Điện rác – bài toán kinh tế hay môi trường đối với Việt Nam?

Hiện nay, trên 70% lượng rác thải tại Việt Nam đang được xử lý chủ yếu bằng công nghệ chôn lấp, chỉ có 13% rác được đốt cháy để thu hồi năng lượng.

Xử lý rác sinh hoạt ở đô thị là vấn đề nóng không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn cầu.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), tại nhiều nước đang phát triển việc quản lý chất thải rắn có thể tiêu tốn 20-50% ngân sách, một con số gây sốc.

Lượng chất thải rắn toàn cầu đang tăng lên nhanh chóng, từ hơn 3,5 triệu tấn mỗi ngày trong năm 2010, lên hơn 6 triệu tấn mỗi ngày vào năm 2025.

Một phần khu vực lò đốt rác của Nhà máy đốt rác phát điện Cần Thơ. (Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)

Chất thải độc hại từ các thành phố đã đủ để lấp đầy một dòng xe chở hàng dài 5.000 cây số mỗi ngày.

Chi phí toàn cầu cho việc đối phó với tất cả những thùng rác đó cũng tăng lên, từ 205 tỷ USD trong năm 2010 lên 375 tỷ USD vào năm 2025.

Từ chôn lấp đến điện rác

Theo Bộ Công Thương, tại Việt Nam bình quân mỗi ngày khoảng 35.000 tấn rác thải sinh hoạt đô thị và 34.000 tấn rác thải sinh hoạt nông thôn được thải ra. Khối lượng rác tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 7.000-8.000 tấn rác mỗi ngày.

Hiện nay, trên 70% lượng rác thải tại Việt Nam đang được xử lý chủ yếu bằng công nghệ chôn lấp, trong đó 80% là bãi chôn lấp không hợp vệ sinh, gây hại cho môi trường. Chỉ có 13% rác được đốt cháy để thu hồi năng lượng.

Chôn lấp rác là công nghệ lạc hậu, tốn đất và gây ra nhiều tác hại, tạo ra nguy cơ cháy; ô nhiễm nước ngầm; phát tán khí metal; gây bệnh cho người lao động và người sống xung quanh; thu hút các loài động vật (chó, chim, động vật gặm nhấm, côn trùng)…

Việc chôn lấp rác ngoài tác động xấu đến môi trường thì còn phải đối mặt với sự phản đối của người dân ở gần khu xử lý rác, chi phí cho việc thu gom, vận chuyển ngày một tăng trong khi tài nguyên rác bị lãng phí.

Theo các chuyên gia về môi trường và điện năng, công nghệ đốt chất thải để tạo ra điện ngày càng được áp dụng rộng rãi do có một số ưu điểm nổi bật so với các công nghệ khác, như giảm được 90-95% thể tích và khối lượng chất thải; có thể tận dụng nhiệt; giảm phát thải khí nhà kính so với biện pháp chôn lấp; giảm thiểu ô nhiễm nước, mùi hôi…

Công nghệ điện rác có hai phương án chính.

Phương án 1, sản xuất khí nhiên liệu để đốt trong các động cơ đốt trong và chạy máy phát điện. Chất thải khó phân hủy được tạo thành viên nhiên liệu và đốt trong các lò khí hóa để sinh ra nhiên liệu khí dưới dạng khí đốt tổng hợp (syngas).

Chất thải dễ phân hủy được đưa vào hầm ủ sinh khối để sản xuất ra khí đốt dưới dạng khí sinh học (biogas).


Bãi rác Tân Tạo, Bạc Liêu, đang trong tình trạng quá tải, ô nhiễm môi trường trầm trọng. (Ảnh: Huỳnh Sử/TTXVN)

Trước tiên, rác được phân loại trên dây chuyền, tách chất thải chung thành chất thải phi nhiên liệu (đất đá, chai lọ, sắt thép) và chất thải nhiên liệu (chất thải cháy được).

Sau đó, chất thải nhiên liệu được phân loại thành chất thải khó phân hủy (nilon, cành cây, gỗ, giấy…) và chất thải dễ phân hủy (thực phẩm, rau…).

