Thách thức trong chuyển giao công nghệ vào Việt Nam

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, giai đoạn 2010-2017, có 115 hợp đồng chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam, với tổng giá trị các hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký ước tính khoảng 447.000 tỷ đồng.

Hiệu ứng các ngành nghề mới, công nghệ mới của các doanh nghiệp FDI đã giúp nhiều ngành kinh tế của Việt Nam có công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, việc chuyển giao công nghệ cho đến nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ của nước ta.

Mặc dù trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh công nghiệp của UNIDO năm 2016, Việt Nam đứng thứ 50 trên tổng số 141 nước được xếp hạng, tăng 44 bậc so năm 1990; tuy vậy, trong ASEAN-5 Việt Nam chỉ đứng trên Philipines.

Ảnh minh họa.

Theo kết quả điều tra hàng năm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các doanh nghiệp FDI chỉ mua khoảng 26,6% thiết bị, đầu vào từ doanh nghiệp Việt, còn lại là nhập khẩu và nhập từ công ty mẹ. Nguyên nhân xuất phát từ loại hình hoạt động, gần như doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Điều này sẽ hạn chế việc chuyển giao công nghệ tiên tiến cho doanh nghiệp nội như kỳ vọng và cam kết.

Về vấn đề chất lượng công nghệ, mặc dù các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam phần lớn có trình độ bằng hoặc cao hơn công nghệ sẵn có ở trong nước, nhưng mới chỉ đạt mức trung bình hoặc trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực. Thực tế cho thấy, có khoảng 80% dự án FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 14% ở mức thấp và lạc hậu và chỉ 5-6% sử dụng công nghệ cao.

Cho đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chính sách với mục tiêu ngăn ngừa nhập khẩu công nghệ lạc hậu, kém chất lượng, tiêu tốn nhiều năng lượng, nguyên vật liệu và gây ô nhiễm môi trường vào Việt Nam thông qua các dự án đầu tư. Việc kiểm soát thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng dần được siết chặt. Thông tư số 23/2015/TT-BKH&CN đưa ra quy định máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng phải đáp ứng điều kiện tuổi thiết bị không quá 10 năm và đã được sản xuất phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN), tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) hoặc tiêu chuẩn G7 về an toàn, tiết kiệm năng lượng và môi trường.

Tuy vậy, công tác kiểm soát nhập khẩu máy móc, thiết bị vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, trước đây, việc thẩm định về công nghệ tương ứng với giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư và giai đoạn quyết định đầu tư chưa được quy định rõ. Đặc biệt, là chưa có cơ chế quản lý nhập khẩu công nghệ ngoài Danh sách hạn chế nhập khẩu.

Để tăng cường công tác thẩm định công nghệ dự án đầu tư, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 đã dành một Chương quy định về công tác này, trong đó bổ sung các quy định, như: Mở rộng đối tượng dự án đầu tư cần phải thẩm định/có ý kiến về công nghệ trong từng giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư; Biện pháp quản lý đối với trường hợp chủ đầu tư điều chỉnh, thay đổi nội dung công nghệ đã được thẩm định; Hoạt động kiểm tra, giám sát trong quá trình triển khai, thực hiện; Nội dung giải trình về công nghệ và nội dung thẩm định về công nghệ tương ứng với từng giai đoạn quyết định chủ trương và giai đoạn quyết định đầu tư dự án; Trách nhiệm của các cơ quan trong việc thẩm định hoặc có ý kiến về công nghệ.

Trong thời gian tới, Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất điều chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan để có hành lang pháp lý đồng bộ về công tác thẩm định công nghệ trong dự án đầu tư. Bên cạnh đó, cần xây dựng chính sách nhập khẩu công nghệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội.

Theo sxsh.vn (15/8/2018)

Chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh tại doanh nghiệp

Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua khá cao, tuy nhiên đi đôi với tăng trưởng kinh tế là sử dụng tài nguyên chưa bền vững, chưa gắn với bảo vệ môi trường. Để chuyển đổi mô hình kinh tế nâu truyền thống sang mô hình tăng trưởng xanh, Việt Nam cần phải có các chính sách phù hợp.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Chí Sỹ, Giám đốc Trung tâm công nghệ môi trường (Thuộc Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam), cho biết, tăng trưởng xanh thể hiện qua thực hiện tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nước, giảm chi phí nhân công, phí môi trường trong sản xuất, giảm phát thải và sử dụng nguyên liệu, vật liệu thân thiện với môi trường.

Đối với hoạt động sản xuất, vấn đề cần thiết trước mắt là nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng, hạn chế những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm môi trường và tạo điều kiện phát triển cho các ngành sản xuất xanh mới.

