Posts

Để hydro xanh trở thành nhiên liệu cạnh tranh

Theo đánh giá của S&P Global Ratings, hydro xanh sẽ trở thành nhiên liệu cạnh tranh nếu giảm được 50% chi phí.

Hiện tại, nhu cầu toàn cầu về hydro là 73 triệu tấn. Khoảng 50% được tiêu thụ trong tinh chế, 40% trong sản xuất phân bón.

Chi phí sản xuất hydro phụ thuộc nhiều vào giá khí đốt và các nguồn năng lượng tái tạo. Vào tháng 10/2020, hydro xám tại Vịnh Mexico có giá 1,25 USD/kg, tại California – 2 USD/kg, tại Hà Lan – 1,7 USD/kg, tại Nhật Bản – 2,7 USD/kg. Chi phí cho hydro xanh cao hơn khoảng 0,2 USD/kg.

Chi phí hydro được sản xuất bằng điện phân, dựa trên giá điện giao ngay tại Vịnh Mexico là 2,8 USD/kg, ở California là hơn 4 USD/kg, ở Hà Lan – 4,3 USD/kg, ở Nhật Bản – 5,3 USD/kg.

Để hydro xanh trở thành nhiên liệu cạnh tranh, chi phí sản xuất phải giảm hơn một nửa – ít nhất là xuống còn 2 USD/kg. LCOE giảm 10 USD/MW vào năm 2030 có thể giảm chi phí hydro 0,4-0,5 USD/kg; giảm đơn vị CAPEX mỗi máy điện phân 250 USD/kW làm giảm giá hydro 0,3-0,4 USD/kg; tăng hiệu quả của máy điện phân từ 40% hiện tại lên 50% có thể dẫn đến giảm chi phí hydro 0,2-0,3 USD/kg.

Viễn Đông
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/de-hydro-xanh-tro-thanh-nhien-lieu-canh-tranh-587323.html

Năng lượng tái tạo: Tính ưu việt và khả năng tái chế cao

Tính đến hết tháng 9/2020, tổng công suất lắp đặt điện năng lượng tái tạo đạt 5,5 GW, gồm: điện Mặt Trời, điện gió, điện sinh khối… chiếm khoảng 11,2% tổng công suất lắp đặt toàn quốc.

Ngành năng lượng tái tạo Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua và xét về mọi mặt thì đây xu thế không thể đảo ngược trên thị trường.

Đặc biệt, nếu có định hướng đúng, các quốc gia có thể huy động được nguồn lực lớn cho phát triển hạ tầng thiết yếu, góp phần thúc đẩy kinh tế trong tương lai.

Tại Việt Nam, muốn giữ vững tốc độ phát triển và tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ điện toàn quốc được dự báo giai đoạn 2016-2020 là 10,6%/năm ở giai đoạn 2016-2020 và 8,5% ở giai đoạn 2021-2025.

Còn theo Bộ Công thương, nhu cầu năng lượng cho năm 2020 phải đạt 235 tỷ kWh điện và đến năm 2025 cần 352 tỷ kWh. Do đó, mức tăng trưởng nguồn điện cần đạt khoảng 60.000 MW công suất nguồn trong năm 2020 và sẽ còn tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo.

Nhà máy năng lượng Mặt Trời BCG-CME Long An 1 tại xã Thạnh An, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.

Tuy nhiên, với bối cảnh nguồn điện than không còn là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển do tác động nguy hại đến môi trường, điện hạt nhân đã dừng, thủy điện không còn nhiều dư địa và nguồn điện khí hóa lỏng cần thời gian dài để phát triển, thì sự phát triển của nguồn năng lượng tái tạo đang là một chiến lược cần được ưu tiên hàng đầu.

Điển hình, điện gió và điện Mặt Trời đang cho thấy là giải pháp giúp tăng nhanh nguồn cung và giảm sự thiếu hụt về điện năng.

Tính đến hết tháng 9/2020, tổng công suất lắp đặt điện năng lượng tái tạo đạt 5,5 GW, gồm: điện Mặt Trời, điện gió, điện sinh khối… chiếm khoảng 11,2% tổng công suất lắp đặt toàn quốc.

Các dự án điện Mặt Trời đã xây dựng có thể thấy rằng, suất đầu tư trung bình đối với điện Mặt Trời hiện nay ở Việt Nam là 1.038 USD/kWp (tương đương trên 23 triệu đồng/1 kWp, thấp hơn bất cứ suất đầu tư nguồn điện nào.