Hiệu suất chuyển đổi năng lượng của các công nghệ dạng này thường chỉ đạt được dưới 20%, vẫn mang tính thử nghiệm và chưa được thương mại hóa ổn định với công suất lớn.

Còn ở phương án 2, rác thải khi đưa về nhà máy chỉ cần được loại bỏ các chất thải phi nhiên liệu cỡ lớn dễ tách biệt, sau đó tập trung trong bể chứa rác kín.

Trong quá trình ủ từ 12-15 ngày, các chất hữu cơ trong rác tiếp tục bị phân hủy, hình thành nước rỉ rác, sau đó nước được tách ra tại đáy bể theo một quy trình riêng biệt bao gồm các quá trình xử lý yếm khí, hiếu khí, lắng, lọc.

Nhiệt thừa trong quá trình đốt tiêu hủy rác sẽ được tận dụng để đun nóng nước, qua đó sinh hơi và chuyển sang tua bin để sản xuất ra điện năng như các nhà máy nhiệt điện khác.

Công nghệ này không cần phân loại rác thải, diện tích nhà máy xử lý không quá lớn, hiệu suất chuyển đổi năng lượng cao hơn so với công nghệ theo phương án 1, tuy nhiên cũng chỉ dao động ở mức từ 25-30%.

Điểm hạn chế của công nghệ này là chi phí đầu tư lớn, hệ thống xử lý môi trường cũng tốn kém, tính khả thi cao hay thấp tùy thuộc vào thành phần rác thải.

Kinh tế và môi trường – nghiêng sang đâu?

Trong cuộc họp báo tháng 7/2020 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ông Hoàng Văn Thức, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, thừa nhận rằng việc xử lý rác thải sinh hoạt, nhất là tại các đô thị lớn như Hà Nội, là vấn đề rất nóng.

Định hướng của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc xử lý chất thải rắn là khuyến khích áp dụng các công nghệ hiện đại, trong đó có điện rác.

Theo ông Hoàng Văn Thức, để “dòng chảy” rác đô thị không bị nghẽn thì phải thông suốt ở tất cả các khâu: quy hoạch-công nghệ-nhân lực. Chỉ cần tắc một khâu là nghẽn toàn bộ dây chuyền.

Tại khâu quy hoạch, điểm nghẽn là khó tìm được địa điểm thích hợp cho các bãi tập kết rác, địa điểm xây dựng nhà máy điện rác. Nhà quy hoạch, chủ đầu tư thường không tìm được tiếng nói chung với người dân địa phương.

Người dân vốn có ấn tượng tiêu cực với các bãi rác nên họ không muốn ở gần bất kỳ dự án xử lý rác nào, dù là theo công nghệ chôn lấp hay đốt cháy thu năng lượng.

Một số doanh nghiệp có ý định đầu tư vào các dự án điện rác nhưng sau khi vấp phải sự “lạnh nhạt” của các địa phương thì đã rút lui.

Về mặt chính sách, cơ chế cũng có một số vướng mắc. Các doanh nghiệp đánh giá thủ tục đầu tư xử lý chất thải rắn sinh hoạt rất phức tạp, có khi kéo dài hàng năm, cần sự chấp thuận của nhiều bộ, ngành, trong đó có đánh giá tác động môi trường, quy hoạch phát triển nguồn điện…

Ngoài ra, do chưa có các hướng dẫn cụ thể thực hiện Luật Quy hoạch nên việc bổ sung các dự án vào Quy hoạch phát triển điện lực bị kéo dài, đình trệ.

Tại Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg ngày 5/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn tại Việt Nam, có các quy định hỗ trợ về giá mua điện. Tuy nhiên, các dự án xử lý chất thải phải theo quy hoạch điện lực nên nhiều dự án gặp khó khăn do phải chờ quy hoạch của ngành điện.

Các chuyên gia kiến nghị để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, Chính phủ cần chỉ đạo rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật, các quy trình, thủ tục còn vướng mắc giữa các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng trong lĩnh vực quản lý chất thải sinh hoạt đô thị (Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư – PPP, các quy định phát triển dự án điện rác, công tác quy hoạch…), đồng thời cụ thể hóa chính sách ưu đãi đầu tư.

Chỉ khi cơ chế rộng mở, thủ tục hành chính đơn giản thì mới thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải rắn.

