Hướng tới xây dựng tiêu chuẩn cho thị trường tín chỉ carbon

Hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước.

Tín chỉ carbon là loại “hàng hóa” cốt lõi, đòi hỏi phải có hệ thống tiêu chuẩn, cơ chế vận hành và hành lang pháp lý chặt chẽ. Theo lộ trình, từ tháng 6/2025, Việt Nam sẽ bắt đầu giai đoạn thí điểm thị trường carbon kéo dài đến năm 2028. Trong giai đoạn này, tín chỉ carbon sẽ đóng vai trò là loại hàng hóa chủ đạo, được giao dịch trên nền tảng sàn giao dịch do nhà nước quản lý.

Hiện Việt Nam chấp thuận ba loại tín chỉ carbon được lưu hành gồm: tín chỉ thu được từ các chương trình, dự án theo tiêu chuẩn của Việt Nam; tín chỉ theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris do Liên Hợp quốc điều phối; và tín chỉ từ các cơ chế hợp tác quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như Cơ chế Phát triển sạch (CDM) và Cơ chế Tín chỉ chung Việt Nam – Nhật Bản (JCM). Trong đó, các cơ chế CDM và JCM từng được triển khai nhiều năm tại Việt Nam sẽ là nền tảng quan trọng để phát triển nguồn cung trong giai đoạn đầu của thị trường.

Trên thị trường quốc tế, CDM đang chững lại, còn JCM chưa có giá trị thương mại mà chỉ phân chia quyền sở hữu giữa chính phủ và doanh nghiệp hai bên. Tuy nhiên, Việt Nam có kinh nghiệm nhiều năm trong triển khai các cơ chế này, đây sẽ là lợi thế khi thị trường nội địa đi vào vận hành.

Với cơ chế Điều 6 của Thỏa thuận Paris, Việt Nam đang xúc tiến hợp tác với các quốc gia như Singapore để triển khai các dự án thí điểm trong lúc chờ đợi hướng dẫn cụ thể từ Liên Hợp quốc.

Tín chỉ carbon là loại “hàng hóa” cốt lõi, đòi hỏi phải có hệ thống tiêu chuẩn chặt chẽ

Song song với việc hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan để xây dựng bộ tiêu chuẩn tín chỉ carbon riêng của Việt Nam.

Đây là cơ sở để các chương trình, dự án giảm phát thải có thể đăng ký, được thẩm định và cấp tín chỉ theo chuẩn quốc gia. Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 06/2022/NĐ-CP đã đưa ra toàn bộ quy trình tạo tín chỉ, từ việc đề xuất phương pháp luận, xây dựng dự án, đăng ký, đến đề xuất cấp tín chỉ. Theo cơ chế này, các bộ chuyên ngành sẽ là đơn vị phê duyệt và cấp tín chỉ cho các dự án trong lĩnh vực quản lý của mình, đảm bảo tính chuyên môn và sát thực tế.

Thực tế, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc triển khai các dự án tạo tín chỉ carbon theo chuẩn quốc tế. Tính đến tháng 3/2025, cả nước đã có 274 dự án được đăng ký theo cơ chế CDM, 45 dự án theo tiêu chuẩn VCS và 58 dự án theo tiêu chuẩn GS, bên cạnh một số dự án khác.

Một số chương trình tiêu biểu như ERPA tại vùng Bắc Trung Bộ hay LEAF tại Tây Nguyên – Nam Trung Bộ đang trong quá trình triển khai hoặc đàm phán với các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới. Tuy nhiên, phần lớn tín chỉ từ các chương trình này vẫn được tính vào mục tiêu quốc gia, chưa thực sự tham gia thị trường tự do, do đó tính thương mại hóa còn hạn chế.

Một trong những thách thức lớn hiện nay là tính phức tạp và yêu cầu kỹ thuật cao của quá trình phát triển dự án tín chỉ carbon. Theo chia sẻ từ đại diện Cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ngành Lâm nghiệp mất hơn 10 năm chuẩn bị cho dự án ERPA, từ việc triển khai các biện pháp giảm phát thải cho đến hoàn thiện hồ sơ kỹ thuật.

Doanh nghiệp tư nhân cũng gặp nhiều khó khăn, như trường hợp của Công ty CP Thành Thành Công, Biên Hòa khi phát triển dự án theo Tiêu chuẩn Verra, mất gần ba năm để có thể phát hành tín chỉ đầu tiên.