Hình minh họa.

Thực tế cho thấy, doanh nghiệp trong nước hiện đang gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội về bảo vệ môi trường, lựa chọn công nghệ xanh, chuyển hướng sang sản xuất xanh cũng như tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.

Ví dụ, để đầu tư năng lượng Mặt trời cần diện tích rộng, trong khi giá thuê đất cao, đầu ra khó khăn vì giá điện bán ra thấp, khoảng 2.000 đồng/kWh, trong khi giá điện sản xuất đối với doanh nghiệp là 4.000 đồng/kWh. Vì vậy cần có chính sách ưu đãi về cho thuê đất xây dựng dự án và tăng giá mua điện tư nhân trong lĩnh vực năng lượng Mặt trời.

Để thúc đẩy tăng trưởng xanh, điều kiện tiên quyết là Chính phủ phải ban hành các chính sách thích hợp nhằm hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp cũng như nâng cao nhận thức, sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vào tăng trưởng xanh, làm cho tăng trưởng xanh phổ biến hơn nữa trong đời sống kinh tế-xã hội.

Nhà nước cần thiết kế và triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình hành động, kế hoạch thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo lộ trình thích hợp. Xây dựng và thực thi nghiêm ngặt các tiêu chuẩn, tiêu chí về kinh tế, kỹ thuật, môi trường… phù hợp với yêu cầu tăng trưởng xanh bảo đảm sự phát triển bền vững. Có cơ chế khuyến khích, ưu đãi các ngành ngành hàng phát triển, ứng dụng công nghệ cao, sử dụng năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; giảm và tiến tới không đầu tư vào những ngành hàng sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường và không thích ứng được với biến đổi khí hậu.

Theo sxsh.vn 

Trái đất có nguy cơ trở thành nhà kính khổng lồ

Các nhà khoa học cảnh báo các nước cần cấp tốc chuyển sang nền kinh tế xanh bởi ô nhiễm từ nhiên liệu hóa thạch sẽ đẩy Trái đất vào nguy hiểm về lâu dài.

Nếu băng ở các cực tiếp tục tan, rừng bị chặt phá và khí nhà kính gia tăng sau mỗi năm như hiện nay, Trái đất sẽ chuyển tiếp sang một giai đoạn mới.

“Khí hậu sẽ nóng hơn 4 – 5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp và mực nước biển dâng cao từ 10 – 60 m so với hiện nay. Điều đó sẽ tới chỉ trong vòng vài chục năm nữa”, các nhà khoa học cảnh báo vào ngày 6/8/2018.

Báo cáo được công bố trong lúc nắng nóng kinh hoàng đang hoành hành tại châu Âu và nhiều nơi trên thế giới. Nắng nóng dẫn đến cháy rừng ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Mỹ… làm tan chảy sông băng trên dãy núi Kebnekaise, Thụy Điển.

Ảnh chụp từ vệ tinh Copernicus cho thấy đợt nắng nóng thiêu đốt mùa hè 2018 làm biến đổi thảm thực vật châu Âu giữa tháng 6 và tháng 7.

Tảng băng trôi 11 triệu tấn đe dọa ngôi làng tại Greenland (Ảnh: CNN)

Trạng thái nhà kính là hiện tượng Trái đất nóng lên do giữ nhiệt từ Mặt trời thay vì phân tán nhiệt trở lại không gian bên ngoài, tương tự với nhà kính trồng cây.

“Trái đất trong trạng thái nhà kính là không thể kiểm soát được và gây nguy hiểm tới nhiều người”, theo nghiên cứu của Đại học Copenhagen, Đại học Quốc gia Australia và Viện Nghiên cứu Tác động Khí hậu Potsdam tại Đức.

Nước ở các hệ thống sông ngòi dâng cao, bão hoành hành tại vùng ven biển và những rặng san hô đối diện với nguy cơ biến mất. Tất cả những điều này có thể diễn ra vào cuối thế kỷ 21 hoặc thậm chí có thể sớm hơn.

Cũng theo nghiên cứu, nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ vượt mọi mức nhiệt của thời kỳ gian băng trong 1,2 triệu năm qua. Gian băng là thời kỳ xen giữa các Kỷ Băng Hà khi nhiệt độ Trái đất ấm hơn làm tan băng ở các cực, dẫn đến nước biển dâng cao đột ngột, làm ngập lụt vùng duyên hải và ảnh hưởng tới hàng trăm triệu người đang sống tại những khu vực này.

“Nhiều nơi trên Trái đất sẽ không thể sinh sống được nếu nhà kính Trái đất trở thành hiện thực”, đồng tác giả Johan Rockstrom – Giám đốc điều hành Trung tâm Phục hồi Stockholm, khẳng định.

