Sản xuất sạch hơn: Giảm áp lực môi trường làng nghề

Không thể phủ nhận những hiệu quả của hoạt động sản xuất công nghiệp nông thôn khi tạo ra một lượng công ăn việc làm lớn cho lao động nông thôn, đóng góp cho ngân sách nhà nước cũng như thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Tuy nhiên, vấn đề tồn tại lớn nhất của hình thức sản xuất này chính là tình trạng ô nhiễm môi trường.
Story
Ảnh minh họa

Những con số quan ngại…

Số liệu của Bộ TN&MT, hiện nay trên cả nước có khoảng 4.575 làng nghề, trong đó có hơn 1.300 làng nghề truyền thống, giải quyết việc làm cho 11 triệu lao động nông thôn. Song thực tế khá phổ biến tình trạng làng nghề vi phạm pháp luật về môi trường.

Vấn đề môi trường mà các làng nghề đang phải đối mặt không chỉ giới hạn ở trong phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng đến người dân ở vùng lân cận. Chất lượng môi trường tại hầu hết các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn khiến người lao động phải tiếp xúc với các nguy cơ gây hại cho sức khỏe, trong đó 95% là từ bụi; 85,9% từ nhiệt và 59,6% từ hóa chất. Kết quả khảo sát 52 làng nghề cho thấy, 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng ở cả 3 dạng; 27% ô nhiễm vừa và 27% ô nhiễm nhẹ”.

Đơn cử như Hà Nội là nơi tập trung đông đảo các làng nghề truyền thống. Làng nghề thủ công ở Hà Nội có rất nhiều nguồn gốc khác nhau, những làng nghề có sẵn chiếm phần nhỏ trong tổng số làng nghề đa phần đều được di dời từ nơi khác về… Mệnh danh là “đất trăm nghề”, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Hà Nội nhiều năm qua đã trở thành một trong những vấn đề nổi cộm khi với 272 làng nghề, không khí tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm thường bị ô nhiễm do đốt nhiên liệu, do sự phân hủy yếm khí các chất hữu cơ có trong nước thải, chất thải rắn như CO2, NH3, CH4. Không khí tại các làng nghề mây tre đan, làm nón, tăm hương… bị ô nhiễm do khâu sấy chống mốc dùng diêm sinh gây phát sinh một lượng lớn khí SO2. Không khí tại các làng nghề dệt nhuộm bị ô nhiễm do bụi bông, bụi than, hơi hóa chất, xút thải… Không những gây ảnh hưởng đến môi trường, ô nhiễm làng nghề còn khiến cho tỷ lệ mắc bệnh tại các làng nghề có xu hướng tăng cao, đặc biệt là các nhóm người trong độ tuổi lao động.

Thống kê của Sở Công Thương Hà Nội, hiện 70% số thiết bị được sử dụng tại các làng nghề là máy móc, trang thiết bị đơn giản. Số máy móc hiện đại chỉ tập trung tại một số làng với những ngành nghề như dệt, may, gốm sứ. Bên cạnh đó, hệ thống xử lý nước thải tại các khu vực làng nghề nhìn chung vẫn chưa được quan tâm đầu tư xây dựng. Do vậy, ô nhiễm môi trường làng nghề đang trở thành tình trạng chung, là vấn đề nổi cộm của hầu hết các làng nghề ngoại thành Hà Nội và ngày càng có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sống cũng như phát triển sản xuất.

Đến những tín hiệu vui

Theo Trung tâm Tiết kiệm năng lượng Hà Nội, ô nhiễm môi trường tại các làng nghề hoàn toàn có thể khắc phục được nếu áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn. Ứng dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn nhằm giảm ô nhiễm và tăng hiệu quả kinh tế tại các khu vực làng nghề là một trong những trọng tâm của hoạt động sản xuất sạch hơn đang được triển khai trên địa bàn.

Điển hình như làng gốm Bát Tràng, trước đây, mỗi ngày, làng nghề tiêu thụ khoảng 800 tấn than và thải vào môi trường các loại khí độc hại: CO, SO2, H2S, bụi silic, chất thải rắn… Để giải quyết bài toán phát triển bền vững, các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất làng nghề Bát Tràng đã tích cực tham gia chuyển đổi công nghệ sản xuất. 6 năm trước đây, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Quỹ Môi trường toàn cầu của UNDP triển khai dự án “Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” tại làng nghề. Dự án đã giúp các doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ nung gốm từ các lò than, lò gas truyền thống sang lò gas hiện đại.

