Posts

Tiêu thụ than toàn cầu tiếp tục mạnh trong thời gian tới

Cơ quan năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết, nhu cầu toàn cầu về than chắc chắn đạt đỉnh vào năm 2013, nhưng nó vẫn còn đáng kể. Sau đợt sụt giảm lịch sử vào năm 2020, than không có khả năng giảm trong những năm tiếp theo do nhu cầu sử dụng tăng ở châu Á.

Nguồn năng lượng chính thứ hai trên thế giới, than đá, đặc biệt được sử dụng để sản xuất điện, đã có xu hướng giảm trong vài năm qua. Và vào năm 2020, mức tiêu thụ của nó giảm 5% do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng y tế, mức sụt giảm lớn nhất được ghi nhận kể từ Thế chiến II, theo báo cáo Coal 2020 của IEA.

Dự kiến kinh tế thế giới ​​sẽ phục hồi 2,6% vào năm 2021, điều này sẽ đẩy bởi nhu cầu điện cũng như khí đốt tăng. “Có rất ít dấu hiệu cho thấy tiêu thụ than toàn cầu có thể giảm đáng kể trong những năm tới, với nhu cầu ngày càng tăng từ một số nền kinh tế châu Á bù đắp cho sự sụt giảm ở những nơi khác”, IEA nhấn mạnh, coi đây là “một thách thức lớn” trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.

Năm 2025, nhu cầu than dự kiến ​​là 7,4 tỷ tấn. Điều này sẽ khiến năm 2013, với 8 tỷ tấn, trở thành năm đỉnh điểm của than.

Năm 2018 và 2019, nhu cầu than toàn cầu giảm mạnh, đặc biệt là ở Hoa Kỳ và châu Âu, do tiêu thụ điện giảm và cạnh tranh từ khí đốt giá rẻ. Nhưng nếu tỷ trọng than giảm trong hỗn hợp điện và năng lượng, thì việc sử dụng than với số lượng tuyệt đối “sẽ không giảm nhanh trong tương lai”, IEA lưu ý.

“Năng lượng tái tạo đang trên đà trở thành nguồn cung cấp điện đầu tiên, trước cả than đá vào năm 2025. Và khi đó, khí đốt chắc chắn sẽ chiếm vị trí thứ 2 của than, sau dầu mỏ”, Keisuke Sadamori, giám đốc thị trường năng lượng tại IEA, lưu ý. Ông cho biết thêm: “Nhưng với sự đình trệ hoặc gia tăng nhu cầu về than dự kiến ​​ở các nền kinh tế lớn của châu Á, ngày nay không có bằng chứng nào cho thấy than sẽ biến mất nhanh chóng. “Ngay cả khi thế giới nỗ lực để chuyển đổi sang năng lượng sạch, sẽ cần nhiều thời gian để thoát khỏi sự phụ thuộc vào than đá”.

Trung Quốc và Ấn Độ chiếm 65% nhu cầu than toàn cầu. Với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Đông Nam Á, mức sử dụng thanh là 75%. Các chuyên gia đang đặc biệt chú ý đến Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ một nửa lượng than của thế giới, sẽ trình bày kế hoạch 5 năm mới vào đầu năm 2021 như thế nào.

Nh.Thạch/AFP
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/tieu-thu-than-toan-cau-tiep-tuc-manh-trong-thoi-gian-toi-591163.html

Thế giới đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn cung dầu trong dài hạn

Theo Reuters, các nhà phân tích năng lượng hàng đầu cho biết, việc suy giảm đầu tư vào thăm dò và khoan mới toàn cầu có thể khiến thế giới không đủ dầu mỏ trong vòng 20-30 năm tới bất chấp sự chuyển dịch sang các nguồn năng lượng tái tạo.

Triển vọng dài hạn trái ngược với tình hình hiện nay khi nhu cầu sụt giảm do cuộc khủng hoảng Covid-19 đã khiến thị trường cung vượt cầu, buộc các nước sản xuất dầu trong liên minh OPEC+ phải hạn chế sản lượng.

Nhu cầu yếu đã gây áp lực lên các nhà sản xuất và các công ty dầu khí toàn cầu khi họ phải tìm cách chuyển hướng sang các nguồn năng lượng carbon thấp. Điều này đã cắt giảm ngân sách đầu tư của các công ty dầu khí vào các tài sản dầu khí mới nhằm đáp ứng nhu cầu dầu thô dự kiến tăng khi nền kinh tế toàn cầu phục hồi.