Theo Giáng Hương/tapchimoitruong.vn

Pin năng lượng mặt trời có sạch như bạn vẫn nghĩ?

Pin năng lượng mặt trời vốn được xem là góp phần đáng kể vào việc cung cấp năng lượng mà không gây ra phát thải. Song pin năng lượng mặt trời có sạch như nhiều người vẫn nghĩ?

Ô nhiễm từ sản xuất pin mặt trời

Pin mặt trời tinh thể: Có nhiều công nghệ sản xuất năng lượng mặt trời nhưng đại đa số các tế bào quang điện ngày nay được chế tạo từ thạch anh, dạng phổ biến nhất của silica (silicon dioxide), được tinh chế thành silicon nguyên tố. Đó là vấn đề đầu tiên: thạch anh được khai thác từ mỏ và điều này đặt các công nhân mỏ vào nguy cơ mắc phải một trong những bệnh nghề nghiệp: bệnh nhiễm bụi phổi.

Bước xử lý đầu tiên là chuyển thạch anh thành silicon ở cấp độ luyện kim. Việc này được tiến hành trong những lò nung khổng lồ và chúng tiêu hao rất nhiều năng lượng để giữ nhiệt độ cao.

Bước xử lý kế tiếp là biến silicon ở cấp độ luyện kim thành một dạng tinh khiết hơn có tên gọi là polysilicon (silicon đa tinh thể) – tạo ra hợp chất SiCl4 rất độc hại. Thu silicon từ SiCl4 tiêu tốn ít năng lượng hơn so với việc thu silicon từ silica, việc tái sử dụng giúp nhà sản xuất tiết kiệm chi phí. Nhưng các thiết bị tái xử lý có giá lên đến hàng chục triệu USD.

Có nhiều công nghệ sản xuất năng lượng mặt trời nhưng đại đa số các tế bào quang điện ngày nay được chế tạo từ thạch anh.

Do vậy, cần có các quy định ngặt nghèo đối với việc lưu trữ và xử lý chất thải SiCl4. Trong năm 2011 Trung Quốc đặt ra các tiêu chuẩn yêu cầu công ty phải tái sử dụng ít nhất 98,5% lượng chất thải SiCl4.

NREL cũng đã tìm kiếm các phương pháp chế tạo polysilicon từ ethanol thay vì các chất hóa học chứa Clo, nhờ đó tránh hoàn toàn được việc tạo ra SiCl4.

Các nhà sản xuất pin mặt trời tinh chế các khối polysilicon thành những thỏi silicon và cắt nó ra thành các tấm wafer (tấm nền). Sau đó, họ đưa các tạp chất có chủ định vào các tấm wafer để tạo ra những cấu trúc pin mặt trời có khả năng tạo ra hiệu ứng quang điện.

Những bước xử lý này sử dụng các chất hóa học nguy hiểm. Chẳng hạn như các nhà sản xuất sử dụng axit HF để làm sạch các tấm nền, loại bỏ các hư hỏng trong quá trình cắt và xử lý bề mặt để thu nhận ánh sáng tốt hơn. Axit HF khi tiếp xúc với một người không được trang bị thiết bị bảo hộ, có thể phá hủy các mô và làm giảm canxi trong xương.

Giải pháp hiện đang được nhiều nhà sản xuất áp dụng đó là thay thế bằng NaOH. Mặc dù bản thân NaOH là một chất ăn da, nó vẫn dễ xử lý và thải ra hơn là HF.

Pin mặt trời thin-film

Các nhà sản xuất pin mặt trời bằng công nghệ màng mỏng tạo ra các lớp vật liệu bán dẫn trực tiếp trên một tấm kính, kim loại hay nhựa thay vì dùng các tấm wafer được cắt ra từ các thỏi silicon. Công nghệ này tạo ra ít chất thải hơn và tránh được hoàn toàn các công đoạn nấu chảy, kéo và cắt được dùng trong cách chế tạo pin mặt trời tinh thể. An toàn trong sản xuất do nó không dùng đến một số chất hóa học nguy hại – không axit HF hay axit HCL.

Các công nghệ thin-film ngày nay chủ yếu là CdTe (Cadmium telluride) và CIGS (copper indium gallium selenide). Ở công nghệ thứ nhất, một lớp bán dẫn được tạo ra từ các Cadmium telluride và lớp thứ 2 được tạo ra từ Cadmium sulfide. Còn ở công nghệ thứ 2, vật liệu bán dẫn chính là CIGS, nhưng lớp thứ 2 thường là Cadmium sulfide. Vậy các công nghệ này đều sử dụng các hợp chất chứa kim loại nặng cadmium. Đây là chất gây cả ung thư và biến đổi gen.