Đến thời điểm này, Bát Tràng đã có trên 400 hộ sử dụng lò nung gốm bằng khí gas hóa lỏng, góp phần làm giảm phần lớn lượng phế phẩm so với lò than và hạn chế ô nhiễm ra môi trường xung quanh. Thành công của dự án này ở làng nghề Bát Tràng đã có sức lan tỏa rất lớn. Các doanh nghiệp tham gia dự án thành công với việc chuyển đổi sang mô hình tiết kiệm năng lượng đã khích lệ doanh nghiệp và các hộ sản xuất khác trong làng nghề học tập và làm theo. Đến nay, cả làng nghề Bát Tràng đã có 131 doanh nghiệp và hộ sản xuất áp dụng công nghệ lò gas cải tiến. Đặc biệt, nhờ có hơn 90% các hộ sản xuất gốm sứ chuyển sang sử dụng công nghệ lò gas cải tiến đã giúp giảm tiêu hao năng lượng, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường của công nghệ sản xuất trước kia, giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 lao động. Doanh thu của xã Bát Tràng hiện nay đạt 400 tỷ đồng/năm, bình quân 22 triệu đồng/người, lợi nhuận tăng gấp 2-3 lần so với công nghệ cũ.

Một số doanh nghiệp mây tre đan ở làng nghề Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ) đã áp dụng sản xuất sạch hơn, đem lại nhiều lợi ích từ kinh tế đến môi trường. Khi chưa áp dụng sản xuất sạch hơn, doanh nghiệp bị hao hụt tới 10% mây tươi ở khâu luộc, tẩm, thu mua. Hóa chất tổn thất nhiều do hệ thống luộc và tẩm mây làm bằng xi măng không có gia nhiệt; cũng ở khâu này, thêm 10% nguyên liệu tiếp tục bị hao hụt. Khi thực hiện sản xuất sạch hơn, kết quả mang lại rất khả quan, lượng nguyên liệu hao hụt giảm mạnh mà doanh nghiệp không mất nhiều chi phí, đặc biệt, giảm phát thải ra môi trường.

 Nguồn: monre.gov.vn

Hà Nội: Đẩy nhanh tiến độ khởi công 6 dự án xử lý nước thải

UBND TP. Hà Nội vừa yêu cầu các chủ đầu tư tập trung nguồn nhân lực hoàn thành các thủ tục để khởi công tất cả 6 dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các khu, cụm công nghiệp còn lại trong năm 2014.
Theo đó, UBND TP yêu các Sở, ngành liên quan tập trung cán bộ có năng lực và trách nhiệm để thực hiện nghiêm thời hạn giải quyết thủ tục hành chính trong 7 ngày làm việc theo đúng quy định. UBND thành phố sẽ có biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh đối với các đơn vị, cá nhân không được thực hiện đúng nhiệm vụ, chức trách được giao, để công việc chậm trễ, không đảm bảo tiến độ thành phố đề ra.

Cụ thể các dự án cần khởi công xây dựng, trong tháng 11/2014, khởi công dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các Cụm công nghiệp Phú Thị do UBND huyện Gia Lâm làm chủ đầu tư; Cụm công nghiệp Bình Phú do UBND huyện Thạch Thất làm chủ đầu tư, Cụm công nghiệp Lại Yên do UBND huyện Hoài Đức làm chủ đầu tư.

Trung tuần tháng 12/2014 khởi công 2 dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung còn lại, cụ thể Cụm công nghiệp Hapro do Tổng công ty Thương mại Hà Nội làm chủ đầu tư, Cụm công nghiệp Thanh Oai do Công ty COMA 18 làm chủ đầu tư.

Theo vea.gov.vn

Jetstar Pacific nhận máy bay Airbus “xanh” đầu tiên

Ngày 5-11, tại sân bay Tân Sơn Nhất (TP. HCM), hãng hàng không giá rẻ Jetstar Pacific nhận một máy bay Airbus A320 mới thế hệ Sharklet và sẽ được đưa vào khai thác ngay ngày mai 6-11.

Máy bay Airbus A320 mới, thế hệ Sharklet của Jetstar Pacific – Ảnh: LÊ NAM

Sharklet là dòng máy bay A320 thế hệ mới, được thiết kế với “đầu cánh cong” giúp cải thiện hiệu suất khí động học, tiết kiệm nhiên liệu 3,5% và giảm lượng khí thải CO2 khoảng 700 tấn mỗi năm.

Ông Lê Hồng Hà, Tổng Giám đốc Jetstar Pacific, cho biết đến nay hãng đã có tổng cộng 8 máy bay và sẽ tăng đội bay lên 10 chiếc trước Tết Nguyên đán 2015.

Ngày 10-12 tới, Jetstar Pacific sẽ tiếp tục cung cấp dịch vụ hàng không giá rẻ trên đường bay giữa TP.HCM – Bangkok (Thái Lan). Mới đây, Jetstar Pacific cũng đã khai trương hai đường bay Hà Nội – Vinh và TP.HCM – Singapore.

