Phát triển chất xúc tác năng lượng mặt trời thu giữ khí metan tạo ra hydro và carbon tinh khiết

Khí metan có hiệu ứng nhà kính tệ hơn 80 lần so với carbon dioxide trong khoảng thời gian 20 năm và lượng khí thải đang tăng vọt ngay cả khi chúng ta bắt đầu giảm lượng CO2. Điều đó làm cho chất xúc tác thu giữ hydrocarbon mới, sử dụng năng lượng mặt trời của UCF trở thành ý tưởng rất hấp dẫn.

Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Công nghệ Khoa học Nano, Đại học Central Florida và Viện Vũ trụ Florida cho biết đã tạo ra một chất xúc tác quang giàu boron, được thiết kế với các khiếm khuyết ở cấp độ nano hoặc những bất thường về cấu trúc, cho phép nó phân tách các chuỗi hydrocarbon như metan thành thành phần vô hại.

Đầu vào chỉ đơn giản là ánh sáng mặt trời và không khí chứa hydrocarbon. Sản phẩm đầu ra là hydro tinh khiết, có thể được sử dụng cho mọi mục đích năng lượng và carbon nguyên chất.

Điều quan trọng là quá trình này không tạo ra carbon dioxide hoặc carbon monoxide. Điều đó hoàn toàn trái ngược với các quy trình công nghiệp điển hình được sử dụng để sản xuất hydro hoặc khí tổng hợp từ metan và nước, vốn thải ra một lượng lớn chất này hoặc chất kia.


Chuyên gia xúc tác Richard Blair và nhà công nghệ nano Laurene Tetard đến từ UCF đã hợp tác thực hiện một số khám phá mới về xúc tác quang học thú vị.

Chuyên gia xúc tác UCF Richard Blair cho biết trong một thông cáo báo chí: “Phát minh đó thực sự là phát minh kép. Bạn thu được hydro màu xanh lá cây và loại bỏ metan. Bạn đang xử lý khí metan thành hydro và carbon nguyên chất có thể được sử dụng cho những thứ như pin. Quy trình của chúng tôi lấy khí nhà kính, khí metan và chuyển đổi nó thành thứ không phải khí nhà kính, hydro, carbon và loại bỏ khí metan khỏi chu trình”.

Nhóm nghiên cứu tin rằng công trình của họ có thể giảm đáng kể chi phí các chất xúc tác tạo ra năng lượng, mở rộng phạm vi tần số ánh sáng trong phạm vi có thể ​​chúng hoạt động và tăng hiệu quả quá trình quang xúc tác mặt trời. Nó không chỉ cho phép sản xuất công nghiệp hydro xanh hơn không cần nước mà còn có thể mang lại phương pháp khả thi về mặt thương mại để thu giữ trực tiếp khí metan trong khí quyển.

Khí metan là sản phẩm phụ không thể tránh khỏi của nông nghiệp, chất thải chôn lấp, cơ sở xử lý nước thải và một số quy trình công nghiệp chính. Nó rò rỉ ra lượng lớn ở bất cứ nơi nào các nhà sản xuất khí đốt tự nhiên khoan lấy nó, qua các đường ống và phụ kiện, nó di chuyển đến các hộ gia đình và ngành công nghiệp, nơi nó thường bị đốt cháy để tạo ra nhiều carbon dioxide hơn.

Biến đổi khí hậu đã bắt đầu gây ra sự gia tăng đáng kể lượng khí metan trong khí quyển do sự mở rộng của các vùng đất ngập nước nhiệt đới, từ đó nó được giải phóng do quá trình phân hủy cũng như sự tan băng của lớp băng vĩnh cửu ở vùng cực – nơi giữ lại một lượng lớn khí metan.

Đây là vấn đề lớn và ngày càng gia tăng, ý tưởng về công nghệ thu hồi khí metan chạy bằng năng lượng mặt trời có khả năng được triển khai xung quanh các địa điểm phát thải khí metan lớn đồng thời tạo ra nhiều dòng thu nhập chắc chắn là ý tưởng thú vị nếu chứng tỏ khả thi ở quy mô thương mại.