Các nước cố gắng phát triển các pin mặt trời dùng công nghệ thin-film mà không sử dụng các thành phần độc hại như Cadmium hay các nguyên tố khan hiếm như tellunrium. First Solar vẫn liên tục giảm lượng cadmium được dùng trong pin mặt trời của mình.

Các vấn đề khác

Tiêu tốn nhiều năng lượng

Sản xuất pin mặt trời tinh thể tiêu tốn nhiều năng lượng. Các nhà phân tích đánh giá ảnh hưởng của năng lượng dùng trong sản xuất pin mặt trời theo quy đổi phát thải CO2. Tuy nhiên, hệ số phát thải CO2 ở các quốc gia lại khác nhau.

Tiêu tốn nước

Các công ty sản xuất pin mặt trời dùng rất nhiều nước cho các mục đích khác nhau, bao gồm làm mát xử lý hóa học và kiểm soát ô nhiễm không khí. Tuy nhiên, sự hao phí nhiều nhất là trong quá trình lắp đặt và sử dụng. Mặc dù vậy, lượng nước dùng trong sản xuất, lắp đặt và vận hành pin mặt trời vẫn thấp hơn nhiều so với lượng nước cần cho các nhà máy nhiệt điện.

Những thách thức khi tái chế bảng điều khiển pin năng lượng mặt trời

Tái chế tấm năng lượng mặt trời không phải là nhiệm vụ dễ dàng, bởi vì các tấm pin mặt trời được lắp ráp từ nhiều vật liệu khác nhau, bao gồm: Kính (gồm mặt trước của hầu hết các tấm pin); khung nhôm; vật liệu tổng hợp được sử dụng để đóng gói và miên phong các tế bào silicon – có thể bao gồm các chất như ethylene-vinyl ecetate (EVA), polyvinyl butyral (PVB) và/hoặc polyvinyl florua.

Tế bào năng lượng mặt trời silicon

Các kim loại như chì, đồng, gallium và cadmium

Tái chế thích hợp các tấm pin mặt trời là yêu cầu các vật liệu khác nhau này phải được tách ra và thu hồi với tỷ lệ cao. Các vật liệu sau đó có thể được tái sử dụng để sản xuất  các tấm mới, hoặc các ứng dụng công nghiệp khác. Các tế bào silicon thường có thể phục hồi để được sử dụng một lần nữa. Điều này là quan trọng, bởi vì việc tạo các tế bào silicon mới là một quá trình tốn nhiều năng lượng.

Tái chế tấm năng lượng mặt trời không phải là nhiệm vụ dễ dàng.

Hiệp hội tái chế bảng điều khiển năng lượng mặt trời châu Âu PV cycle đã phát triển một quy trình mà hơn 95% vật liệu của bảng điều khiển có thể được phục hồi.

Tại châu Âu, việc xử lý bảng điều khiển năng lượng mặt trời chỉ thuộc chất thải điện và điện tử của Liên minh châu Âu (WEEE) và được quy định nghiêm ngặt. Chưa có quy trình phổ biến nào của Hoa Kỳ ở cấp liên bang, ngoại trừ một số nhóm không tuân thủ quy trình kiểm tra tính độc tính (thử nghiệm TCLP) và do đó tuân theo Đạo luật bảo tồn và khôi phục tài nguyên (RCRA). Tuy nhiên, California đã ban hành quy định quản lý việc xử lý bảng điều khiển năng lượng mặt trời và có khả năng các quốc gia khác sẽ tuân thủ trong tương lai.

Thách thức xử lý cuối vòng đời, điều này được tiếp cận tốt nhất như là một nỗ lực chung giữa nhà sản xuất, nhà cung cấp, người tiêu dùng và cơ quan điều tiết.

VNCPC

GEF lần thứ 6 – Những định hướng bảo vệ môi trường trên toàn cầu trong giai đoạn tới

Sau một tuần diễn ra các phiên họp chính và chuỗi các sự kiện liên quan, kỳ họp Đại hội đồng Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) lần thứ 6 đã kết thúc tốt đẹp vào ngày 29/7/2018 tại Đà Nẵng.

Đây là sự kiện quốc tế có tầm vóc và quy mô lớn nhất về tài nguyên và môi trường từ trước đến nay do Việt Nam đăng cai. Tại các kỳ họp này, nhiều vấn đề môi trường toàn cầu quan trọng đã được thảo luận và xác định giải pháp thông qua chương trình nghị sự và kế hoạch ngân sách cho chu kỳ 7, chính sách thực hiện và một số chủ đề liên ngành trọng tâm.