Nhiều doanh nghiệp trong các ngành sản xuất trọng điểm như lúa gạo, thực phẩm, chăn nuôi và quản lý chất thải bày tỏ mong muốn tham gia thị trường, nhưng đều gặp trở ngại lớn về nhân lực có chuyên môn đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật khắt khe.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc tham gia thị trường carbon không chỉ là yêu cầu về trách nhiệm môi trường mà còn là điều kiện để hàng hóa Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đặc biệt là khi Liên minh châu Âu đang triển khai Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon (CBAM) áp dụng cho các mặt hàng phát thải cao như thép, xi măng và điện.

Để hỗ trợ doanh nghiệp, dự thảo sửa đổi Nghị định 06 đề xuất tăng tỷ lệ tín chỉ carbon được phép bù trừ cho hạn ngạch phát thải, khuyến khích các dự án giảm phát thải từ bảo vệ và phát triển rừng, tiết kiệm năng lượng và năng lượng tái tạo.

Cũng theo dự thảo Nghị định, Việt Nam sẽ xây dựng hệ thống đăng ký quốc gia về hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon, là cơ sở pháp lý và kỹ thuật để giám sát, cấp phép và giao dịch hai loại tài sản này trên thị trường.

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà nhấn mạnh tính kỹ thuật cao và nhiều biến động của chính sách thị trường carbon, đồng thời đề nghị phải tạo cơ chế linh hoạt để doanh nghiệp có thể thí điểm, từ đó cơ quan quản lý hoàn thiện dần quy định pháp lý.

Ngoài ra, Phó thủ tướng cũng yêu cầu bổ sung quy định về phân cấp trong xây dựng, ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật, đồng thời đảm bảo tính công nhận lẫn nhau giữa Việt Nam và các đối tác quốc tế về dữ liệu phát thải và tín chỉ carbon.

Về bản chất, tín chỉ carbon là một loại tài sản được giao dịch trên thị trường, đại diện cho quyền phát thải một tấn CO₂ hoặc khí nhà kính tương đương. Trên thị trường quốc tế, tín chỉ theo Điều 6.2 của Thỏa thuận Paris có giá trị cao nhất, trong khi các tín chỉ tự nguyện có mức giá dao động từ 0,25 đến 30 USD/tín chỉ, tùy theo tiêu chuẩn và lợi ích môi trường đi kèm.

Một số loại tín chỉ quý hiếm như tín chỉ về bảo tồn biển, đa dạng sinh học có thể đạt mức giá cao hơn. Tuy nhiên, nếu không kiểm soát chặt chẽ, việc lạm dụng tín chỉ để bù trừ hạn ngạch có thể làm chậm quá trình giảm phát thải thực tế của doanh nghiệp và quốc gia.

Trong dài hạn, việc phát triển thị trường tín chỉ carbon sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Không chỉ giúp đạt được các mục tiêu giảm phát thải trong nước, thị trường này còn tạo động lực chuyển đổi xanh cho doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư vào công nghệ sạch và thu hút nguồn vốn quốc tế.

Thị trường tín chỉ carbon cũng sẽ là công cụ quan trọng để Việt Nam thực hiện cam kết tại COP26, góp phần nâng cao uy tín quốc tế và năng lực cạnh tranh thương mại của nền kinh tế.

Bảo Linh (t/h)
https://vietq.vn/tien-toi-xay-dung-tieu-chuan-cho-thi-truong-tin-chi-carbon-d233652.html

Chuyển đổi mô hình KCN sinh thái thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

Hội thảo tập huấn “Tăng cường năng lực chuyển đổi mô hình Khu công nghiệp (KCN) sinh thái tại KCN VSIP” do Bộ Tài chính, Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO) và Dự án KCN sinh thái Toàn cầu tại Việt Nam (GEIPP) thực hiện, đã diễn ra tại Bắc Ninh ngày 14/05/2025.

Đây là hoạt động thuộc dự án “Nhân rộng phương pháp tiếp cận KCN sinh thái để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam” được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) phê duyệt tại Quyết định số 1737/QĐ-BKHĐT ngày 13/8/2024, nhằm hỗ trợ KCN VSIP Bắc Ninh thực hiện chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái theo các quy định hiện hành.