Hà My

https://vietq.vn/phat-trien-chat-xuc-tac-nang-luong-mat-troi-thu-giu-khi-metan-de-tao-ra-hydro-va-carbon-tinh-khiet-d213541.html

Saudi Aramco và Microsoft tài trợ công nghệ lưu trữ năng lượng xanh

Các nhà đầu tư bao gồm ông trùm dầu mỏ Saudi Aramco và gã khổng lồ công nghệ Microsoft đã tài trợ một công ty khởi nghiệp ở California với kế hoạch giúp ngành công nghiệp cắt giảm lượng khí thải bằng cách lưu trữ năng lượng tái tạo dư thừa trong những viên gạch siêu nóng, Upstream Online đưa tin.


Ảnh minh họa

Rondo Energy đã thông báo rằng họ đã huy động được 60 triệu USD từ các nhà đầu tư nặng ký bao gồm Quỹ đổi mới khí hậu của Microsoft, Aramco Ventures và tập đoàn khai thác đa quốc gia Anh – Australia Rio Tinto.

Nhà đầu tư mạo hiểm người Mỹ John Doerr – chủ tịch của công ty Kleiner Perkins có trụ sở tại Thung lũng Silicon – cũng đã ủng hộ công ty. Khoản tài trợ nhằm tăng tốc độ triển khai pin nhiệt Rondo trên toàn thế giới.

Hệ thống Rondo sử dụng các bộ phận làm nóng bằng điện, giống như các bộ phận trong lò nướng bánh mì hoặc lò nướng, để làm nóng hàng nghìn tấn gạch lên đến nhiệt độ 1.500°C. Rondo cho biết những viên gạch này sẽ duy trì nhiệt với mức thất thoát năng lượng dưới 1% mỗi ngày.

Khi cần sử dụng, không khí đi qua các khối gạch và được làm nóng đến hơn 1.000°C, trước khi được đưa đến điểm cuối dưới dạng không khí hoặc hơi nóng.

Rondo cho biết hệ thống của họ được thiết kế để đưa vào các cơ sở hiện có hoặc cung cấp năng lượng cho các công trình mới, đồng thời cung cấp một giải pháp nhanh chóng với chi phí thấp để khử carbon và giảm chi phí vận hành.

Các viên gạch có thể vừa “sạc” và đồng thời cung cấp nhiệt. Các lợi ích khác bao gồm nguồn cung dồi dào của các vật liệu chính và tính an toàn khi không có bộ phận chuyển động hoặc vật liệu dễ cháy. Loại pin nhiệt này có tuổi thọ 50 năm.

Rondo có kế hoạch đưa pin nhiệt của mình vào các quy trình công nghiệp, từ sản xuất thép đến thức ăn trẻ em. Công ty nói rằng các ngành công nghiệp này yêu cầu nhiệt độ cao, tiêu thụ 1/4 năng lượng thế giới và thải ra 1/4 ô nhiễm carbon toàn cầu.

Đỗ Khánh/Upstream Online
https://petrotimes.vn/saudi-aramco-va-microsoft-tai-tro-cong-nghe-luu-tru-nang-luong-xanh-692185.html

Phát triển phương pháp tái chế rác thải nhựa mới

Các nhà hóa học tại Đại học Colorado Boulder, Mỹ đã phát triển một phương pháp mới để tái chế loại nhựa phổ biến được tìm thấy trong chai soda và các loại bao bì khác.

Đồng tác giả nghiên cứu Oana Luca cho biết, nghiên cứu trên có thể giải quyết vấn đề ngày càng nhiều rác thải nhựa trên khắp thế giới. Bởi theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường của Mỹ, nước này đã thải ra gần 36 triệu tấn sản phẩm nhựa vào năm 2018. Phần lớn rác thải nhựa được đưa đến các bãi chôn lấp, theo đồng tác giả nghiên cứu Oana Luca.

“Chúng ta tự an ủi mình khi ném thứ gì đó vào thùng tái chế, nhưng hầu hết nhựa có thể tái chế đó không bao giờ được tái chế. Chúng tôi muốn tìm hiểu làm thế nào để khôi phục các vật liệu phân tử, các khối cấu tạo của nhựa, để có thể sử dụng lại chúng”, bà Luca nói.

Trong nghiên cứu mới, bà và đồng nghiệp đã tiến một bước gần hơn tới mục tiêu trên. Nhóm tập trung vào một loại nhựa gọi là polyetylen terephthalate (PET) mà người tiêu dùng gặp hàng ngày trong chai nước, vỉ thuốc, thậm chí một số loại vải polyester. Trong các thí nghiệm quy mô nhỏ tại phòng thí nghiệm, họ trộn các mảnh nhựa đó với một loại phân tử đặc biệt, sau đó đặt một điện áp nhỏ. Trong vòng vài phút, PET bắt đầu tan rã.