Chương trình nghị sự và kế hoạch ngân sách cho chu kỳ 7

Quá trình thương lượng về Chương trình nghị sự và kế hoạch ngân sách cho chu kỳ 7 diễn ra hơn 1 năm thông qua 4 vòng đàm phán. Đây là quá trình thương lượng phức tạp nhất kể từ khi GEF thành lập từ năm 1992 đến nay với một số lý do chính. Thứ nhất, các nước tài trợ cho GEF ngày một chặt chẽ hơn trong việc đưa ra yêu cầu sử dụng kinh phí hiệu quả.

Ngoài việc chất lượng dự án, các nước tài trợ còn yêu cầu tăng tỷ lệ kinh phí đồng tài trợ từ nguồn lực khác, cũng như sự tham gia của khối tư nhân. Thứ hai, việc Hoa Kỳ là nước tài trợ lớn của GEF trong các chu kỳ trước cắt giảm ngân sách hỗ trợ các hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT) nói chung và ngân sách tài trợ cho GEF nói riêng cũng ảnh hưởng đáng kể đến nguồn lực của GEF cũng như các cam kết tài trợ từ các nước khác.

Thứ ba, số lượng cơ quan thực hiện của GEF từ 12 năm 2013 đã tăng lên 18 năm 2018. Các cơ quan này có những chính sách và định hướng khác nhau, dẫn đến những ý kiến không đồng nhất trong quá trình thương lượng cho chu kỳ 7. Ngoài ra, các nước nhận viện trợ cũng đã quyết liệt hơn, đòi hỏi tính chủ động và tự chủ quốc gia trong phần ngân sách phân bổ.

Sự khác biệt về quan điểm giữa các bên liên quan đã tạo áp lực lớn trong việc đạt được thỏa thuận chung. Tuy nhiên, sau 3 ngày nhóm họp từ 24-26/6/2018, Hội đồng GEF đã thông qua Chương trình nghị sự và kế hoạch ngân sách cho chu kỳ 7 từ 1/7/2018 đến 30/6/2020. Nội dung này đã được Hội nghị Đại hội đồng GEF thông qua trong các phiên họp từ 27- 28/7/2018. Đây là kết quả quan trọng nhất của Hội nghị. Theo các kế hoạch được phê duyệt, trong 4 năm tới, ngân sách GEF toàn cầu là 4,1 tỷ USD, được phân bổ cho các dự án và hoạt động quản lý hành chính. Phần kinh phí được phân bổ cho các lĩnh vực trọng tâm, gồm: Đa dạng sinh học (ĐDSH) 1,292 tỷ USD; 802 triệu USD BĐKH và 475 triệu USD cho suy thoái đất.

Trong đó, phần phân bổ trực tiếp cho các nước thông qua hệ thống phân bổ nguồn lực minh bạch (STAR) lần lượt: ĐDSH1,031 tỷ USD; BĐKH 511 triệu USD và suy thoái đất 354 triệu USD. Phần còn lại sẽ dành cho các dự án khu vực và toàn cầu. Trong 3 lĩnh vực ưu tiên được phân bổ trực tiếp cho các nước, BĐKH chịu cắt giảm nhiều nhất, khoảng 40% so với chu kỳ 6, do sự ra đời của Quỹ Khí hậu xanh GCF, một cơ chế tài chính riêng biệt cho BĐKH.

Nguồn: GEF Secretariat 2018

Với Việt Nam, kinh phí cho chu kỳ 7 trong hệ thống STAR là 18,1 triệu USD, giảm gần 30% so với chu kỳ 6. Nguyên nhân là kinh phí cho các nước nhận viện trợ giảm, do tổng kinh phí toàn cầu giảm từ 4,43 trong chu kỳ 6 còn 4,1 tỷ USD cho chu kỳ 7. Ngoài ra, GDP là một trong những trọng số quan trọng để tính ngân sách phân bổ theo STAR, và GDP bình quân đầu người trong 4 năm qua của Việt Nam đã tăng từ 1,870 USD năm 2013 lên 2,343 năm 2017. Phần kinh phí cho Việt Nam thông qua STAR bao gồm: ĐDSH 13 triệu USD, BĐKH 3,62 triệu USD và suy thoái đất 1,39 triệu USD.

Trong phần ngân sách thông qua STAR, các nước sẽ có quyền chủ động điều chỉnh giữa các lĩnh vực ưu tiên. 61 nước có tổng kinh phí từ STAR dưới 7 triệu đô la có thể điều chỉnh mà không có hạn mức. Các nước kinh phí STAR trên 7 triệu có thể điều chỉnh giữa các lĩnh vực trọng tâm nhưng không được quá 2 triệu đô hoặc 13% tổng kinh phí STAR, tùy thuộc con số nào cao hơn. Việt Nam nằm trong số các nước này, với mức trần có thể điều chỉnh giữa các lĩnh vực trọng tâm là 2,34 triệu USD.