Theo tuoitre.vn

TP.HCM sẽ có 13 cụm công nghiệp vào năm 2020

Theo quy hoạch, đến 2020 TP.HCM sẽ có 13 cụm với diện tích 763,91ha và đến năm 2030 là 15 cụm với tổng diện tích là 919,3ha.

Ảnh minh họa: cpv.org.vn

 Ảnh minh họa: cpv.org.vn

Cổng thông tin điện tử TP.HCM cho biết, ngày 4/11, lãnh đạo TP.HCM vừa có cuộc họp với các sở, ngành về quy hoạch phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn TP đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Theo báo cáo của Sở Công thương TP.HCM, hiện trên địa bàn thành phố có khoảng 86.000 cơ sở sản xuất công nghiệp, 12 khu công nghiệp (KCN), 3 khu chế xuất (KCX), 1 khu công nghệ cao, 1 công viên phần mềm với tổng diện tích 3.521,37ha.

Số cụm công nghiệp trên địa bàn tính đến tháng 9/2013 là 27 với diện tích 1.476ha. Trong đó, có 16 cụm có doanh nghiệp đang hoạt động hiện hữu với diện tích 724 ha, thu hút khoảng 600 dự án đầu tư, giải quyết việc làm cho hơn 32 ngàn lao động; 11 cụm chưa có doanh nghiệp hoạt động với diện tích khoảng 752ha; 4 cụm có đơn vị kinh doanh hạ tầng có diện tích mỗi cụm hơn 75ha với tổng diện tích 346ha và có 2 cụm có hệ thống xử lý nước thải.

Lãnh đạo TP.HCM cho biết, hiện nay, nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất vẫn nằm xen cài trong khu dân cư nên không đồng bộ, manh mún trong đầu tư cơ sở hạ tầng và đặc biệt là nguy cơ cháy nổ cao, vì vậy việc phát triển cụm công nghiệp là cấp thiết để di dời các doanh nghiệp này ra khỏi khu dân cư.

Theo đó, trong quy hoạch cụm công nghiệp, đến 2020 TP.HCM sẽ có 13 cụm công nghiệp với diện tích 763,91ha; đến năm 2030 sẽ tăng lên 15 cụm với tổng diện tích là 919,3ha.

Tại cuộc họp, lãnh đạo TP.HCM yêu cầu các sở, ngành rà soát tình hình hoạt động của từng cụm công nghiệp như ngành nghề, giá trị sản xuất… từ đó có quy hoạch phù hợp theo từng nhóm và ngành nghề đặc thù… đồng thời, kiến nghị xây nhà lưu trú trong cụm công nghiệp.

Theo Kiều Châu/BizLIVE.vn

Liên hợp quốc đề nghị chia sẻ khó khăn với các nước không có biển

Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon tại Hội nghị. (Nguồn: AFP/ TTXVN)

Theo Ban Thư ký Liên hợp quốc, ngày 3/11, tại thủ đô Vienna của Áo đã khai mạc Hội nghị các quốc gia đang phát triển vừa nhỏ bé về diện tích, lại không có biển.

Phóng viên TTXVN tại Liên hợp quốc dẫn phát biểu trong phiên khai mạc của Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon chia sẻ những khó khăn, trở ngại mà các nước này đang đối mặt, trong đó có việc rất bất lợi trong việc tham gia thị trường hàng hóa toàn cầu.

Theo ông Ban Ki-moon, các quốc gia đang phát triển không tiếp giáp với biển thường phải trả những chi phí rất lớn cho việc vận chuyển bằng đường bộ để quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ các nước khác, vì thế đương nhiên bị đội giá hàng nhập khẩu, trong khi hàng xuất khẩu của họ lại bị giảm giá do những chi phí này, và dường như kim ngạch xuất khẩu của nhóm nước này đều không cao.

Theo ông Ban Ki-moon, để khắc phục những trở ngại trên, các quốc gia không có biển cần tăng cường hợp tác với các nước khác trong khu vực, chủ động phát triển quan hệ kinh tế, thương mại và thiết lập một hệ thống giao thông năng động, nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc vận chuyển hàng hóa, và nên tập trung phát triển lĩnh vực dịch vụ.

Ông cho rằng nếu có sự hợp tác tích cực như vậy, và sự chia sẻ khó khăn giữa các quốc gia trong từng khu vực, các nước không có biển sẽ giảm bớt được đáng kể những thiệt hại về kinh tế, phục vụ công cuộc phát triển nhờ giảm bớt nỗi ám ảnh về việc không có đường ra biển./.

Theo Vietnamplus.vn

Vì sao tư nhân ngại đầu tư vào ngành điện

Dù thu hút được nhiều sự quan tâm, nhưng thực tế, ngành điện vẫn có không nhiều nhà đầu tư tư nhân.

Nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) về nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho hay, tới 90% tổng nguồn điện hiện có tại Việt Nam được đầu tư bởi các doanh nghiệp nhà nước.