Quy hoạch điện quốc gia và cấp tỉnh với tổng công suất phát điện đến năm 2020 là 6.100 MW và năm 2030 là 7.200 MW. Ngoài ra, còn 221 dự án đang chờ phê duyệt, công suất đăng ký hơn 14.330 MW.

Ghi nhận ý kiến một số chuyên gia cho rằng, tấm pin năng lượng Mặt Trời hoàn toàn có thể tái chế với tỷ lệ rất cao và điều này không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế, môi trường mà còn một lần nữa khẳng định điện Mặt Trời là nguồn năng lượng sạch.

Ngoài ra, tấm pin Mặt Trời là những sản phẩm “double green,” sau nhiều năm tạo ra điện sạch từ quang năng có thể tiếp tục được tái chế để làm ra những tấm pin mới hoặc sử dụng trong các ngành công nghiệp khác.

Việc tái chế tấm pin Mặt Trời sẽ giúp ngành công nghiệp điện Mặt Trời ngày càng phát triển. Dự kiến đến năm 2050, sẽ có 2 tỷ tấm pin năng lượng Mặt Trời mới được sản xuất hoàn toàn từ nguồn vật liệu tái sử dụng này.

Điều này có nghĩa là sẽ có 630 GW năng lượng sạch được sản xuất nhờ nguồn vật liệu tái chế. Ngoài ra, các nhà máy tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời cũng tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho con người.

Trên thế giới, EU là khu vực đầu tiên ban hành các luật về phế thải điện Mặt Trời (Thông tư WEEE). Luật này bao gồm các vấn đề như thu gom, tái chế, tái sử dụng các tấm pin Mặt Trời phế thải, trách nhiệm của các nhà sản xuất, cung cấp tấm pin.

Với các tấm pin Mặt Trời không còn sử dụng, EU quy định tỷ lệ tái chế /tái sử dụng là 85%/80%. Anh, Đức, Séc… là những quốc gia tiên phong thực hiện thông tư này.

Hiện nay, đã có nhiều nhà máy xử lý các tấm pin Mặt Trời cũ với tỷ lệ tái chế lên đến 96%. Đồng thời, khi tái chế 1 tấn tấm pin Mặt Trời tương đương việc tránh được 1.2 tấn CO2 thải ra.

Nhiều quốc gia cũng đang nghiên cứu các công nghệ để việc tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời ngày càng hiệu quả, chi phí thấp, rút ngắn thời gian tái chế…

Đơn cử, sau khi mở nhà máy tái chế tấm pin Mặt Trời tại Rousset, miền Nam nước Pháp năm 2018 và là nhà máy tái chế tấm pin Mặt Trời đầu tiên của châu Âu, vừa mới đây Veolia công bố mỗi năm nhà máy này có thể tái chế được 40 tấn tấm pin Mặt Trời và dự kiến vào năm 2020 nhà máy này sẽ tái chế lên tới 4.000 tấn vào năm 2022.

Trong một nghiên cứu về tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời, Cơ quan năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) cho rằng, về lâu dài, việc xây dựng các nhà máy tái chế PV chuyên dụng rất có ý nghĩa.

IRENA ước tính các vật liệu thu hồi có thể trị giá 450 triệu USD vào năm 2030 và hơn 15 tỷ USD vào năm 2050.

Thùy Chi (Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/nang-luong-tai-tao-tinh-uu-viet-va-kha-nang-tai-che-cao/677377.vnp

Hoa Kỳ tài trợ 36 triệu USD cho “Chương trình năng lượng phát thải thấp Việt Nam” 

Mới đây, tại Diễn đàn doanh nghiệp Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được tổ chức tại Hà Nội, Giám đốc Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tại Việt Nam – Ann Marie Yastishock đã công bố Chương trình năng lượng phát thải thấp Việt Nam 2 (V-LEEP 2). Đây là chương trình thực hiện trong 5 năm với ngân sách 36 triệu USD và có mục tiêu đẩy nhanh quá trình chuyển đổi của Việt Nam sang một hệ thống năng lượng sạch, bảo đảm và theo định hướng thị trường.