IEA cho biết, hiện chưa rõ liệu đầu tư đầy đủ vào các nguồn cung dầu thô có kịp thời hay không và nếu có thì nguồn đầu tư sẽ đến từ đâu. Theo IEA, không có gì đảm bảo chắc chắn nguồn cung dầu dài hạn đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ.

Rystad Energy cho biết trong báo cáo của mình rằng, thế giới sẽ cạn kiệt nguồn cung dầu thô vào năm 2050 trừ khi hoạt động thăm dò tăng mạnh. Hãng cho biết, thế giới cần khoản đầu tư 3.000 tỷ USD để khai thác 313 tỷ thùng dầu mới từ các mỏ kém phát triển hiện nay hoặc từ các mỏ mới chưa được khám phá. Phạm vi thăm dò sẽ phải mở rộng đáng kể trừ khi sự chuyển đổi năng lượng toàn cầu đạt tốc độ nhanh hơn dự kiến.

Wood Mackenzie cho biết, những phát hiện dầu khí hiện nay cần đầu tư để đáp ứng nhu cầu dầu mỏ trong tương lai. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ hiện tại vẫn đang ở mức thấp trong khi chi phí phát triển tài nguyên mới cao và những rủi ro liên quan đã ngăn cản các công ty dầu khí hành động. Chỉ khoảng 50% nguồn cung cần thiết được đảm bảo đến năm 2040. 50% còn lại đòi hỏi nguồn vốn mới đầu tư để phát triển.

Viễn Đông
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/the-gioi-doi-mat-voi-tinh-trang-thieu-hut-nguon-cung-dau-trong-dai-han-590828.html

“Chạy đua” lắp trại điện gió khổng lồ ngoài khơi

Các trang trại điện gió ngoài khơi có tiềm năng gây nóng lên toàn cầu (Global Warming Potential) rất thấp trên một đơn vị điện năng được tạo ra, tương tự như các trang trại gió trên đất liền. Các dự án gió ngoài khơi cũng có ưu điểm là hạn chế ảnh hưởng của tiếng ồn và cảnh quan so với các dự án trên đất liền.

Theo CNBC, Tập đoàn năng lượng SSE của Anh và đối tác Na Uy là Equinor vừa công bố đã hoàn thành một thỏa thuận tài trợ cho dự án trang trại điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới Dogger Bank trị giá 8 tỷ USD.

Trang trại sẽ có tổng công suất 3,6 GW. Hai giai đoạn đầu của trang trại điện gió sẽ được xây dựng đồng thời, mỗi giai đoạn có công suất 1,2 GW. Giai đoạn thứ 3 của dự án đang được phát triển theo một lịch trình khác, dự kiến kết thúc vào cuối năm 2021.

Trang trại điện gió Dogger Bank nằm ở Biển Bắc, ngoài khơi phía đông bắc nước Anh. SSE Renewables sẽ chịu trách nhiệm về giai đoạn xây dựng và Equinor sẽ phụ trách hoạt động.

Tổng cộng 3 giai đoạn được lên kế hoạch từ nay đến năm 2026, khi hoàn thành sẽ tạo ra trang trại điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới.

“Chạy đua” lắp trại điện gió khổng lồ ngoài khơi


Mô phỏng turbine gió ngoài khơi của Mỹ.

Các giai đoạn 1 và 2 sẽ sử dụng tuabin Haliade-X 13 MW của hãng GE Renewable Energ, có khả năng cung cấp năng lượng cho 4,5 triệu ngôi nhà ở Anh hằng năm. Công việc xây dựng trên bờ cho dự án đã bắt đầu vào đầu năm nay.

Tháng trước, Thủ tướng Anh Boris Johnson cho biết ông muốn nước này trở thành nước dẫn đầu thế giới về sản xuất điện sạch chi phí thấp.

Còn tại Mỹ – nền kinh tế lớn nhất thế giới, công ty Vineyard Wind cũng vừa công bố kế hoạch xây dựng trang trại điện gió ngoài khơi quy mô lớn đầu tiên tại nước này với những turbine cao tới 260 m.

Trang trại bao gồm hơn 60 turbine gió khổng lồ sẽ được lắp đặt cách bờ biển Martha’s Vineyard ở bang Massachusett khoảng 24 km. Khi vận hành đầy đủ vào năm 2023, cơ sở sẽ tạo ra đủ năng lượng để cung cấp cho 400.000 hộ gia đình ở vùng New England.