Nhiều ràng buộc cần được tháo gỡ để tư nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào đầu tư ngành điện (Ảnh: evnspc.vn)

 Nhiều ràng buộc cần được tháo gỡ để tư nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào đầu tư ngành điện (Ảnh: evnspc.vn)

Trên thực tế, nguồn tài chính của EVN để thực hiện đầu tư như mong đợi là không đủ. Còn ngân sách nhà nước và nguồn ODA cho ngành điện cũng bị hạn chế nhất định. Dĩ nhiên, việc không có đầu tư thích đáng sẽ tạo ra các thách thức về chất lượng cung cấp điện, khả năng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phụ tải. Bởi vậy, việc thu hút đầu tư từ khối tư nhân được các chuyên gia WB xem là một trong những giải pháp.

Việc thúc đẩy sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân vào xây nhà máy điện, đặc biệt là những nhà máy điện có quy mô lớn cũng đòi hỏi có môi trường đầu tư thuận lợi hơn. Theo tính toán, nếu trên 70% vốn đầu tư vào các nguồn điện mới hiện nay đến từ khu vực tư nhân thông qua các dự án IPP và các thoả thuận hình thức tham gia khác, thì quá trình phê duyệt phải đẩy nhanh hơn so với thực tế đã và đang diễn ra. Con số được nêu lên là từ 3-6 tháng, so với thực tế phê duyệt các dự án IPP, đặc biệt là các dự án BOT hiện nay lên tới 7 năm, thì đang có khoảng cách quá xa.

Ngoài các dự án điện BOT đã đi vào hoạt động như Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3 do các nhà đầu tư Singapore, Nhật Bản đầu tư, thì một số dự án đang được triển khai xây dựng như Mông Dương 2 của AES. Các công ty như Tata, SembCorp, SN Power, China Light & Power… cũng đang tìm kiếm cơ hội đầu tư trong ngành điện của Việt Nam. Nhiều nhà đầu tư quốc tế đang quan tâm tới các dự án điện tại Việt Nam đã có đầu tư vào ngành điện ở châu Á.

Trong nước cũng có những nhà đầu tư tư nhân như Tập đoàn Tân Tạo tại Dự án Nhiệt điện Kiên Lương 1. Trên thực tế, đã có nhiều nhà đầu tư trong nước tham gia mua cổ phần của các nhà máy điện thuộc EVN được đưa ra cổ phần hóa thời gian qua như Công ty Cơ điện lạnh REE.

“Kinh nghiệm tại châu Á cho thấy, khả năng của các nhà đầu tư trong nước có thể tăng lên nhanh chóng, nếu có môi trường khuyến khích phù hợp. Nguồn tài chính có thể đạt được thông qua các ngân hàng xuất nhập khẩu khi sử dụng nhà máy và thiết bị của các nước đó. Dù các nguồn tài chính đó có thể đắt và dẫn tới hạn chế về nhà cung cấp, nhưng đó là nguồn tài chính khả thi nhất cho các dự án điện than”, nghiên cứu của WB nêu rõ.

Tuy nhiên, để tư nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào đầu tư ngành điện, cũng có nhiều ràng buộc cần được tháo gỡ. Các chuyên gia WB đã chia những ràng buộc này thành 4 nhóm chính là thị trường điện, điều kiện cho dự án điện, thị trường vốn và hoạt động của Bộ Công Thương.

Các chuyên gia WB cho rằng: “Hiện thị trường điện với giá điện bán lẻ thấp hơn chi phí và các nhà đầu tư tư nhân không tự tin vào khả năng đàm phán được mức giá hợp lý cho các dự án phát điện. Các nhà đầu tư cũng nghi ngờ vào tính công bằng của thị trường điện với các cấu trúc hợp đồng mua bán điện khác nhau áp dụng cho các IPP, các dự án của EVN thông qua Genco và thủy điện đa mục tiêu. Mối lo ngại còn lớn hơn nữa khi hiện nay Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0) vẫn là đơn vị cấp dưới của EVN, mặc dù đã có đề xuất tách A0 độc lập khỏi EVN”.

Trên thực tế, các dự án điện cần phải huy động thêm nguồn tài chính từ cả thị trường trong nước và quốc tế. Vì vậy, các điều kiện và điều khoản được Chính phủ Việt Nam chấp nhận liên quan đến tài chính sẽ đóng vai trò cốt yếu trong việc vay tiền từ ngân hàng. Đây cũng là thách thức mà các nhà đầu tư BOT gặp phải thời gian qua, khi các tổ chức tài chính, ngân hàng quốc tế đòi hỏi rất nhiều cam kết và bảo lãnh từ phía Chính phủ Việt Nam, khiến quá trình đàm phán mất rất nhiều thời gian.

Theo Thanh Hương/Báo Đầu Tư