Năng lượng xanh cho phát triển kinh tế bền vững

Trong 4 năm qua, Chương trình Năng lượng phát thải thấp Việt Nam (V-LEEP) hiện đang thực hiện đã phối hợp với Chính phủ Việt Nam xây dựng chương trình thí điểm cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp cho phép các doanh nghiệp có thể trực tiếp mua năng lượng sạch từ các nhà sản xuất điện gió và điện mặt trời.

V-LEEP cũng hỗ trợ Bộ Công Thương xây dựng Tổng sơ đồ điện VIII, một quy hoạch được trông đợi sẽ kết hợp các giải pháp năng lượng tiên tiến, các nguồn năng lượng tái tạo đa dạng hơn và mức độ kết nối lưới điện cao hơn để truyền tải nguồn năng lượng sạch.

Ngoài ra, V-LEEP cũng phối hợp với các cơ quan quản lý của chính phủ, các ngân hàng, các nhà đầu tư và các nhà phát triển năng lượng sạch khu vực tư nhân để thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực điện mặt trời, kết quả là điện mặt trời hiện chiếm hơn 10% trong tổng công suất sản xuất điện quốc gia.

“Chương trình V-LEEP hiện tại do USAID tài trợ sẽ kết thúc vào đầu năm tới, tuy nhiên USAID Việt Nam cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ củng cố các quan hệ đối tác và phát triển những giải pháp đổi mới, sáng tạo hướng tới một tương lai năng lượng sạch với mức giá hợp lý cho Việt Nam thông qua hỗ trợ trong khuôn khổ chương trình V-LEEP 2,” – Giám đốc USAID Việt Nam Yastishock cho biết.

Chương trình V-LEEP 2 sẽ tập trung hỗ trợ cải thiện công tác quy hoạch năng lượng của Chính phủ, tăng tính cạnh tranh và sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc cung cấp các dịch vụ về năng lượng, triển khai các hệ thống năng lượng sạch và tiên tiến, đồng thời cải thiện quy hoạch lưới điện để bao gồm truyền tải điện sạch.

Chương trình này cũng sẽ hỗ trợ Việt Nam thu hút nhiều nhà đầu tư có đủ năng lực cho các dự án năng lượng tiên tiến và tư vấn cho các công ty tư nhân phát triển những dự án năng lượng chất lượng và có khả năng sinh lời cao.

Chương trình V-LEEP 2

USAID sẽ hỗ trợ Việt Nam tiếp tục quá trình chuyển đổi sang một nền năng lượng sạch, đảm bảo an ninh và theo định hướng thị trường thông qua tăng cường triển khai các hệ thống năng lượng tiên tiến, cải thiện hiệu suất của ngành năng lượng và nâng cao tính cạnh tranh trong lĩnh vực năng lượng.

Tăng cường triển khai các hệ thống năng lượng tiên tiến

V-LEEP 2 sẽ phối hợp với Chính phủ Việt Nam để huy động đầu tư tư nhân nhằm tăng cường triển khai các hệ thống năng lượng tiên tiến và sẽ hỗ trợ thiết kế dự án cho các nhà phát triển năng lượng sạch và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho bên vay liên quan đến đầu tư vào lĩnh vực năng lượng sạch.

Cải thiện hiệu suất ngành năng lượng

USAID và Chính phủ Việt Nam sẽ cùng phối hợp để cải thiện công tác quy hoạch và vận hành năng lượng nhằm tăng cường hiệu suất ngành năng lượng. Việt Nam đang chuẩn bị khởi động Quy hoạch điện VIII, do đó V-LEEP 2 sẽ hỗ trợ kỹ thuật cho công tác thực hiện quy hoạch cũng như hỗ trợ việc hòa lưới điện và điều độ nguồn năng lượng tái tạo biến đổi.

Nâng cao tính cạnh tranh

Nhằm hướng tới phát triển lĩnh vực năng lượng bền vững và dựa vào thị trường, V-LEEP 2 sẽ thúc đẩy tính minh bạch trong quy trình đấu thầu, theo dõi và đánh giá Chương trình thí điểm Hợp đồng mua bán điện trực tiếp và hỗ trợ tăng cường năng lực cho đội ngũ lao động, chính quyền địa phương và các cơ chế mua bán cạnh tranh tương tự khác.

Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ươm mầm và bao trùm

Nhận thức được vai trò của khu vực tư nhân, V-LEEP 2 cấp kinh phí tài trợ cho các phương thức tiếp cận đổi mới và sáng tạo nhằm huy động đầu tư tư nhân vào các hệ thống năng lượng tiên tiến, thúc đẩy các chương trình ươm mầm và tăng tốc, đồng thời hỗ trợ nâng cao vai trò của các chuyên gia nữ trong lĩnh vực năng lượng.

Kết quả dự kiến

USAID sẽ tham gia đóng góp vào quá trình thiết kế, huy động tài chính, xây dựng và vận hành các nguồn lực năng lượng sạch mới, bao gồm: 2.000 MW năng lượng tái tạo và 1.000 MW từ các nhà máy nhiệt điện khí chu trình hỗn hợp./.

TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

http://nangluongvietnam.vn/news/vn/nang-luong-moi-truong/hoa-ky-tai-tro-36-trieu-usd-cho-chuong-trinh-nang-luong-phat-thai-thap-viet-nam-2.html

Mỹ đang mất phương hướng và tụt hậu trong phát triển năng lượng tái tạo?

Vào cuối tháng 9/2020, ông Tập Cận Bình đã tuyên bố Trung Quốc sẽ giảm mức tối đa lượng khí thải vào năm 2030 và trung hòa carbon trước năm 2060.

Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc sẽ phải mở rộng thị trường nội địa cho các công nghệ năng lượng sạch, trong đó nhiều công nghệ được Trung Quốc tự sản xuất. Trung Quốc cũng hy vọng sẽ thúc đẩy các quốc gia khác tích cực hơn trong việc giảm phát thải, kêu gọi tham gia “Green Revolution”. Chính những quốc gia này cũng có thể là thị trường tốt cho công nghệ Trung Quốc. Nhờ những sáng kiến này, Trung Quốc hiện đang giành chiến thắng trong cuộc đua toàn cầu nhằm phát minh và sản xuất các công nghệ cho một thế giới low-carbon mới.

Với lĩnh vực công nghệ cao phát triển mạnh mẽ và lượng đầu tư tư nhân dồi dào, Mỹ có vị thế tốt để cạnh tranh, nhưng lại có nguy cơ tụt hậu. Hiện tại, Mỹ vẫn đang dựa vào sự bùng nổ năng lượng trên cơ sở cách mạng dầu đá phiến và dựa trên cách tiếp cận truyền thống để đổi mới năng lượng.

Hệ thống năng lượng của thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Thập kỷ qua đã chứng kiến ​​sự tăng trưởng theo cấp số nhân trong việc sử dụng năng lượng gió và năng lượng mặt trời để sản xuất điện. Một số mốc quan trọng của quá trình chuyển đổi này đã được biết đến như vào năm 2019, mức tiêu thụ từ các nguồn năng lượng tái tạo đã vượt qua việc sử dụng than ở Hoa Kỳ lần đầu tiên sau hơn 130 năm.


Biểu đồ 1: So sánh tiêu dùng nhiên liệu than và năng lượng tái tạo của Mỹ từ năm 1776 – 2019.

Ở Anh và Tây Ban Nha, nhiệt điện than gần như bị loại bỏ, trong khi các nguồn năng lượng tái tạo đã vượt mức tiêu thụ điện năng của Đức. Tuy quá trình chuyển đổi này vẫn chưa diễn ra ở khắp mọi nơi, nhưng nó đang diễn ra nhanh chóng và ngày càng lan rộng. Mặc dù vậy, so với những thách thức to lớn của việc đối phó với biến đổi khí hậu thì quá trình chuyển đổi này diễn ra khá chậm chạp.

Trung Quốc đã nổi lên là nhà cung cấp hàng đầu của quá trình chuyển đổi này. Vào năm 2018, các công ty Trung Quốc chiếm hơn 1/3 thị phần sản xuất tuabin gió trên thế giới. Năm 2019, Trung Quốc đã xây dựng hơn 70% công suất quang điện mặt trời trên thế giới. Trong lĩnh vực xe điện, ảnh hưởng của Trung Quốc thậm chí còn lớn hơn với sở hữu 3/4 năng lực sản xuất tế bào pin lithium ion trên thế giới và thậm chí còn kiểm soát chuỗi cung ứng trước khi lắp ráp cuối cùng. Trong số 3 công nghệ năng lượng xanh lớn đang phát triển trên khắp thế giới, 2 công nghệ phần lớn được sản xuất tại Trung Quốc.