Nhóm còn rất nhiều việc phải làm trước khi công cụ tái chế của họ có thể giải quyết vấn đề rác thải nhựa trên thế giới một cách thực tế. Phuc Pham, nghiên cứu sinh tiến sĩ hóa học và là tác giả chính của nghiên cứu cho biết, việc quan sát được tiến trình phản ứng trong thời gian thực là điều tuyệt vời.

Đầu tiên, dung dịch chuyển sang màu hồng đậm, sau đó trở nên trong suốt khi polymer vỡ ra. Thật thú vị khi xem rác thải, thứ có thể tồn tại trong đống rác hàng thế kỷ biến mất chỉ trong vài giờ hoặc vài ngày.


Phương pháp của nhóm dựa vào điện và một số phản ứng hóa học.

Bà Luca nhấn mạnh, thùng rác tái chế có thể giống như một giải pháp tốt cho vấn đề rác thải nhựa của thế giới. Tuy nhiên, hầu hết đô thị trên thế giới phải vật lộn để thu gom và phân loại núi rác được thải ra hàng ngày.

Kết quả là chưa đến 1/3 tổng số nhựa PET ở Mỹ đến gần được với việc tái chế (các loại nhựa khác thậm chí còn ở xa hơn). Ngay cả khi đó, các phương pháp như nấu chảy rác thải nhựa hoặc hòa tan nó trong axit có thể làm thay đổi các đặc tính của vật liệu trong quá trình xử lý.

Ngoài ra, người ta sẽ thay đổi vật liệu một cách máy móc. Sử dụng phương pháp tái chế hiện tại, ví dụ như nấu chảy một chai nhựa, bạn có thể sản xuất một trong những loại túi nhựa dùng một lần thường có trong các cửa hàng tạp hóa. Ngược lại, bà Luca và nhóm của mình muốn tìm cách sử dụng các thành phần cơ bản từ chai nhựa cũ để tạo ra chai nhựa mới. Nó giống như đập vỡ một lâu đài bằng các mảnh ghép Lego rồi lấy các mảnh đó để tạo ra một tòa nhà hoàn toàn mới.

Để đạt được kỳ tích trên, nhóm đã chuyển sang quá trình gọi là điện phân, hoặc sử dụng điện để phá vỡ các phân tử. Ví dụ, các nhà hóa học từ lâu đã biết họ có thể cho một hiệu điện thế vào các cốc chứa đầy nước và muối để tách các phân tử nước đó thành khí hydro và oxy.

Các nhà nghiên cứu đang cố gắng hiểu chính xác những phản ứng này diễn ra như thế nào. Tuy nhiên, họ đã có thể chia nhỏ PET thành các khối xây dựng cơ bản của nó. Sau đó nhóm có thể phục hồi những khối này và có khả năng sử dụng chúng để tạo ra thứ gì đó mới.

Bà Luca cho rằng, nếu thành công, các phương pháp điện hóa sẽ phân hủy nhiều loại nhựa khác nhau cùng lúc. Bằng cách đó, chúng ta có thể đến những bãi rác khổng lồ trong đại dương, kéo tất cả rác thải ở đó vào một lò phản ứng và thu lại rất nhiều phân tử hữu ích.

Bảo Lâm
https://vietq.vn/phat-trien-phuong-phap-tai-che-rac-thai-nhua-moi-d212771.html

Thách thức công nghệ: Sạc pin cho ôtô điện trong lúc xe đang chạy

Pháp sẽ thử nghiệm lắp đặt trạm sạc pin cho xe ô tô điện và xe tải trên đường cao tốc A10 gần Paris, bằng chứng minh hiệu quả của hai công nghệ giúp phương tiện di chuyển lâu hơn với pin cỡ nhỏ hơn, do đó tiêu thụ ít kim loại hiếm hơn.

Công nghệ thứ nhất là lắp đặt những cuộn dây nam châm bên dưới lớp nhựa đường để sạc pin không dây, giống như điện thoại di động. Còn công nghệ thứ hai là đi đường dây sạc điện dưới lớp nhựa đường và lắp ổ sạc trên mặt đất.