Hội thảo đã thu hút sự tham gia của hơn 70 đại biểu đến từ các doanh nghiệp, ban quản lý các KCN…

Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Đinh Nam Thắng- Phó trưởng ban Ban Quản lý các KCN Bắc Ninh cho biết: Trong bối cảnh toàn cầu đang đứng trước thách thức kép, vừa phải duy trì tăng trưởng kinh tế, vừa ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, mô hình phát triển KCN truyền thống đang bộc lộ nhiều hạn chế. Những cam kết quốc tế về phát triển bền vững, các Hiệp định FTA thế hệ mới hay cam kết tại COP 26, đòi hỏi Việt Nam phải có tư duy chiến lược và hành động cụ thể hơn bao giờ hết. Một trong những giải pháp thiết thực chính là chuyển đổi mô hình KCN truyền thống sang KCN sinh thái- nơi các doanh nghiệp không chỉ hoạt động hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn cộng sinh trong sử dụng tài nguyên, năng lượng, chia sẻ hạ tầng và giảm phát thải.

Ông Đinh Nam Thắng- Phó trưởng ban Ban Quản lý các khu công nghiệp Bắc Ninh

Cũng tại hội thảo, bà Nguyễn Trâm Anh – Quản lý Dự án Quốc gia Chương trình KCN sinh thái toàn cầu Việt Nam – UNIDO đã giới thiệu về các mô hình chuyển đổi thành công từ KCN truyền thống sang KCN sinh thái ở nhiều nước trên thế giới như Đan Mạch, Hàn Quốc. Đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp tại Bắc Ninh cập nhật những kiến thức và lộ trình về việc chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái, mang lại hiệu quả cao theo Nghị định 35/2022 của Chính phủ và Thông tư 05/2025 của Bộ KH&ĐT (nay là Bộ Tài chính).

Bà Nguyễn Trâm Anh – Quản lý Dự án Quốc gia Chương trình KCN sinh thái toàn cầu Việt Nam – UNIDO

Trước đó, trong giai đoạn 2020-2024, dự án triển khai KCN sinh thái ở Việt Nam đã có 211 cơ hội được thực hiện giúp tiết kiệm tài chính 8,5 triệu USD/năm, 43.026 MWh điện/năm, giảm phát thải 82.566 tấn CO2/năm…

Trong giai đoạn 2024-2028, dự án sẽ hỗ trợ thêm 5 KCN, trong đó có KCN VSIP tại Bắc Ninh, với mục tiêu xây dựng mô hình sinh thái theo chuẩn quốc tế, làm cơ sở để nhân rộng trên toàn quốc.

TS. Lê Xuân Thịnh – Giám đốc Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hợn Việt Nam (VNCPC) – Đối tác thực hiện của dự án thuyết trình tại hội thảo

Theo đó, quý doanh nghiệp thuộc KCN VISP Bắc Ninh có mong muốn tham gia dự án xin vui lòng điền vào phiếu đăng ký để có cơ hội tiếp cận với các chuyên gia của VNCPC hoàn toàn MIỄN PHÍ trong thời gian sớm nhất!

Doanh nghiệp khi tham gia dự án sẽ nhận được các lợi ích sau:

  • Tập huấn cho các cán bộ kỹ thuật về các chủ đề: KCN sinh thái và kinh nghiệm quốc tế trong việc chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái; Phương pháp, kinh nghiệm và các lợi ích về việc thực hiện sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP) và cộng sinh công nghiệp; Kinh tế tuần hoàn và một số các công cụ liên quan
  • Làm việc trực tiếp với các chuyên gia về RECP để tìm ra các giải pháp tối ưu trong quá trình sản xuất
  • Cung cấp báo cáo khuyến nghị các giải pháp giúp tối ưu hóa quá trình sản xuất với mức chi phí và thời gian hoàn vốn tối ưu
  • Kết nối với các đối tác thực hiện cộng sinh công nghiệp
  • Nâng cao năng lực cạnh tranh, trách nhiệm với xã hội và đóng góp vào các mục tiêu quốc gia về phát triển xanh
  • Gia tăng cơ hội tiếp cận với các tổ chức và nguồn vốn xanh…

                                                                                                                                                                             VNCPC

Doanh nghiệp Việt “chậm nhưng chắc” trong thực hành ESG

ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) trở thành yêu cầu bắt buộc trên thị trường toàn cầu. Dù còn nhiều thách thức, doanh nghiệp Việt Nam đang từng bước tiếp cận, thích nghi và chuyển hóa ESG thành lợi thế cạnh tranh dài hạn.

ESG – từ yêu cầu toàn cầu đến bước chuyển tại doanh nghiệp Việt

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu hướng tiêu dùng xanh ngày càng rõ nét, ESG đã không còn là khái niệm mới với cộng đồng doanh nghiệp. Thay vì là một lựa chọn tự nguyện, ESG đang trở thành điều kiện bắt buộc để tham gia các chuỗi cung ứng, thị trường xuất khẩu và hợp tác đầu tư quốc tế.