Với chiều cao lên tới 260 m, mỗi turbine Haliade-X của hãng GE Renewable Energy có công suất thiết kế lên tới 13 MW, mạnh mẽ đến mức một vòng quay của cánh quạt có thể sản xuất đủ điện cho một hộ gia đình sử dụng trong 2ngày.

Khi hoạt động hết công suất, trang trại Vineyard Wind với tổng cộng 62 turbine có thể tạo ra 312 MWh điện/ngày.

Dự án trại điện gió ngoài khơi quy mô lớn đầu tiên ở Mỹ của Vineyard Wind còn được kỳ vọng sẽ giúp cắt giảm hơn 1,6 triệu tấn khí thải carbon mỗi năm, qua đó góp phần đáng kể vào mục tiêu chống biến đổi khí hậu của Khối Thịnh vượng chung (Commonwealth).

Vineyard Wind cho biết việc xây dựng trang trại sẽ bắt đầu vào nửa cuối năm 2021 với vốn đầu tư lên tới 3 tỷ USD. Công ty ban đầu có kế hoạch lắp đặt 84 turbine gió nhưng sau đó rút xuống còn 62 do một số trở ngại. Mỗi turbine dự kiến được đặt cách nhau ít nhất 1,3 km.

Cuối năm ngoái, Trung Quốc đã phát triển turbine gió ngoài khơi lớn nhất châu Á tại thành phố Trùng Khánh, phía tây nam nước này. Thiết bị, có tên mã là H210-10MW, do công ty năng lượng HZ Windpower thuộc Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Trung Quốc phát triển, với các turbine gió có đường kính cánh quạt lớn hơn 200 m.

H210-10MW có công suất thiết kế 10 MW. Khi đi vào hoạt động, mỗi turbine ước tính tạo ra sản lượng điện lên tới 40 triệu kWh mỗi năm, cao gấp đôi các mẫu turbine gió hiện nay.

Turbine H210-10MW sẽ được lắp đặt tại các trang trại điện gió ven biển ở tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông.

Trung Quốc hiện là quốc gia đứng đầu thế giới trong việc phát triển điện gió. Năm ngoái, các trang trại điện gió trên cạn và ngoài khơi của nước này cho sản lượng điện lần lượt chiếm 44% và 37% thị trường toàn cầu.

Theo baochinhphu.vn
https://petrotimes.vn/chay-dua-lap-trai-dien-gio-khong-lo-ngoai-khoi-589851.html

Lần đầu tiên sau 20 năm, cơn khát nhiên liệu sinh học hạ nhiệt

Nhu cầu về nhiên liệu sinh học giảm lần đầu tiên sau hai thập kỷ, do sự bùng nổ của đại dịch Covid-19 và giá dầu giảm mạnh trong những tháng gần đây, một cú sốc đáng lo ngại cho toàn ngành.

Olivier Lemesle, giám đốc bộ phận nghiên cứu của công ty Xerfi, nhận xét: “Sự sụt giảm giá dầu đã có tác động rất tiêu cực đến nhiên liệu sinh học”, vì chúng không còn đủ sức cạnh tranh khi đối mặt với giá hiện tại của vàng đen.

Do đó, sản lượng nhiên liệu sinh học cho giao thông vào năm 2020 sẽ giảm 11,6% so với sản lượng năm 2019, tuy nhiên vẫn đạt mức kỷ lục, theo báo cáo hàng năm của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) được công bố vào đầu tháng 11.

Tổ chức cho biết trong tất cả các nguồn năng lượng tái tạo, nhiên liệu sinh học là loại nhiên liệu bị giảm sử dụng nhiều nhất do cuộc khủng hoảng y tế.

Bởi vì nhiên liệu sinh học và nhiên liệu hóa thạch không đóng vai trò ngang nhau vào năm 2020: trong khi chi phí của một thùng dầu diesel sinh học tương đương vẫn vào khoảng 70 đô la (con số do ngành công nông nghiệp Pháp đưa ra vào tháng Tư), trong khi giá thô dầu liên tục giảm từ đầu năm nay, do nhu cầu giảm mạnh bởi các biện pháp quyết liệt để hạn chế sự di chuyển của hàng hóa và người nhằm hạn chế sự lây lan của Covid-19.

Hiện đang phục hồi, một thùng dầu Brent đã chạm ngưỡng 50 đô la.

Tuy nhiên, các sản phẩm thay thế xăng và dầu diesel sản xuất từ ​​thực vật không thiếu ưu điểm, đặc biệt là có lợi cho môi trường vì chúng đảm bảo giảm thiểu phát thải khí nhà kính ít nhất 50% so với nhiên liệu hóa thạch tương đương.