Những hệ thống “đường xe điện” này có thể đẩy nhanh cuộc cách mạng đang diễn ra trong ngành công nghiệp ô tô: Giúp xe điện chạy lâu hơn mà không cần dừng lại để sạc pin, và không cần sử dụng những cục pin quá nặng và quá tiêu tốn nhiều vật liệu quý hiếm.

Theo một nghiên cứu của Đại học Gothenburg (Thụy Điển), những “đường xe điện” này sẽ làm giảm 62 – 71% số kilômét mà ô tô thông thường có thể đi được trong một lần sạc, do đó làm giảm kích thước pin của chúng. Ngoài ra, theo nghiên cứu này, chi phí tiết kiệm được từ khâu sản xuất pin sẽ đi vào tài trợ cho dự án “đường xe điện”.

Pháp chọn đường cao tốc A10 làm địa điểm cho dự án vì ý tưởng chính ở đây, là thử nghiệm những giải pháp này trên đường cao tốc. Ông Louis du Pasquier – người phụ trách dự án tại tập đoàn xây dựng Vinci (Pháp), giải thích: Mục đính chính là “loại bỏ một vài vấn đề cuối cùng, trước khi triển khai những công nghệ này trên quy mô lớn, trên hàng trăm hoặc hàng nghìn km”.

Những đợt thử nghiệm đầu tiên sẽ được thực hiện vào tháng 9/2023 tại Rouen, trên đường đua khép kín Cerema – một cơ sở công cộng, dưới sự giám sát của Bộ Chuyển dịch Sinh thái Pháp.

Sau đó, những hệ thống sạc động này sẽ được lắp đặt trên 4 km làn đường bên phải của đường cao tốc A10 theo hướng Paris-Orléans, khúc phía trên của trạm thu phí Saint-Arnoult-en-Yvelines. Bộ sạc sẽ chỉ hoạt động khi kết nối phương tiện tương thích.

Đường cao tốc Mont-Blanc (Haute-Savoie) cũng sẽ sớm thử nghiệm giải pháp gọi là “máy quét đường”, do tập đoàn công nghệ giao thông vận tải Alstom phát triển, với ý định ban đầu là một ý tưởng dành cho tàu điện. Theo đó, các phương tiện sẽ được trang bị một thiết bị có thể thu gọn, dùng để thu điện năng từ đường dây điện lắp dưới lớp nền của đường.

Theo báo cáo gửi đến Bộ Giao thông Vận tải Pháp vào mùa hè năm 2021, “đường xe điện” là rất cần thiết để nhanh chóng điện khí hóa những phương tiện chở hàng hạng nặng vẫn còn đang chạy chủ yếu bằng dầu diesel.

Rào cản công nghệ

Ông Patrick Pelata – Cựu giám đốc của hãng xe Renault, giải thích rằng “đường xe điện” sẽ giúp “khử sâu carbon trong lĩnh vực vận tải đường dài, chừng nào mà châu Âu tiếp tục khử carbon trong ngành điện lực”.

Ông đảm bảo rằng ý tưởng này cũng thể hiện “hiệu quả năng lượng tuyệt vời, vì nguồn sạc liên tục sẵn có sẽ không cản trở điều kiện hoạt động của xe tải, làm giảm đáng kể kích thước cần thiết cho pin xe hạng nặng đi hành trình dài” và giúp giảm nhu cầu về trạm sạc.

Tuy nhiên, những rào cản công nghệ vẫn cần được dỡ bỏ. Theo những báo cáo được gửi đến Bộ Giao thông Vận tải Pháp, công nghệ sạc không dây không mạnh và rất đắt tiền, làm tắc nghẽn khu vực trạm sạc và gây ra vấn đề cho xe hai bánh.

Ngoài sạc không dây và đấu dây điện, còn có một giải pháp thứ ba đang được thử nghiệm ở Đức: Công nghệ treo dây cáp điện như đã làm cho tàu điện thành thị. Theo báo cáo, đó là “công nghệ tiên tiến nhất”, nhưng chỉ dành cho riêng cho xe tải. Chưa kể, trồng cột điện bên đường sẽ gây ra những vấn đề về an toàn đường bộ.

