian dài.

7. Lắp đặt dễ dàng và nhanh chóng

Hệ thống lắp đặt điện năng lượng mặt trời khá gọn và nhẹ, không cần kết nối với các thiết bị kết nối dây dẫn điện rườm rà, có thể lắp đặt rất dễ dàng, nhanh chóng không mất nhiều thời gian và không cần thay đổi thiết kế điện.

8. Mang lại những lợi ích xã hội khác

Khi lắp hệ thống điện năng lượng mặt trời có nghĩa là các hộ gia đình hay doanh nghiệp đã có thể tự chủ được một lượng điện nhất định phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, làm việc. Điều này sẽ giúp lượng điện ở lưới điện quốc gia không phát sinh thêm và có thể duy trì ở mức cung cấp ổn định. Nhà nước không chỉ tiết kiệm được các khoản đầu tư cho nhà máy điện, tăng thêm ngân sách cho các chính sách khác mà còn tiết kiệm cả thời gian và nhân lực.

Bên cạnh đó, việc đầu tư lắp điện mặt trời trên mái nhà ở những nơi vùng sâu vùng xa, hải đảo… cũng đem lại hiệu quả tốt bởi nơi đây đường dây điện thường không thể vươn tới. Có điện sẽ giúp nâng cao đời sống cho người dân khu vực này cũng như tạo cơ sở để phát triển hạ tầng kinh tế.

Nhược điểm của năng lượng mặt trời
1. Chi phí

Chi phí ban đầu để mua một hệ thống năng lượng mặt trời là khá cao. Điều này bao gồm trả tiền cho các tấm pin mặt trời, biến tần, pin, hệ thống dây điện và lắp đặt. Tuy nhiên, các công nghệ năng lượng mặt trời không ngừng phát triển, vì vậy có thể an toàn khi cho rằng giá sẽ giảm trong tương lai.

2. Phụ thuộc thời tiết

Mặc dù năng lượng mặt trời vẫn có thể được thu thập trong những ngày nhiều mây và mưa, nhưng hiệu quả của hệ mặt trời giảm xuống. Các tấm pin mặt trời phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời để thu thập hiệu quả năng lượng mặt trời. Do đó, một vài ngày nhiều mây, mưa có thể có ảnh hưởng rõ rệt đến hệ thống năng lượng. Bạn cũng nên tính đến việc năng lượng mặt trời không thể được thu thập trong đêm. Mặt khác, nếu bạn cũng yêu cầu giải pháp làm nóng nước của bạn để làm việc vào ban đêm hoặc trong thời gian mùa đông, các tấm nhiệt động là một lựa chọn thay thế để xem xét.

3. Lưu trữ năng lượng mặt trời là tốn kém

Năng lượng mặt trời phải được sử dụng ngay lập tức, hoặc nó có thể được lưu trữ trong pin lớn. Những pin này, được sử dụng trong các hệ thống năng lượng mặt trời ngoài lưới, có thể được sạc vào ban ngày để năng lượng được sử dụng vào ban đêm. Đây là một giải pháp tốt để sử dụng năng lượng mặt trời cả ngày nhưng nó cũng khá tốn kém. Trong hầu hết các trường hợp, sẽ thông minh hơn khi chỉ sử dụng năng lượng mặt trời vào ban ngày và lấy năng lượng từ lưới vào ban đêm (bạn chỉ có thể làm điều này nếu hệ thống của bạn được kết nối với lưới). May mắn thay, nhu cầu năng lượng của bạn thường cao hơn trong ngày để bạn có thể đáp ứng hầu hết nhu cầu năng lượng mặt trời.

4. Sử dụng nhiều không gian

Bạn muốn sản xuất càng nhiều điện, bạn càng cần nhiều tấm pin mặt trời, vì bạn muốn thu thập càng nhiều ánh sáng mặt trời càng tốt. Các tấm pin mặt trời đòi hỏi nhiều không gian và một số mái nhà không đủ lớn để phù hợp với số lượng tấm pin mặt trời mà bạn muốn có. Một cách khác là cài đặt một số tấm trong sân của bạn nhưng chúng cần có quyền truy cập vào ánh sáng mặt trời. Nếu bạn không có không gian cho tất cả các bảng mà bạn muốn, bạn có thể chọn cài đặt ít hơn để vẫn đáp ứng một số nhu cầu năng lượng của bạn.