Châu Âu cũng đang chú ý đến thị trường đang phát triển này. Các nước châu Âu phụ thuộc vào năng lượng mặt trời và năng lượng gió nhiều hơn hết các nước khác trên thế giới và các nhà sản xuất châu Âu nổi bật về năng lượng gió. Liên minh châu Âu đã công bố Chiến lược pin nhằm tạo ra một chuỗi giá trị sản xuất cạnh tranh ở châu Âu cho các công nghệ pin bền vững, và Europe’s Green Deal rõ ràng không chỉ là một chiến lược môi trường mà còn là một chiến lược công nghiệp. Ngoài việc khử carbon trong hệ thống năng lượng của lục địa, Green Deal hướng tới việc phát triển các ngành công nghiệp cần thiết. Để làm như vậy, cần đặc biệt tập trung vào hydro, một trong những mục tiêu lớn của EU và là lĩnh vực kỳ vọng sẽ được EU dẫn đầu.


Biểu đồ 2: Điện gió và điện mặt trời của các nước trên thế giới năm 2019.

Trung Quốc trong bối cảnh này đương nhiên sẽ trở thành đối tác được lựa chọn của bất kỳ quốc gia nào muốn giảm phát thải khí nhà kính. Bên đặt hàng sẽ không quan tâm nhiều đến việc nguyên liệu có nguồn gốc như thế nào hoặc liệu việc khai thác chúng có ảnh hưởng thế nào đến hệ thống chính trị. Trung Quốc cũng sẽ có thể kiểm soát các chuỗi cung ứng và can thiệp vào chuỗi cung ứng khi thuận tiện về mặt chính trị. Mỹ có thể sẽ phải đứng ngoài chuỗi hoạt động này nếu không thực sự xắn tay tham gia trực tiếp vào quá trình này.

Đối với Mỹ, thách thức công nghệ xanh thường được coi là nhu cầu đổi mới nhiều hơn. Tính theo tỷ trọng GDP, Mỹ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển ít hơn so với các đối thủ cạnh tranh như Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy vốn tư nhân cũng đã tham gia vào quá trình, nhưng sự chuyển dịch tiền R&D (nghiên cứu và phát triển) từ chính phủ sang các công ty tư nhân cũng đồng nghĩa với sự thay đổi về trọng tâm (hẹp hơn) và tham vọng (ngắn hạn hơn).

Trong lĩnh vực năng lượng, chi tiêu cho R&D của Mỹ vẫn ở trên mức trung bình so với các nền kinh tế tiên tiến khác, ở mức vừa đủ: Trong số 27 quốc gia được Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) so sánh chi tiêu so với GDP, Mỹ xếp thứ 10 trong năm 2018. Trung Quốc đã đầu tư nhiều hơn. Ở những lĩnh vực mà Mỹ dẫn đầu về công nghệ như chăm sóc sức khỏe và quốc phòng, mức chi lớn hơn nhiều. Ví dụ R&D của Mỹ dành cho chăm sóc sức khỏe chiếm khoảng 1% tổng chi tiêu cho y tế, lớn hơn 4 lần so với đầu tư vào năng lượng, một lĩnh vực đòi hỏi nhiều chi phí hơn.

Một tương lai carbon thấp sẽ hiệu quả hơn và được điện khí hóa, nó dựa trên một số nền tảng công nghệ lưu trữ và cấp năng lượng cho các lĩnh vực khó điện khí hóa như ngành công nghiệp, vận tải hàng hóa, hàng không và liên quan đến loại bỏ carbon dioxide trong khí quyển. Tuy nhiên, nếu chỉ đầu tư nghiên cứu thì chưa đủ, để đi đầu trong lĩnh vực công nghệ xanh thì nghiên cứu phải kết hợp với triển khai sản xuất. Năm 2009, Mỹ có công suất điện gió cao gấp đôi Trung Quốc và gấp 5 lần công suất năng lượng mặt trời. Đến năm 2019, Trung Quốc đã dẫn đầu và triển khai lượng gió nhiều gấp đôi và gấp 3 lần năng lượng mặt trời so với Mỹ. Trong lĩnh vực xe chạy điện, sự đảo ngược diễn ra nhanh hơn: Mỹ có số lượng xe điện nhiều gấp 5 lần Trung Quốc vào năm 2013, nhưng hiện nay Trung Quốc đã gấp đôi Mỹ, nhờ sự hỗ trợ của chính phủ. Vào cuối những năm 1990, Mỹ có 30% thị phần trong sản xuất quang điện mặt trời, hiện tại chỉ còn 1%.