Tại Việt Nam, theo TS. Nguyễn Phương Nam – chuyên gia đánh giá quốc tế về báo cáo kiểm kê khí nhà kính của Liên hợp quốc (UNFCCC), hoạt động ESG hiện vẫn đang trong giai đoạn đầu và có phần chậm so với xu hướng toàn cầu. Việc đầu tư và thực hành ESG chủ yếu diễn ra tại các tập đoàn lớn, công ty niêm yết, hoặc những doanh nghiệp trong ngành hàng tiêu dùng có mức độ cạnh tranh cao.

ESG Không còn là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp. (Ảnh minh họa)

Nguyên nhân được chỉ ra là do doanh nghiệp Việt chưa có đủ thông tin định hướng rõ ràng về ESG, còn e dè trong việc đầu tư do thiếu hành lang chính sách cụ thể. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tìm được cách để cân bằng ba yếu tố cốt lõi của ESG: môi trường, xã hội và quản trị, dẫn đến việc triển khai còn dàn trải, thiếu trọng tâm.

Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, với sự vào cuộc ngày càng quyết liệt của cơ quan quản lý nhà nước, cam kết mạnh mẽ từ các tổ chức đầu tư tài chính và sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng, ESG tại Việt Nam đang bắt đầu có những bước chuyển mình đáng chú ý.

PGS. TS Nguyễn Đình Thọ – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khẳng định, ESG không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu suất mà còn là chìa khóa để gia tăng uy tín, thương hiệu, mở rộng thị trường và khẳng định vị thế trong “sân chơi” toàn cầu.

Doanh nghiệp Việt chuyển hóa ESG thành giá trị thực tiễn

Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đã chủ động tiếp cận ESG và bước đầu gặt hái được kết quả tích cực. Tại Tập đoàn FPT, ESG đã được đưa vào chiến lược phát triển hơn 10 năm qua. Ông Nguyễn Văn Khoa – Tổng Giám đốc FPT cho biết, từ bốn năm trở lại đây, ESG được triển khai toàn diện từ nội bộ đến hệ sinh thái đối tác. “Đưa ESG vào hoạt động cốt lõi sẽ nâng cao chất lượng vận hành, mở rộng tăng trưởng bền vững, tạo môi trường tốt để thu hút nhân lực trẻ. Đừng coi ESG là gánh nặng, hãy coi đó là cơ hội”, ông Khoa nhấn mạnh.

Ở lĩnh vực sản xuất, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cũng áp dụng các giải pháp giảm phát thải carbon, chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh và tuần hoàn. Kết quả, trong năm 2023, Vinatex đã giảm 2% lượng điện tiêu thụ và 84% lượng chất thải nguy hại so với năm trước.

Với ngành nông nghiệp, Tập đoàn Lộc Trời với triết lý “Cùng nông dân phát triển bền vững” cũng ghi nhận hiệu quả rõ rệt khi chuyển sang sản xuất xanh, giảm phát thải. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp giảm 9%, trong đó chi phí thuốc trừ sâu giảm 23%, chi phí phân bón giảm 5%. Đồng thời, doanh thu tăng 2%, giá bán sản phẩm đầu ra cao hơn 1% so với canh tác truyền thống.

Trong ngành đồ uống, Công ty Heineken Việt Nam đã hoàn toàn chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sinh khối tại cả 6 nhà máy. Các phụ phẩm từ sản xuất bia như bã, men, bùn thải đều được tái chế thành sản phẩm đầu vào cho chuỗi giá trị khác như thức ăn chăn nuôi, phân bón, đất sạch… giúp doanh nghiệp tối ưu hiệu quả kinh tế tuần hoàn.

Để ESG thực sự lan tỏa rộng trong cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia nhấn mạnh vai trò then chốt của chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước. Cụ thể, cần sớm hoàn thiện hệ thống tiêu chí, công cụ đo lường ESG phù hợp với đặc thù doanh nghiệp Việt; đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích về tài chính, tín dụng, thuế và đào tạo nguồn nhân lực xanh.

Về phía doanh nghiệp, điều quan trọng là phải thay đổi tư duy – coi ESG là một khoản đầu tư chứ không phải chi phí. Việc lồng ghép ESG với chuyển đổi số cũng là hướng đi cần thiết, giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hiệu quả sản xuất, giảm tác động đến môi trường và tăng khả năng cạnh tranh bền vững.

Duy Trinh
https://vietq.vn/doanh-nghiep-viet-cham-nhung-chac-trong-thuc-hanh-esg-d232905.html