5. Vẫn gây ô nhiễm môi trường, dù rất ít

Mặc dù ô nhiễm liên quan đến hệ thống năng lượng mặt trời ít hơn nhiều so với các nguồn năng lượng khác, năng lượng mặt trời có thể liên quan đến ô nhiễm. Vận chuyển và lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời có liên quan đến sự phát thải khí nhà kính. Ngoài ra còn có một số vật liệu độc hại và các sản phẩm độc hại được sử dụng trong quá trình sản xuất các hệ thống quang điện mặt trời, có thể gián tiếp ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên, ô nhiễm năng lượng mặt trời ít hơn nhiều so với các nguồn năng lượng thay thế khác.

6. Sử dụng nhiều thành phần đắt tiền và quý hiếm

Việc sản xuất các tấm pin mặt trời màng mỏng đòi hỏi phải sử dụng cadmium telluride (CdTe) hoặc gallium selenide indi (CIGS) – những chất rất quý hiếm và đắt tiền, điều này dẫn đến sự gia tăng chi phí.

7. Mật độ năng lượng thấp

Một trong những thông số quan trọng của nguồn điện mặt trời là mật độ công suất trung bình, được đo bằng W/m2 và được mô tả bằng lượng điện năng có thể thu được từ một đơn vị diện tích nguồn năng lượng. Chỉ số này đối với điện mặt trời là 170 W/m2 – nhiều hơn các nguồn năng lượng tái tạo khác, nhưng thấp hơn dầu, khí, than và điện hạt nhân. Vì lý do này, để tạo ra 1kW điện từ nhiệt năng mặt trời đòi hỏi một diện tích khá lớn của các tấm pin mặt trời.

Ai nên đầu tư lắp đặt điện năng lượng mặt trời 2021?

Hộ gia đình: Nhu cầu chính là để cung cấp điện sử dụng trong nhà và chỉ bán lượng điện thừa cho EVN. Hóa đơn điện mỗi tháng từ 1 triệu đồng trở lên. Lắp điện mặt trời sẽ giúp hộ gia đình giảm tiền điện mỗi tháng, đặc biệt là điện khung giá cao và có thêm thu nhập từ khoản điện mặt trời thừa bán đi.
Doanh nghiệp, nhà xưởng, trung tâm thương mại, văn phòng: Nhu cầu sử dụng điện nhiều vào ban ngày thì lắp điện mặt trời. Lắp hệ thống này sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí tiền điện sản xuất, kinh doanh, làm việc, đặc biệt là vào giờ cao điểm.
Biểu giá mua bán điện mặt trời trên mái nhà năm 2021: (Dự kiến)

Ngọc Mai (t/h)
https://vietq.vn/co-nen-lap-dat-dien-nang-luong-mat-troi-d193796.html

Điện than gặp khó, điện khí lên ngôi

Tài chính cho nhiệt điện than đang trở nên eo hẹp khi nhiều tổ chức tài chính nói không với nguồn điện này. Trong khi điện gió, điện mặt trời vẫn còn những nhược điểm, thì hệ thống điện Việt Nam giai đoạn tới sẽ phải dựa vào một trụ cột khác: nhiệt điện khí.

Khép cửa với nhiệt điện than

Trong phiên họp với Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào 21/9 vừa qua, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cho biết Trung Quốc sẽ không xây dựng các dự án nhiệt điện than mới ở nước ngoài nhằm thúc đẩy nỗ lực đối phó với biến đổi khí hậu. Động thái mới này được cho là có thể hạn chế đáng kể việc cung cấp tài chính cho các nhà máy nhiệt điện than trên thế giới.

Ngay sau khi tuyên bố này được đưa ra, một chuyên gia tài chính quốc tế đang làm việc ở Thái Lan kể rằng sau phát biểu của ông Tập Cận Bình, các ngân hàng Trung Quốc nói luôn sẽ không tài trợ vốn cho nhiệt điện than nữa.