Theo đó, mục tiêu chính của 3 lĩnh vực trọng tâm trong phân bổ STAR bao gồm: tăng cường lồng ghép ĐDSH vào các lĩnh vực, cũng như sinh cảnh đất liền và trên biển; tập trung các hoạt động chính yếu bảo tồn loài và nơi cư trú của loài; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng thể chế và chính sách ĐDSH; cải tiến và chuyển giao công nghệ nhằm tạo đột phá cho năng lượng bền vững; trình diễn các phương án giảm phát thải có hiệu quả hệ thống; tăng cường điều kiện hỗ trợ lồng ghép giảm phát thải vào các chiến lược phát triển bền vững; hỗ trợ các giải pháp cụ thể nhằm quản lý đất bền vững và tăng cường điều kiện hỗ trợ thực hiện giảm suy thoái đất.

Ngoài 3 lĩnh vực trọng tâm được phân bổ kinh phí qua STAR, GEF 7 tiếp tục hỗ trợ dự án thuộc lĩnh vực các vùng nước quốc tế, hóa chất, chất thải và quản lý rừng bền vững thông qua kinh phí ngoài STAR. Phân bổ kinh phí cho các dự án ngoài STAR sẽ duy trì theo nguyên tắc đề xuất dự án nào chất lượng tốt sẽ được xem xét trước.

Mục tiêu chính của các lĩnh vực trọng tâm ngoài STAR bao gồm: Tăng cường các cơ hội phát triển kinh tế biển; quản lý ở các vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia; tăng cường an ninh nguồn nước tại các hệ sinh thái nước ngọt; các chương trình hóa chất công nghiệp, nông nghiệp; hỗ trợ các đảo quốc và các quốc gia kém phát triển và hoạt động hỗ trợ thực hiện các công ước.

Bên cạnh đó, GEF 7 tiếp tục 3 Chương trình tổng hợp và đã triển khai từ GEF 6, bao gồm lương thực và sử dụng đất, thành phố bền vững, quản lý rừng bền vững. Kinh phí cho các chương trình này được phân bổ ngoài STAR, theo tiêu chí mức độ đóng góp vào giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu.

Chính sách thực hiện các dự án GEF

Cũng trong kỳ họp Đại hội đồng, một số chính sách thực hiện dự án GEF cũng được thông qua, bao gồm: tỷ lệ đồng tài trợ giữa dự án GEF và các nguồn lực khác, tăng cường quan hệ đối tác trong thực hiện các dự án GEF và lồng ghép các nội dung về giới.

Các đại biểu quốc tế tham gia tọa đàm tại phiên bế mạc kỳ họp GEF 6.

Về tỷ lệ đồng tài trợ, Đại hội đồng đã thông qua việc nâng tỷ lệ 5:1 trong chu kỳ 6 lên 7:1 trong chu kỳ 7, nghĩa là 1 USD viện trợ của GEF sẽ có 7 USD đồng tài trợ từ các nguồn khác, bao gồm: Chính phủ, các tổ chức quốc tế đối tác, khối tư nhân, cộng đồng. Tuy nhiên, đây là mục tiêu cho tổng các dự án do GEF tài trợ, không bắt buộc riêng từng dự án. Ngoài ra, khái niệm về đồng tài trợ cũng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất các các nguồn lực được huy động để cùng thực hiện các dự án GEF.

Về tăng cường quan hệ đối tác trong việc thực hiện các dự án GEF, Đại hội đồng đã thông qua đề xuất xóa bỏ yêu cầu giới hạn kinh phí dự án GEF chiếm 20% tổng kinh phí các dự án của 8 cơ quan thực hiện mới tham gia GEF. Qua đó giảm sự phân biệt giữa các cơ quan thực hiện GEF truyền thống (ngân hàng đa phương và tổ chức thuộc UN) với các cơ quan thực hiện mới của GEF (như IUCN và WWF). Nhờ chính sách mới này, các cơ quan mới của GEF sẽ có điều kiện tiếp cận và thực hiện nhiều dự án hơn.

Đại hội đồng cũng thông qua một số chính sách liên quan đến việc tăng cường các nội dung về giới trong các dự án GEF, tham vấn với các tổ chức phi chính phủ, sự tham gia của khối tư nhân. Tuy nhiên, các nội dung này mới có tính định hướng, cần tiếp tục các văn bản cụ thể hóa.