Jean-Philippe Puig, Giám đốc điều hành của tập đoàn Avril (gần một phần ba doanh thu đến từ nhiên liệu sinh học), khẳng định: “Nhiên liệu sinh học có vị trí của nó, chúng là một phần của giải pháp môi trường”.

Tuy nhiên, bên cạnh sự cạnh tranh không bình đẳng về giá khi đối mặt với một thùng dầu thô, lĩnh vực nhiên liệu sinh học vẫn phụ thuộc vào ý chí chính trị, ví dụ như quyết định – hay không – tăng trần cho việc sử dụng nhiên liệu sinh học tại các trạm bán lẻ, vì chúng thường bị trộn lẫn nhiên liệu thông thường (ví dụ SP95-E5 chứa tối đa 5%, dầu diesel B7 lên đến 7%).

Cuối cùng, sự phát triển của ô tô điện, và trong dài hạn của động cơ hydro, là những mối đe dọa trong dài hạn với nhiên liệu nói chung và với nhiên liệu sinh học nói riêng.

Nh.Thạch/AFP
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/lan-dau-tien-sau-20-nam-con-khat-nhien-lieu-sinh-hoc-ha-nhiet-587478.html

Để hydro xanh trở thành nhiên liệu cạnh tranh

Theo đánh giá của S&P Global Ratings, hydro xanh sẽ trở thành nhiên liệu cạnh tranh nếu giảm được 50% chi phí.

Hiện tại, nhu cầu toàn cầu về hydro là 73 triệu tấn. Khoảng 50% được tiêu thụ trong tinh chế, 40% trong sản xuất phân bón.

Chi phí sản xuất hydro phụ thuộc nhiều vào giá khí đốt và các nguồn năng lượng tái tạo. Vào tháng 10/2020, hydro xám tại Vịnh Mexico có giá 1,25 USD/kg, tại California – 2 USD/kg, tại Hà Lan – 1,7 USD/kg, tại Nhật Bản – 2,7 USD/kg. Chi phí cho hydro xanh cao hơn khoảng 0,2 USD/kg.

Chi phí hydro được sản xuất bằng điện phân, dựa trên giá điện giao ngay tại Vịnh Mexico là 2,8 USD/kg, ở California là hơn 4 USD/kg, ở Hà Lan – 4,3 USD/kg, ở Nhật Bản – 5,3 USD/kg.

Để hydro xanh trở thành nhiên liệu cạnh tranh, chi phí sản xuất phải giảm hơn một nửa – ít nhất là xuống còn 2 USD/kg. LCOE giảm 10 USD/MW vào năm 2030 có thể giảm chi phí hydro 0,4-0,5 USD/kg; giảm đơn vị CAPEX mỗi máy điện phân 250 USD/kW làm giảm giá hydro 0,3-0,4 USD/kg; tăng hiệu quả của máy điện phân từ 40% hiện tại lên 50% có thể dẫn đến giảm chi phí hydro 0,2-0,3 USD/kg.

Viễn Đông
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/de-hydro-xanh-tro-thanh-nhien-lieu-canh-tranh-587323.html

Năng lượng tái tạo: Tính ưu việt và khả năng tái chế cao

Tính đến hết tháng 9/2020, tổng công suất lắp đặt điện năng lượng tái tạo đạt 5,5 GW, gồm: điện Mặt Trời, điện gió, điện sinh khối… chiếm khoảng 11,2% tổng công suất lắp đặt toàn quốc.

Ngành năng lượng tái tạo Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua và xét về mọi mặt thì đây xu thế không thể đảo ngược trên thị trường.

Đặc biệt, nếu có định hướng đúng, các quốc gia có thể huy động được nguồn lực lớn cho phát triển hạ tầng thiết yếu, góp phần thúc đẩy kinh tế trong tương lai.

Tại Việt Nam, muốn giữ vững tốc độ phát triển và tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ điện toàn quốc được dự báo giai đoạn 2016-2020 là 10,6%/năm ở giai đoạn 2016-2020 và 8,5% ở giai đoạn 2021-2025.

Còn theo Bộ Công thương, nhu cầu năng lượng cho năm 2020 phải đạt 235 tỷ kWh điện và đến năm 2025 cần 352 tỷ kWh. Do đó, mức tăng trưởng nguồn điện cần đạt khoảng 60.000 MW công suất nguồn trong năm 2020 và sẽ còn tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo.

Nhà máy năng lượng Mặt Trời BCG-CME Long An 1 tại xã Thạnh An, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.