Điện than gặp khó, điện khí lên ngôi.

Chuyện thu xếp vốn cho các dự án điện thực ra đã khó từ năm 2016. Nếu để ý sẽ thấy gần đây Tập đoàn Điện lực Việt Nam mới thu xếp vốn được thêm cho nhiệt điện Quảng Trạch 1, song đến nay mới gọi là chọn xong nhà thầu EPC, và nhà máy này vay vốn trong nước của Vietcombank.

Còn lại từ 2017 đến giờ không có nhà máy nhiệt điện lớn nào được triển khai. Có nhiều lý do dẫn đến việc này nhưng lý do chính là không vay được vốn ngoại”, vị này chia sẻ từ kinh nghiệm thu xếp vốn mà bản thân tích lũy được.

Từ năm 2016 trở đi, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã tuyên bố không hỗ trợ vốn cho điện than theo công nghệ siêu tới hạn. Ngay sau đó một số ngân hàng quốc tế như Pháp, Hà Lan cũng nói không với điện than, chỉ còn ngân hàng Trung Quốc vẫn tài trợ vì Trung Quốc không nằm trong OECD nên không bị chi phối bởi tổ chức này.

Tuy nhiên, đến nay với tuyên bố của ông Tập Cận Bình, “cửa” thu xếp vốn này cũng khép dần lại. Hàng loạt dự án điện than sẽ đối mặt khả năng thiếu vốn. Điều “an ủi” là các dự án nhiệt điện than trong Quy hoạch điện 8 đều là các dự án được chuyển tiếp từ quy hoạch điện 7 và 7 điều chỉnh sang, nhiều dự án trong số đó đã có kế hoạch tài chính rõ ràng nên ít bị ảnh hưởng.

Nhưng những diễn biến trên thị trường tài chính thế giới cho thấy, tương lai vốn cho nhiệt điện than sẽ thực sự trở nên bế tắc. Trong khi đó, yêu cầu có được một hệ thống điện chạy ổn định, kiểm soát được, chủ động được là điều bất cứ quốc gia nào cũng phải lưu tâm. Do đó, tìm được nguồn điện thay thế được sự thiếu hụt của nhiệt điện than trong tương lai phải được tính đến khi điện gió, mặt trời vẫn bị hạn chế về khả năng phát điện ổn định.

Trong bối cảnh đó, hàng loạt “đại gia” trong nước cũng đang dành sự quan tâm đặc biệt cho điện khí. Ngày 24/10, dự án Nhà máy điện khí LNG Quảng Ninh đã được khởi động. Đây là dự án điện đầu tiên sử dụng khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu tại miền Bắc, có công suất lên tới 1.500MW, kinh phí đầu tư gần 48.000 tỷ đồng của tổ hợp nhà đầu tư PV Power – Colavi – Tokyo Gas – Marubeni.

Trước đó, Trung tâm điện khí LNG Hải Lăng (Quảng Trị) giai đoạn I (công suất 1.500 MW) với tổng vốn đầu tư gần 54.000 tỷ đồng cũng đã được tỉnh Quảng Trị cấp Quyết định chủ trương đầu tư. Là nhà đầu tư năng lượng tái tạo lớn hàng đầu Việt Nam với 1.294MW, nhiều năm qua tập đoàn Trung Nam vẫn đang theo đuổi dự án nhiệt điện khí ở Cà Ná – nơi phù hợp làm cảng nước sâu vận chuyển khí.

Thực tế, khi xây dựng quy hoạch điện 8, Bộ Công Thương đã tính toán gia tăng đáng kể tỷ trọng điện khí trong tổng công suất nguồn điện. Theo đó, đến năm 2025 công suất lắp đặt nhiệt điện khí (tính cả LNG) là 14.117 MW, chiếm tỷ lệ 13,4-13,7%; công suất nhiệt điện khí đến năm 2030 tăng rất mạnh, tăng lên đến 27.471-32.271 MW, chiếm tỷ lệ 21,1-22,4% tổng công suất. Đến năm 2045, công suất nhiệt điện khí tiếp tục tăng lên, chiếm tỷ lệ 23,5-26,9%. Đây là hướng đi phù hợp với xu hướng chung của thế giới, góp phần gia tăng nguồn điện thân thiện với môi trường hơn trong hệ thống điện Việt Nam.