Công ty khởi nghiệp Electreon – bên cung cấp hệ thống cảm ứng, đã khởi động nhiều dự án ở Israel, Thụy Điển, Ý và Mỹ. Tại nước Ý, hãng xe Fiat đang thử nghiệm dự án sạc xe Fiat 500. Còn liên doanh Elonroad – bên cung cấp công nghệ số 2 trong bài viết, thì đã tiến hành thử nghiệm từ năm 2019, tại miền nam Thụy Điển.

Dự án thử nghiệm trên đường cao tốc A10 sẽ trải dài trong ba năm, với ngân sách 26 triệu euro và sự hỗ trợ của Ngân hàng Đầu tư Công (BPI), thông qua kế hoạch phát triển France 2030 của Pháp.

Ngọc Duyên/AFP
https://petrotimes.vn/thach-thuc-cong-nghe-sac-pin-cho-oto-dien-trong-luc-xe-dang-chay-689691.html

Loại pin mặt trời có thể chịu được nhiệt độ cao trong hơn 1.500 giờ

Một nhóm quốc tế bao gồm các nhà nghiên cứu từ Khoa Khoa học Ứng dụng & Kỹ thuật của Đại học Toronto (Canada) đã tạo ra pin mặt trời perovskite có thể chịu được nhiệt độ cao trong hơn 1.500 giờ.

Đây là cột mốc quan trọng khi công nghệ mới nổi này tiến gần hơn đến ứng dụng thương mại. Phát hiện của nhóm gần đây đã được công bố trên tạp chí Khoa học.

Ông Ted Sargent – Giáo sư tại Khoa Hóa học và kỹ thuật điện và máy tính, Trường Đại học Northwestern (Mỹ) cho biết: “Pin mặt trời perovskite mở ra những con đường mới để khắc phục một số hạn chế về hiệu quả của công nghệ dựa trên silicon, vốn là tiêu chuẩn công nghiệp ngày nay”.

Theo chuyên gia này, silicon vẫn có lợi thế trong một số lĩnh vực, bao gồm cả độ ổn định. Nghiên cứu cho thấy cách chúng ta có thể thu hẹp khoảng cách đó. Pin mặt trời truyền thống được làm từ các tấm silicon có độ tinh khiết cao, tốn nhiều năng lượng để sản xuất. Ngoài ra, chúng chỉ có thể hấp thụ một số phần của quang phổ mặt trời.


Pin mặt trời perovskite được tạo thành từ các lớp tinh thể có kích thước nano.

Ngược lại, pin mặt trời perovskite được tạo thành từ các lớp tinh thể có kích thước nano. Điều đó khiến chúng phù hợp hơn với các phương pháp sản xuất chi phí thấp. Bằng cách điều chỉnh kích thước và thành phần của tinh thể này, nhóm nghiên cứu cũng có thể điều chỉnh bước sóng ánh sáng mà chúng hấp thụ.

Ngoài ra, các lớp perovskite cũng có thể được chồng lên nhau thậm chí trên những tế bào năng lượng mặt trời silicon. Từ đó, cho phép chúng sử dụng nhiều quang phổ năng lượng mặt trời hơn và tăng hiệu quả.

Trong vài năm qua, những tiến bộ từ phòng thí nghiệm đã mang lại hiệu quả của pin mặt trời perovskite trong phạm vi tương tự như những gì có thể đạt được với silicon. Tuy nhiên, thách thức về sự ổn định ít được chú ý hơn.

Bà Park So Min – nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của Sargent và là một trong ba đồng tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi muốn làm việc ở nhiệt độ cao và độ ẩm tương đối lớn. Bởi, điều đó sẽ cho chúng tôi ý tưởng tốt hơn về thành phần nào có thể hỏng trước và cách cải thiện chúng”.

Các nhà nghiên cứu đã kết hợp kiến thức chuyên môn của mình trong khám phá vật liệu, quang phổ học và chế tạo thiết bị. Từ đó, thiết kế và mô tả đặc điểm lớp phủ bề mặt mới cho pin perovskites. Dữ liệu của nhóm nghiên cứu cho thấy, chính lớp phủ này – được tạo ra bằng các phối tử amoni flo hóa, giúp tăng cường tính ổn định của tế bào tổng thể.

Pin mặt trời perovskite thường chứa một lớp thụ động. Lớp này bao quanh lớp perovskite hấp thụ ánh sáng và hoạt động như một ống dẫn để các electron di chuyển vào mạch xung quanh. Song, tùy vào thành phần của nó, cũng như mức độ tiếp xúc với nhiệt độ và độ ẩm, lớp thụ động có thể biến dạng theo cách cản trở dòng điện tử.