Có thể nói, Hội nghị Đại hội đồng GEF lần thứ 6 đã mở ra những định hướng quan trọng cho hoạt động BVMT trên toàn cầu trong giai đoạn 4 năm tới. Mặc dù không có nhiều thay đổi về các lĩnh vực trọng tâm ưu tiên song sẽ cần có những cải tiến trong cách thức xây dựng đề xuất dự án và vận động tài trợ để tăng cường tiếp cận và sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ GEF, cơ chế tài chính cho môi trường lớn nhất toàn cầu.

Theo TS. Đỗ Nam Thắng – Quỹ Môi trường toàn cầu (Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 7/2018)

Đảm bảo an ninh năng lượng: Cơ hội và thách thức

Theo nội dung tờ trình số 12005/TTr – BCT ngày 21 tháng 12 năm 2017 đã được Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển năng lượng giai đoạn 2016 – 2025, định hướng đến năm 2035 như sau:

Mục tiêu tổng quát:

Huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển năng lượng để đảm bảo cung cấp đầy đủ năng lượng với chất lượng ngày càng cao và mức giá hợp lý cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Sử dụng đa dạng và hợp lý các nguồn năng lượng sơ cấp trong và ngoài nước.

Đẩy mạnh các hoạt động sử dụng hiệu quả năng lượng và khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo nhằm góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, giảm sự phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu, giảm nhẹ biến đổi khí hậu, tăng cường bảo vệ môi trường và hoàn thành các mục tiêu phát triển năng lượng – kinh tế – xã hội bền vững.

Từng bước xây dựng các thị trường năng lượng cạnh tranh nhằm tăng hiệu quả hoạt động và khuyến khích đầu tư phát triển năng lượng sạch.

Mục tiêu cụ thể:

Cung cấp đầy đủ các dạng năng lượng trong nước, đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của các nước với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2016 – 2035.

Tổng cung cấp năng lượng sơ cấp năm 2025 đạt từ 137 – 147 triệu tấn dầu tương đương; từ năm 2035  từ 218 – 238 triệu tấn dầu tương đương. Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng năm 2025 đạt từ 83 – 89 triệu tấn dầu tương đương; năm 2035 từ 121-135 triệu tấn dầu tương đương.

Xây dựng các cơ sở lọc dầu đảm bảo nguồn cung tối thiểu 70% nhu cầu trong nước vào năm 2035. Dự trữ chiến lược về đầu thô và các sản phẩm xăng dầu đạt 90 ngày nhập ròng vào năm 2020.

Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng: tỷ lệ tiết kiệm năng lượng của tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so sánh với kịch bản phát triển bình thường đến năm 2025 đạt 6% đến năm 2035 đặt 10%.

Thúc đẩy các dạng năng lượng tái tạo, bao gồm: thủy điện vừa và nhỏ, năng lượng gió, mặt trời, sinh khối, khí sinh học, nhiên liệu sinh học. Thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng năng lượng tái tạo trong sản xuất điện, sản xuất nhiệt và nhiên liệu giao thông. Duy trì tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng cung cấp năng lượng sơ cấp ở trên mức 35% đến năm 2035.

Giảm thiểu biến đổi khí hậu trong phát triển năng lượng: giảm phát thải CO2 từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường 12% vào năm 2025, đạt 15% vào năm 2030 và đạt mức 18% vào năm 2035.

Tiếp tục thực hiện lộ trình phát triển thị trường điện lực; phát triển thị trường tiêu thụ khí đốt theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.

Những thách thức trong đảm bảo an ninh năng lượng

Nhận diện những thách thức chủ yếu mà ngành năng lượng Việt Nam đã đang và sẽ đối mặt như sau: Hạn chế về nguồn cung năng lượng sơ cấp trong nước dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu, đặc biệt nhiên liệu cho phát điện. Khi Việt Nam trở thành quốc gia nhập khẩu tịnh năng lượng và tỷ trọng của năng lượng nhập khẩu trên tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp tăng lên sẽ tác động lớn đến an ninh năng lượng quốc gia.

Tốc độ tăng cao nhu cầu năng lượng gây sức ép lên hạ tầng cơ sở ngành năng lượng, đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong bối cảnh nợ công tăng cao và quá trình cổ phần hóa chưa thuận lợi.

Thách thức về các tác động môi trường của các hoạt động cung cấp năng lượng sẽ ngày càng gia tăng do nhu cầu năng lượng trong nước tăng nhanh, đi kèm với sự gia tăng nhanh chóng về tỷ trọng các nguồn nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là than trong cơ cấu nguồn cung năng lượng.