Cơ chế khuyến khích tiêu dùng năng lượng tái tạo khá đơn giản, tuy nhiên phụ thuộc nhiều vào tham vọng được đặt ra. Ở một khía cạnh nào đó, có thể khuyến khích người tiêu dùng chuyển từ thiết bị này sang thiết bị khác, thúc đẩy họ cắt giảm việc sử dụng năng lượng cá nhân; đưa ra các khoản tín dụng thuế và các gói hỗ trợ/chính sách mua xe điện hoặc trang bị thiết bị dân dụng, khuyến khích mua một lượng năng lượng tái tạo nhất định hoặc chế tạo ô tô đáp ứng tiêu chuẩn quãng đường nhất định. Ở khía cạnh khác, nhà nước đóng vai trò trung tâm trong việc tạo ra thị trường để thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ. Phần lớn, đây là một thách thức chính trị, không phải chính sách hay kỹ thuật.

Dù sao, việc triển khai không thể tách rời khỏi sản xuất. Từ quan điểm khí hậu, một tấm pin mặt trời là một tấm pin mặt trời cho dù nó được sản xuất ở đâu. Nhưng từ góc độ kinh tế và an ninh quốc gia, vấn đề sản xuất có ý nghĩa đặc biệt. Ở góc nhìn từ nhà phân tích Mỹ, người ta lưu ý đến nơi được đầu tư xây dựng sản xuất và cần đặt ra câu hỏi về lý do tại sao các công ty sản xuất có xu hướng đặt nhà máy ở nước ngoài và đặt ra câu hỏi về vai trò của Mỹ không chỉ trong khâu tiêu thụ hay đầu tư, mà trong khâu tham gia chuỗi cung ứng.

Việc tăng gấp đôi R&D và khuyến khích triển khai công nghệ xanh sẽ đánh dấu sự đảo ngược các chính sách của Mỹ trong vài năm qua. Quốc gia này luôn đấu tranh để thực hiện chiến lược năng lượng xanh. Nhưng chính quyền Trump đã tiến xa hơn trong việc giảm gấp đôi nhiên liệu hóa thạch, đi ngược lại với xu thế, ưu tiên xuất khẩu hydrocarbon, cơ sở hạ tầng và kích thích tiêu dùng. Khi đường ống dẫn dầu khí gặp trục trặc, chính quyền có rất nhiều điều để nói, nhưng việc cho phép thực hiện một dự án điện gió ngoài khơi là điều không thể thực hiện được. Chính quyền đang cố gắng nới lỏng các tiêu chuẩn ô tô thay vì hợp tác với các nhà sản xuất để tạo ra chiếc ô tô của tương lai. Ủy ban Điều tiết Năng lượng Liên bang đã khiến việc triển khai năng lượng tái tạo trở nên khó khăn hơn bằng việc gây nghi ngờ về quyền hỗ trợ các ngành công nghiệp mới của một bang.

Dầu mỏ, khí đốt tự nhiên và than đá sẽ cạnh tranh trong một thế giới với những hạn chế chặt chẽ hơn về môi trường đối với việc sản xuất và sử dụng chúng. Các công ty năng lượng truyền thống, nếu không chuẩn bị cho tương lai, sẽ gặp bất lợi trong bối cảnh cạnh tranh mới. Chính sách của Mỹ trong thời gian qua thể hiện ý muốn làm bá chủ thế giới về xuất khẩu dầu khí, xong mong muốn này đang vượt quá xa thực tế. Hiện sản lượng dầu và khí đốt của Mỹ đã tăng đến mức kỷ lục, khó có thể nhìn xa hơn trong ngắn hạn khả năng khai thác bền vững có thể nằm ở đâu đó ngoài quốc gia này. Tương lai Mỹ có thể tụt hậu trong khai thác dầu khí có thể sẽ đến sớm.

Nếu không từ bỏ ý định bá chủ về nhiên liệu hóa thạch trong tương lai gần và bắt đầu đuổi theo xu hướng, Mỹ có thể sẽ bị tụt hậu trong cuộc đua năng lượng mới mà EU và Trung Quốc đã bắt đầu.