Lo nguồn cung khí

TS Ngô Đức Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng cho rằng hiện nay các nước không làm nhiệt điện than, mà làm nhiệt điện khí – khí hóa lỏng LNG, nguồn điện này ổn định và ưu điểm hơn nhiệt điện than rất nhiều. Nhưng việc nhập khí cho các nhà máy điện sẽ gặp không ít thách thức và phụ thuộc phần lớn vào thị trường quốc tế.

TS Ngô Đức Lâm không khỏi tiếc nuối khi Việt Nam để “lỡ thời cơ nhập khí giá rẻ”. Thời điểm năm 2015, giá khí hóa lỏng đắt gấp rưỡi giá than, cho nên nhiều nước không nhập. Nhưng từ 2016 đến nay, nhất là từ khi Covid-19 xảy ra, Mỹ khai thác được nhiều nguồn khí với mức giá cạnh tranh. Nhu cầu khí trên thị trường thế giới cũng suy giảm do Covid-19 nên khiến thừa khí và giá giảm nhiều.

“Lúc đó, Việt Nam lại không nghiên cứu việc nhập khí trong khi Trung Quốc nhập rất nhiều. Sắp tới, Việt Nam bắt đầu tính chuyện nhập khí thay cho các nhà máy điện than thì cũng sẽ gặp không ít khó khăn, thậm chí phải mua lại từ các nước khác”, ông phân tích.

Theo tính toán của Viện Năng lượng trên cơ sở cập nhật tiến độ khai thác của các mỏ khí từ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vào tháng 8/2021, tổng khả năng cung cấp khí trong nước (khí hydro carbon) cho sản xuất điện trong phương án cung cơ sở sẽ tăng từ 6,5 tỷ m3/năm vào năm 2020 lên khoảng 8,6 tỷ m3/năm vào năm 2025 và hơn 10,6 tỷ m3/năm.

Sản lượng khí cung cấp cho điện tại khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ sẽ giảm dần. Giai đoạn 2015-2045, nguồn cung khí cho điện chỉ còn nguồn khí miền Trung (mỏ Cá Voi Xanh và Báo Vàng) và nguồn khí Lô B, tổng cung khí cho điện giai đoạn này duy trì là 7,7 tỷ m3/năm.

Khu vực Đông Nam Bộ cần phải bù khí cho các hộ tiêu thụ từ LNG nhập khẩu từ năm 2021. Khu vực Tây Nam Bộ, hiện khí PM3CAA đã suy giảm, phải mua khí từ Malaysia để bù khí cho khu vực Cà Mau. Khí Lô B chỉ đủ cấp cho Trung tâm điện lực Ô Môn (3800 MW), phần khí của các mỏ nhỏ có sản lượng và số năm khai thác thấp, chỉ có thể đảm bảo cho phụ tải ngoài điện hoặc xem xét bù khí cho nhiệt điện Cà Mau (giảm mua khí từ Malaysia), không đủ để cấp thêm cho nhiệt điện Kiên Giang (đã có trong QHĐ VII ĐC).

Khu vực miền Trung, khí Cá Voi Xanh chỉ đủ cấp cho 5 nhà máy đã được quy hoạch tại Dung Quất và Chu Lai với tổng công suất 5×750 MW, khí Báo Vàng đủ cấp cho NĐ khí Quảng Trị (340 MW) và 1 số phụ tải ngoài điện. “Dù sao, việc nhập khí trên thị trường quốc tế hiện nay vẫn thuận lợi hơn nhập than. Khí trong nước cũng vẫn còn khả năng khai thác thêm. Do đó, tương lai là nhiệt điện than sẽ giảm và thay vào đó là nhiệt điện khí”, ông Ngô Đức Lâm chia sẻ.