Kết quả 10 năm thực hiện chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050

Kết quả thực hiện chiến lược phát triển năng lượng 10 năm

Sau gần 10 năm thực hiện chiến lược, nhìn chung ngành năng lượng Việt Nam đã có những kết quả tích cực theo các định hướng chiến lược đề ra và đạt được một số mục tiêu cụ thể của chiến lược. Tuy nhiên, cũng có một số mục tiêu đã không thể thực hiện.

Với những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế – xã hội như tăng trưởng nhu cầu năng lượng và điện nông thôn, những mục tiêu Chiến lược đã có thể đạt được. Đối với những vấn đề liên quan đến phát triển hệ thống năng lượng như chiến lược dự trữ dầu, điện hạt nhân và liên kết hệ thống năng lượng, các mục tiêu chưa đạt được, hoặc đã không còn phù hợp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc không đạt các mục tiêu trong chiến lược đề ra trong đó có những biến động lớn toàn cầu trong giai đoạn một thập kỷ qua như: suy thoái kinh tế toàn cầu những năm 2008 – 2009 và sự biến động mạnh của giá nhiên liệu trên thế giới. Những yếu tố này khiến tính chính xác của các kết quả dự báo bị ảnh hưởng mạnh cũng như ảnh hưởng đến quyết định đầu tư phát triển hạ tầng năng lượng trong giai đoạn vừa qua.

Chiến lược phát triển năng lượng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050

Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam được phê duyệt vào năm 2007 với những mục tiêu cụ thể như sau:

Phấn đấu đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội: Trong đó NLSC năm 2010 khoảng 47,5 – 49,5 triệu TOE (tấn dầu quy đổi); đến năm 2020 đạt khoảng 100 – 110 triệu TOE, đến năm 2025  khoảng 110 – 120 triệu tấn TOE và đến năm 2050 khoảng 310 – 320 triệu TOE.

Nâng cao độ chính xác trong việc đánh giá trữ lượng các nguồn năng lượng sơ cấp;

Phát triển nguồn, lưới điện, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế – xã hội, đến năm 2010 độ tin cậy cung cấp của nguồn điện là 99,7% và lưới điện bảo đảm tiêu chuẩn n-1.

Phát triển các nhà máy lọc dầu, đưa tổng công suất các nhà máy lọc đầu lên khoảng 25 – 30 triệu tấn đầu thô vào năm 2020.

Phấn đấu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 3% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010; khoảng 5% vào năm 2020 và 11% vào năm 2050.

Bảo đảm mức dự trữ chiến lược xăng dầu quốc gia đạt 45 ngày tiêu thụ bình quân vào năm 2010, đạt 60 ngày vào năm 2020 và dạt 90 ngày vào năm 2025.

Hoàn thành chương trình năng lượng nông thôn, miền núi: đưa tổng số hộ nông thôn sử dụng năng lượng thương mại để đun nấu lên 50% vào năm 2010 và 80% vào năm 2020. Đến năm 2010 đạt 95% số hộ nông thôn có điện, đến năm 2020 hầu hết số hộ nông thôn có điện;

Xây dựng các mục tiêu, tiêu chuẩn dài hạn về môi trường theo hướng thống nhất với tiêu chuẩn môi trường khu vực và thế giới, phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước. Kiểm soát và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động năng lượng; đến năm 2015 tất cả các công trình năng lượng phải đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường.

Chuyển mạnh các ngành điện, than, dầu khí sang hoạt động theo cơ chế thị trường cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước, hình thành thị trường bán lẻ cạnh tranh điện giai đoạn sau 2020, thị trường kinh doanh than, dầu khí từ nay đến năm 2015.

Tích cực chuẩn bị để đưa tổ máy điện hạt nhân đầu tiên vận hành vào năm 2020, đến năm 2050 năng lượng điện hạt nhân chiếm khoảng 15 – 20% tổng tiêu thụ năng lượng thương mại toàn quốc (tạm dừng giai đoạn đến năm 2030).

Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng, phấn đấu thực hiện liên kết lưới điện khu vực bằng cấp điện áp đến 50 kV từ năm 2010 – 2015, thực hiện liên kết hệ thống khí thiên nhiên khu vực từ năm 2015 – 2020.

Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 đóng  vai trò là chiến lược khung hay chiến lược tổng thể của toàn ngành năng lượng để làm cơ sở cho việc lập quy hoạch của các phân ngành năng lượng (điện, than, dầu khí, năng lượng tái tạo) trong các giai đoạn. Các quy hoạch các phân ngành năng lượng trong các giai đoạn sẽ căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội đất nước, những biến đổi về tình hình cung cấp năng lượng trên thế giới để cụ thể hóa việc phát triển các phân ngành năng lượng cho mỗi thời kỳ phù hợp.

Theo Cục Điện lực và Năng lượng Tái tạo – Bộ Công Thương