Tuy nhiên, với bối cảnh nguồn điện than không còn là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển do tác động nguy hại đến môi trường, điện hạt nhân đã dừng, thủy điện không còn nhiều dư địa và nguồn điện khí hóa lỏng cần thời gian dài để phát triển, thì sự phát triển của nguồn năng lượng tái tạo đang là một chiến lược cần được ưu tiên hàng đầu.

Điển hình, điện gió và điện Mặt Trời đang cho thấy là giải pháp giúp tăng nhanh nguồn cung và giảm sự thiếu hụt về điện năng.

Tính đến hết tháng 9/2020, tổng công suất lắp đặt điện năng lượng tái tạo đạt 5,5 GW, gồm: điện Mặt Trời, điện gió, điện sinh khối… chiếm khoảng 11,2% tổng công suất lắp đặt toàn quốc.

Các dự án điện Mặt Trời đã xây dựng có thể thấy rằng, suất đầu tư trung bình đối với điện Mặt Trời hiện nay ở Việt Nam là 1.038 USD/kWp (tương đương trên 23 triệu đồng/1 kWp, thấp hơn bất cứ suất đầu tư nguồn điện nào.

Quy hoạch điện quốc gia và cấp tỉnh với tổng công suất phát điện đến năm 2020 là 6.100 MW và năm 2030 là 7.200 MW. Ngoài ra, còn 221 dự án đang chờ phê duyệt, công suất đăng ký hơn 14.330 MW.

Ghi nhận ý kiến một số chuyên gia cho rằng, tấm pin năng lượng Mặt Trời hoàn toàn có thể tái chế với tỷ lệ rất cao và điều này không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế, môi trường mà còn một lần nữa khẳng định điện Mặt Trời là nguồn năng lượng sạch.

Ngoài ra, tấm pin Mặt Trời là những sản phẩm “double green,” sau nhiều năm tạo ra điện sạch từ quang năng có thể tiếp tục được tái chế để làm ra những tấm pin mới hoặc sử dụng trong các ngành công nghiệp khác.

Việc tái chế tấm pin Mặt Trời sẽ giúp ngành công nghiệp điện Mặt Trời ngày càng phát triển. Dự kiến đến năm 2050, sẽ có 2 tỷ tấm pin năng lượng Mặt Trời mới được sản xuất hoàn toàn từ nguồn vật liệu tái sử dụng này.

Điều này có nghĩa là sẽ có 630 GW năng lượng sạch được sản xuất nhờ nguồn vật liệu tái chế. Ngoài ra, các nhà máy tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời cũng tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho con người.

Trên thế giới, EU là khu vực đầu tiên ban hành các luật về phế thải điện Mặt Trời (Thông tư WEEE). Luật này bao gồm các vấn đề như thu gom, tái chế, tái sử dụng các tấm pin Mặt Trời phế thải, trách nhiệm của các nhà sản xuất, cung cấp tấm pin.

Với các tấm pin Mặt Trời không còn sử dụng, EU quy định tỷ lệ tái chế /tái sử dụng là 85%/80%. Anh, Đức, Séc… là những quốc gia tiên phong thực hiện thông tư này.

Hiện nay, đã có nhiều nhà máy xử lý các tấm pin Mặt Trời cũ với tỷ lệ tái chế lên đến 96%. Đồng thời, khi tái chế 1 tấn tấm pin Mặt Trời tương đương việc tránh được 1.2 tấn CO2 thải ra.

Nhiều quốc gia cũng đang nghiên cứu các công nghệ để việc tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời ngày càng hiệu quả, chi phí thấp, rút ngắn thời gian tái chế…

Đơn cử, sau khi mở nhà máy tái chế tấm pin Mặt Trời tại Rousset, miền Nam nước Pháp năm 2018 và là nhà máy tái chế tấm pin Mặt Trời đầu tiên của châu Âu, vừa mới đây Veolia công bố mỗi năm nhà máy này có thể tái chế được 40 tấn tấm pin Mặt Trời và dự kiến vào năm 2020 nhà máy này sẽ tái chế lên tới 4.000 tấn vào năm 2022.

Trong một nghiên cứu về tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời, Cơ quan năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) cho rằng, về lâu dài, việc xây dựng các nhà máy tái chế PV chuyên dụng rất có ý nghĩa.

IRENA ước tính các vật liệu thu hồi có thể trị giá 450 triệu USD vào năm 2030 và hơn 15 tỷ USD vào năm 2050.

Thùy Chi (Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/nang-luong-tai-tao-tinh-uu-viet-va-kha-nang-tai-che-cao/677377.vnp