HTM
https://petrotimes.vn/my-dang-mat-phuong-huong-va-tut-hau-trong-phat-trien-nang-luong-tai-tao-583301.html

Sẽ có tàu chở dầu chạy bằng điện vào năm 2023

Tập đoàn công nghiệp nặng Kawasaki cho biết sẽ phát triển tàu chở dầu sử dụng năng lượng điện, không phát sinh khí thải gây hiệu ứng nhà kính đầu tiên trên thế giới.

Tàu chở dầu chạy năng lượng điện sẽ do hai công ty con của Tập đoàn công nghiệp nặng Kawasaki ở khu vực Shikoku của Nhật Bản phát triển và dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 3/2023.

Tàu sẽ có chiều dài khoảng 60m, trọng tải toàn phần là 499 tấn, sử dụng pin Lithium-ion có dung lượng bằng khoảng 100 chiếc xe ô tô điện và hoàn toàn không sinh khí thải gây hiệu ứng nhà kính.

So với loại tàu chạy bằng dầu nặng thông thường hiện nay, tàu chở dầu chạy bằng điện có nhược điểm là kinh phí chế tạo lớn. Tuy nhiên, ưu điểm là dễ vận hành và có thể cắt giảm số lượng thuyền viên, góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực trong ngành hàng hải hiện nay.

Tàu chở dầu có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường rất lớn khi gặp sự cố trên đường vận chuyển.

Theo kế hoạch, tàu chờ dầu chạy năng lượng điện sẽ được công ty Asahi Tanker sử dụng để chờ dầu tại vịnh Tokyo và có thể được trưng dụng để cung cấp điện cho các cơ sở tại cảng trong trường hợp xảy ra các thảm họa thiên nhiên.

Trong bối cảnh các quốc gia đang ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề bảo vệ môi trường với các quy định ngày càng khắt khe hơn đã làm bùng nổ ngành ô tô điện trên toàn thế giới, tàu chở dầu sử dụng năng lượng điện đầu tiên trên thế giới có thể sẽ là khởi đầu cho xu hướng điện hóa của ngành vận tải biển trong tương lai.

P.V
https://petrotimes.vn/se-co-tau-cho-dau-chay-bang-dien-vao-nam-2023-580335.html

“Gió đang đổi chiều” trong hệ thống năng lượng tại Việt Nam

Năm 2020 là một năm đánh dấu bước ngoặt lớn trong ngành năng lượng của Việt Nam. Đây là năm mà năng lượng sạch có vị trí vững chắc hơn và được coi là ngành có tiềm năng lợi nhuận, định hướng phát triển tốt. Lĩnh vực điện khí cũng đang được chú trọng phát triển.

Vừa qua, Chương trình Phát triển bền vững, Trung tâm Sáng kiến truyền thông và phát triển (MDI) công bố một báo cáo cập nhật về lĩnh vực năng lượng tại Việt Nam. Theo đó, nhiệt điện than không còn giữ vị trí là lĩnh vực được ưu ái phát triển ở Việt Nam mà thay vào đó là các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng xanh và sạch.

Việt Nam là quốc gia có tiềm năng hàng đầu phát triển điện gió ngoài khơi.

Từ chỗ chỉ được coi là lĩnh vực thứ yếu, năng lượng sạch – bao gồm điện mặt trời và điện gió – đang có những đóng góp ngày càng quan trọng đối với hệ thống điện quốc gia và trở thành một trong những ưu tiên trong định hướng phát triển năng lượng của đất nước. Nhiệt điện khí, nhất là lĩnh vực điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu, cũng là một lĩnh vực mới có tiềm năng phát triển. Hai kho cảng nhập khẩu khí đầu tiên đang được triển khai xây dựng và hàng loạt các dự án nhà máy điện khí lớn đang được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đề xuất đầu tư.

Trong khi đó, chủ trương hạn chế phát triển nhiệt điện than mới của Đảng và Chính phủ, sự phản đối của các địa phương và những khó khăn trong quá trình thực hiện dự án cho thấy lĩnh vực nhiên liệu hóa thạch này sẽ không thể có được sự tăng trưởng như trước đây.

Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 sửa đổi (Quy hoạch Điện VII sửa đổi) ban hành năm 2016 đặt mục tiêu nâng tỷ trọng nhiệt điện than trong tổng sản lượng điện quốc gia lên 49,3% vào năm 2020, 55% vào năm 2025 và 53.2% vào năm 2030. Tỷ trọng nhiệt điện khí thiên nhiên và khí thiên nhiên hóa lỏng được xác định chiếm dưới 20% tổng sản lượng điện cho đến năm 2030. Trong đó, điện mặt trời và điện gió chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng sản lượng điện của cả nước.