Theo Tạp chí Đầu tư Tài chính
https://petrotimes.vn/dien-than-gap-kho-dien-khi-len-ngoi-633658.html

Phương pháp đặc biệt biến rác nhựa sinh học thành phân bón

Các nhà khoa học tại Nhật Bản vừa phát triển thành công phương pháp giúp chuyển nhựa sinh học thành phân bón, góp phần thúc đẩy việc tái sử dụng rác thải nhựa trong tương lai.

Các loại rác nhựa sinh học sử dụng một lần đang gây ô nhiễm tại nhiều nơi trên thế giới. Số liệu thống kê cho thấy, hiện mới chỉ có 14% rác nhựa thực sự được tái chế. Nhiều chuyên gia cho rằng, một trong những giải pháp nhằm hạn chế ô nhiễm từ nhựa là tái chế chúng để sử dụng lại nhiều lần.

Trước thực trạng này, nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học tại Nhật Bản đã phát triển phương pháp chuyển nhựa sinh học thành phân bón. Nhưng họ nói rằng, phát hiện của họ thậm chí còn có ý nghĩa rộng lớn hơn đối với việc tái sử dụng rác nhựa trong tương lai. Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí chuyên ngành Green Chemistry, tập trung vào nhựa poly (isosorbide carbonate – PIC) có nguồn gốc sinh học.

“Chúng tôi rất lạc quan và tin rằng công trình của chúng tôi là cột mốc quan trọng đối với việc phát triển các vật liệu polyme bền vững và có thể tái chế trong tương lai gần. Điều này đồng nghĩa với kỷ nguyên của ‘bánh mì làm từ nhựa” cũng sắp đến gần”, Daisuke Aoki, tác giả chính của nghiên cứu cho hay.

Theo các nhà khoa học, chất dẻo sinh học là chất dẻo được làm từ sinh khối đã được đề xuất như một chất thay thế bền vững hơn cho chất dẻo từ dầu mỏ. Đặc biệt, PIC được làm từ một monome (đơn vị cấu tạo nên đa phân tử) gọi là isosorbide (ISB), một sản phẩm phụ không độc của glucose. ISB có thể được biến thành phân bón thông qua một quá trình gọi là ammonolysis (trong quá trình này, amoniac được sử dụng để tách carbon kết nối các monome ISB. Điều này tạo ra urê, là một chất giàu nitơ làm ra một loại phân bón phổ biến).


Quy trình tái chế rác nhựa sinh học của các nhà khoa học Nhật Bản.

Trong quá trình thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã tìm cách hoàn thành phản ứng bằng cách sử dụng càng ít năng lượng và dung môi hữu cơ càng tốt. Đầu tiên, họ thử phản ứng trong nước 30 độ C ở áp suất khí quyển. Họ đã có thể tạo ra urê, nhưng phản ứng không hoàn thành trong vòng 24 giờ và PIC chưa bị phân hủy hoàn toàn. Tuy nhiên sau đó họ phát hiện ra rằng việc tăng nhiệt độ nước lên mức 90 độ C dẫn đến phản ứng hoàn toàn trong vòng sáu giờ đồng hồ.

“Phản ứng xảy ra mà không cần đến bất kỳ chất xúc tác nào, chứng tỏ quá trình phân giải PIC có thể dễ dàng thực hiện bằng cách sử dụng amoniac trong nước và đun nóng ở nhiệt độ cao hơn. Do đó, quá trình này vận hành đơn giản và thân thiện với môi trường nhìn từ quan điểm tái chế hóa chất”, ông Daisuke Aoki cho biết thêm.

Liên quan tới việc phát triển phương pháp nhằm biến nhựa thành phân bón, trước đó, công ty khởi nghiệp Neptune Plastic cũng phát triển loại nhựa từ vật liệu cấp thực phẩm (an toàn cho người tiêu dùng) có thể ủ trong vườn nhà. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn một số tranh luận xung quanh việc liệu nhựa sinh học có thực sự là giải pháp thân thiện với môi trường cho cuộc khủng hoảng ô nhiễm rác nhựa hay không.