Bảo Lâm
https://vietq.vn/loai-pin-mat-troi-co-the-chiu-duoc-nhiet-do-cao-trong-hon-1500-gio-d212625.html

Phát hiện kim loại có khả năng tự phục hồi vết nứt

Gần đây, các nhà khoa học đã quan sát một kim loại có thể tự “chữa lành vết thương”. Nếu quá trình này có thể được hiểu và kiểm soát đầy đủ sẽ mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành kỹ thuật.

Từ gốm sứ, lớp phủ ô tô đến bê tông và thậm chí là nhựa sinh học, cộng đồng khoa học đã tạo ra các vật liệu có thể tự sửa chữa sau khi hư hỏng, một đặc tính được gọi là khả năng tự phục hồi. Nhưng khi nói đến kim loại, khả năng tự phục hồi từ những vết nứt nhỏ do thời gian gây ra vẫn còn khó nắm bắt.

Nhóm nghiên cứu đến từ Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia và Đại học Texas A&M kiểm tra độ bền của kim loại, sử dụng kỹ thuật hiển vi điện tử truyền qua chuyên dụng để kéo hai đầu kim loại 200 lần mỗi giây. Sau đó, họ quan sát khả năng tự vá lành ở quy mô siêu nhỏ trên miếng bạch kim dày 40 nanomet treo trong buồng chân không.

Vết nứt gây ra bởi lực căng mô tả ở trên gọi là phá hủy do mỏi. Đó là áp lực và chuyển động lặp lại gây ra nứt vỡ vi mô, cuối cùng khiến máy móc hoặc công trình rạn nứt. Sau khoảng 40 phút quan sát, các nhà nghiên cứu nhận thấy vết nứt ở bạch kim bắt đầu liền lại và tự sửa chữa trước khi bắt đầu bị hư hỏng theo hướng khác. Họ công bố phát hiện hôm 19/7 trên tạp chí Nature.

“Chúng tôi không ngờ tới điều này. Những gì chúng tôi có thể xác nhận là kim loại có khả năng tự vá lành, ít nhất trong trường hợp phá hủy do mỏi ở cấp độ nano”, nhà khoa học vật liệu Brad Boyce ở Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia.


Mô phỏng máy tính này cho thấy khối bạch kim được kéo qua các mũi tên màu đỏ, khu vực màu xanh lá cây đại diện cho một vết nứt đã tự lành.

Dù nhóm nghiên cứu chưa rõ quá trình xảy ra như thế nào hay cách sử dụng nó, chắc chắn kim loại tự vá lành sẽ tạo ra khác biệt to lớn trong việc sửa chữa mọi thứ từ cầu đường tới điện thoại động.

Năm 2013, nhà khoa học vật liệu Michael Demkowicz ở Đại học Texas A&M làm việc trong nghiên cứu dự đoán quá trình vá lành vết nứt nano có thể xảy ra, do những hạt tinh thể nhỏ xíu bên trong kim loại dịch chuyển ranh giới nhằm phản ứng với áp lực. Demkowicz cũng tham gia nghiên cứu mới, sử dụng mô hình máy tính cập nhật để chứng minh giả thuyết trước đây của ông về hành vi tự vá lành của kim loại ở cấp nano phù hợp với những gì xảy ra trong thí nghiệm.

Quá trình sửa chữa tự động đó xảy ra ở nhiệt độ phòng là một khía cạnh hứa hẹn khác của nghiên cứu. Kim loại thường đòi hỏi nhiều nhiệt để thay đổi hình dạng, nhưng thí nghiệm diễn ra trong môi trường chân không. Các nhà nghiên cứu cần xem xét quá trình tương tự có xảy ra ở kim loại thông thường trong môi trường thường ngày hay không.

Một giả thuyết khả thi bao gồm quá trình hàn lạnh, xảy ra khi các bề mặt kim loại ở đủ gần để nguyên tử của chúng mắc vào nhau. Thông thường, lớp không khí mỏng hoặc chất gây ô nhiễm can thiệp vào quá trình. Ở môi trường như chân không vũ trụ, kim loại nguyên chất có thể bị ép sát vào nhau đủ gần để dính chặt.

Hà My
https://vietq.vn/phat-hien-kim-loai-co-kha-nang-tu-phuc-hoi-vet-nut-d212572.html