Tuy nhiên, qua thực tế 4 năm triển khai thực hiện quy hoạch, nhiệt điện than đã bộc lộ những hạn chế nội tại của nó, làm ảnh hưởng đến triển vọng phát triển của lĩnh vực này.

Báo cáo của MDI đã chỉ ra ít nhất 6 tỉnh trên cả nước đã đề xuất không tiếp tục phát triển các dự án nhiệt điện than trên địa bàn các tỉnh đó do lo ngại vấn đề ô nhiễm môi trường, trong đó có Quảng Ninh – cái nôi của ngành than Việt Nam. Các tỉnh như Bạc Liêu, Long An, Thừa Thiên – Huế, Hà Tĩnh và Tiền Giang mong muốn thay thế các dự án nhiệt điện than trong quy hoạch bằng các dự án sử dụng khí thiên nhiên hóa lỏng.


Điện mặt trời ở Việt Nam đang phát triển với tốc độ cao.

Tháng 6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định bổ sung gần 7.000 MW điện gió vào quy hoạch do sự chậm trễ trong triển khai xây dựng nhiều dự án điện than lớn.

Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã chính thức đưa ra chỉ đạo giảm tỷ trọng điện than một cách hợp lý; ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện; xây dựng các cơ chế chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hóa thạch.

Theo Viện Năng lượng Việt Nam, những quan điểm chỉ đạo đó sẽ được cụ thể hóa trong Quy hoạch Điện VIII mà cơ quan này đang soạn thảo để trình Chính phủ trong tháng 10/2020.

Thực tế, ở Việt Nam hiện không còn những đề xuất dự án nhiệt điện than mới rầm rộ như những năm trước đây. Thay vào đó, hàng loạt dự án nhiệt điện khí và điện gió quy mô lớn và rất lớn đã được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đề xuất với các cơ quan chức năng.

Bà Trần Lệ Thùy, Thạc sĩ chuyên ngành khoa học phát triển, Đại học Oxford, Giám đốc Trung tâm MDI, phát biểu: “Con đường phát triển bền vững mà Việt Nam lựa chọn hiện nay là rất rõ ràng và nhất quán. Việt Nam cũng mới nâng mức đóng góp do quốc gia tự quyết định nhằm chung tay với cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Những lĩnh vực không có lợi cho xu hướng phát triển đó sẽ bị thay thế bằng những lựa chọn mang tính bền vững hơn”.


Cần đầu tư nhanh và mạnh hơn nữa cho hệ thống truyền tải điện.

Bà Laurence Tubiana, Tổng giám đốc Quỹ Khí hậu châu Âu ECF, cựu Đại sứ về Biến đổi khí hậu của Pháp và Đại diện đặc biệt cho Hội nghị Biến đổi Khí hậu COP21 2015 tại Paris và được công nhận là kiến ​​trúc sư chính của Thỏa thuận Paris, bình luận riêng về Báo cáo Cập nhật năng lượng Việt Nam 2020 của Trung tâm MDI: “Trong năm qua, Việt Nam đã ghi dấu ấn mạnh mẽ với thành công trong lĩnh vực năng lượng sạch. Mặc dù chặng đường phía trước vẫn còn dài, nhưng việc chuyển đổi từ sử dụng than đá sang các năng lượng tái tạo nhanh chóng đã khiến Việt Nam trở thành một trong những đất nước dẫn đầu tại Đông Nam Á và cũng là tấm gương cho các đất nước khác muốn chuyển đổi giữa hai dạng năng lượng này”.

Có thể thấy rằng, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu, không chỉ có khí hậu trở nên an toàn hơn, không khí trong lành hơn mà bên cạnh đó còn là cơ hội việc làm và những khoản đầu tư. Trên thế giới, năng lượng tái tạo đang chứng tỏ là một lựa chọn sáng suốt hơn, rẻ hơn và việc Việt Nam nắm bắt cơ hội để thay đổi thực sự sẽ truyền cảm hứng cho nhiều nước khác trên thế giới.

Tùng Dương
https://petrotimes.vn/gio-dang-doi-chieu-trong-he-thong-nang-luong-tai-viet-nam-578712.html