Bởi có một điều chắc chắn rằng không phải lúc nào chúng cũng phân hủy sinh học nhanh như trên các quảng cáo. Một báo cáo của Liên Hợp Quốc mới đây đưa ra kết luận rằng, rác nhựa phân hủy rất chậm trong đại dương trước khi chúng có thể trở thành một giải pháp thay thế có ý nghĩa.

Các giải pháp tái chế tuần hoàn như cách mà nhóm của giáo sư Daisuke Aoki đang đề xuất sẽ giải quyết được vấn đề này. Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn những lo ngại rằng việc phát triển sinh khối cho nhựa sinh học có thể góp phần gây ra các cuộc khủng hoảng về khí hậu và đa dạng sinh học bằng cách chiếm diện tích đất có giá trị có thể được sử dụng để lưu trữ carbon hoặc môi trường sống.

Bảo Lâm
https://vietq.vn/phuong-phap-dac-biet-bien-rac-nhua-sinh-hoc-thanh-phan-bon-d193951.html

Làm thế nào để giới hạn mức tăng nhiệt ở ngưỡng 1,5°C

Vừa qua, Đại học Công nghệ Sydney (UTS) đã công bố nghiên cứu mới đối với việc phân bổ ngân sách carbon (lượng phát thải CO2 tối đa) toàn cầu lần đầu cho các lĩnh vực khó cắt giảm – 12 ngành công nghiệp vĩ mô chính của mỗi quốc gia.

Các nhà khoa học từ UTS đã tính toán ngân sách carbon liên quan đến năng lượng cho các ngành công nghiệp bao gồm ngành công nghiệp nhôm, thép, hóa chất, xe hơi và hàng không.


Các ngành công nghiệp cơ bản như luyện kim, hàng không… có mức phát thải CO2 rất lớn.

Nghiên cứu cho thấy vẫn có thể hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở ngưỡng 1,5°C và thực hiện Thỏa thuận Khí hậu Paris. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải có hành động khí hậu kịp thời bởi các ngành sử dụng nhiều năng lượng nhận được sự hậu thuẫn từ các ngành tài chính, các chính sách dài hạn và đáng tin cậy từ phía chính phủ.

Ngân sách carbon toàn cầu để giúp mức tăng nhiệt không vượt quá 1,5°C với 67% khả năng diễn ra là 400 tỷ tấn CO2 cho đến năm 2050. Ngành thép sẽ có ngân sách carbon là 19 tỷ tấn CO2 (chiếm 5,0%), ngành xi măng có 9 tỷ tấn CO2 (2,4%) và ngành công nghiệp nhôm có 6 tỷ tấn CO2 (1,6%). Ngân sách carbon lớn nhất được tính toán phân bổ cho các công trình (kiểm soát biến đổi khí hậu và điện năng) với 88 tỷ tấn CO2 (22,6%), và giao thông đường bộ với 82 tỷ tấn CO2 (21,1%).

Phó giáo sư Sven Teske, người đứng đầu nghiên cứu tại UTS cho biết: “Điều quan trọng là phải có một ngân sách carbon dựa trên cơ sở khoa học cho các ngành cụ thể để thực hiện các mục tiêu khí hậu cho tất cả các bộ phận của các ngành này. Chúng tôi nhận thấy rằng cho đến nay, các công ty điện lực có trách nhiệm lớn nhất: Họ phải cung cấp đủ năng lượng tái tạo cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng như hóa chất, thép, xi măng, nhôm và cho các loại xe điện không sử dụng xăng dầu”.

Ngân sách phát thải cho từng ngành cụ thể đó lại được chia nhỏ thành phát thải phạm vi 1, 2 và 3, giúp xác định trách nhiệm đối với lượng phát thải đó.

Cho đến nay, hệ thống này mới chỉ được áp dụng cho các công ty, chưa áp dụng một cách chi tiết cho toàn bộ lĩnh vực của các ngành công nghiệp hoặc một khu vực. Để định hướng đầu tư sao cho phù hợp với cam kết phát thải ròng bằng 0, ngành tài chính cần một mô hình tổng thể cho lộ trình giữ mức tăng nhiệt thấp hơn/không vượt quá 1,5°C. Các nhà khoa học của UTS đã phát triển một mô hình – Mô hình Khí hậu OneEarth (OECM) – để bù đắp lỗ hổng trong các đường lối khử carbon cụ thể trong lĩnh vực công nghiệp.

Mục tiêu phát thải cho một lĩnh vực cụ thể, ví dụ: lĩnh vực công nghiệp thép và lượng phát thải theo “Phạm vi” có thể được sử dụng làm tiêu chuẩn và hướng dẫn cho việc ra quyết định đầu tư. Hiện tại, có thể phát triển các lộ trình phát thải cho các phân loại ngành, sau đó được ghi lại trong một mô hình nhất quán phù hợp với mức tham vọng phát thải ròng bằng 0. Các thành viên của Liên minh Chủ sở hữu Tài sản có mức phát thải ròng bằng không được Liên Hợp Quốc hỗ trợ (tạm gọi tắt là Liên minh) đã bắt đầu sử dụng mô hình.

Mười hai lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ chính được phân tích gồm: Công nghiệp nhôm, hóa chất, xi măng, thép, dệt và đồ da, điện và khí đốt, nông nghiệp, lâm nghiệp, hàng không, công nghiệp vận tải biển, vận tải đường bộ, bất động sản và các công trình.

Günther Thallinger, Chủ tịch Liên minh Chủ sở hữu Tài sản có mức phát thải ròng bằng 0 cho biết: “Lộ trình của lĩnh vực trong Mô hình Khí hậu OneEarth có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho ngành tài chính, về việc ra quyết định đầu tư, bởi mô hình này dựa trên cách tiếp cận tích hợp toàn diện. Nó cũng cho thấy mức độ chi tiết cần có để củng cố phân tích của các nhà đầu tư. Thông tin cung cấp chi tiết về ngân sách và phạm vi từng ngành, đặc biệt là về sự kết nối và trách nhiệm”.

Là trường mô hình tương tác lớn đầu tiên gửi tín hiệu mạnh mẽ đến các cuộc đàm phán tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu và Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP UNFCCC), Liên minh chủ sở hữu tài sản có mức phát thải ròng bằng 0 đang hỗ trợ sự phát triển hơn nữa của mô hình OECM và áp dụng các phát hiện và dữ liệu mới nhất của UTS để đưa thông tin về mục tiêu của nhóm nhà đầu tư, thiết lập quy tắc và tạo lập khuôn khổ báo cáo.

Liên minh là một nhóm quốc tế gồm 60 tổ chức đầu tư cam kết chuyển đổi nguồn đầu tư trị giá khoảng 10 nghìn tỷ USD cho lộ trình phát thải ít hơn/không vượt quá hạn mức vào năm 2050.

UTS đưa ra 6 khuyến nghị cho lãnh đạo các quốc gia:

Ngừng đầu tư vào các dự án dầu khí mới; Đảm bảo loại bỏ than vào năm 2030 ở các nước thuộc tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), từ năm 2030 đến năm 2040, tất cả các khu vực cần dần loại bỏ than; Dừng sản xuất ô tô chở khách sử dụng động cơ đốt trong chạy bằng dầu vào năm 2030;

Chính phủ cần đưa ra các kế hoạch chuyển đổi phát thải ròng bằng không chi tiết; Thiết lập và thực hiện các mục tiêu đầu tư, cho vay và hỗ trợ đầu tư loại bỏ carbon phù hợp với mục tiêu giữ mức tăng nhiệt thấp hơn/không vượt quá 1,5°C;

Các công ty công bố và thực hiện chiến lược giảm thiểu tác động của khí hậu, bao gồm: thiết lập mục tiêu ngắn hạn và trung hạn, thiết lập mục tiêu và minh bạch về các hoạt động cam kết cũng như đầu tư vào năng lượng tái tạo cũng như các giải pháp khí hậu.

Tùng Dương
https://petrotimes.vn/lam-the-nao-de-gioi-han-muc-tang-nhiet-o-nguong-15-c-631674.html