Tại Hà Nam, Cần Thơ, Quảng Bình, một số nhà máy điện rác đã đi vào hoạt động. Một số dự án đang được triển khai gồm cơ sở ở Vĩnh Tân (Đồng Nai) với công suất 600 tấn/ngày, công suất phát điện 30MW; cơ sở ở Sóc Sơn (Hà Nội) với công suất 4.000 tấn/ngày, công suất phát điện 75MW; cơ sở ở Phù Ninh (Phú Thọ) với công suất 500 tấn/ngày; hai cơ sở tại Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh với công suất mỗi nhà máy là 1.000 tấn/ngày…

Tuy vậy, việc thu hút nhà đầu tư vào các dự án điện rác không đơn giản. Nhiều dự án điện rác ở Việt Nam “đứt gánh giữa đường” do công nghệ đòi hỏi khoản kinh phí quá lớn (thiết bị chiếm 70-80% tổng vốn đầu tư) và khó thích ứng với thực tế ở nước ta là rác không được phân loại ngay từ đầu nguồn. Các dự án đã được hoàn thành thì hiệu quả kinh tế đều không cao.

Theo dữ liệu ban đầu của một số dự án tại Việt Nam đã được phê duyệt và chờ phê duyệt, suất đầu tư cho các nhà máy điện rác nằm trong khoảng 3,5-4 triệu USD/1MW điện.

Điểm chung của các dự án này là chi phí vận hành lớn, cần bảo trì thường xuyên và tuổi thọ thiết bị ngắn hơn so với các dự án nhiệt điện đốt than.

Trong khi đó, dù sử dụng loại công nghệ theo phương án nào thì hiệu suất điện năng của các nhà máy điện rác đều ở mức nhỏ (cao nhất cũng chỉ là 30%). Do công suất điện phát lên lưới quốc gia cũng sẽ nhỏ nên thời gian thu hồi vốn của các dự án này thường chậm, từ 10-20 năm.

Các nhà đầu tư điện rác cũng từng đề xuất về việc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu tiên, hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp 5% trong 9 năm tiếp theo và từ năm thứ 15 trở đi thì được hưởng thuế suất 10%.

Trong Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg ngày 5/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ “Về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn tại Việt Nam” ngoài quy định về trách nhiệm mua điện từ các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn còn có quy định về ưu đãi về vốn đầu tư, thuế; ưu đãi về đất đai; hỗ trợ giá điện.

Điều này cho thấy Chính phủ rất quan tâm đến việc bảo vệ môi trường và khuyến khích phát triển công nghệ xử lý rác hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh định hướng, chính sách vĩ mô thì còn cần sự vào cuộc quyết liệt trong từng dự án cụ thể từ phía các bộ, ngành có liên quan, các địa phương và cả người dân.

Chúng ta hiểu rằng so với các loại hình công nghệ sản xuất điện năng khác (thủy điện, nhiệt điện than…), đốt rác phát điện không thể chiếm ưu thế về hiệu quả năng lượng. Cần nhìn nhận sự việc theo góc độ sinh thái-đốt rác và tận dụng nhiệt thải để phát điện, trước hết là một giải pháp giúp cho quá trình xử lý rác thải được hiệu quả cao hơn, bền vững hơn.

Ngay trong việc thu phí rác thải ở nước ta hiện nay vấn đề “hoạch toán” cũng không là yếu tố chính bởi thu không đủ chi.

Theo WB, mức thu phí rác thải tại Việt Nam mới chiếm khoảng 0,5% thu nhập trung bình của hộ gia đình, trong khi “nhẽ ra” mức phí phải chiếm từ 1-1,5% thu nhập trung bình của các hộ gia đình.

Đồng thời, tỷ lệ thu phí xử lý rác hằng năm tại các địa phương đạt thấp. Ví dụ, tại 4 quận nội thành Hà Nội (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa và Hai Bà Trưng) phí rác tối đa là hơn 103 tỷ đồng/năm nhưng số tiền thu được trên thực tế chỉ là 65,8 tỷ đồng/năm, bằng 64%.

Trong việc đánh giá hiệu quả của công nghệ điện rác giá trị kinh tế nên được đặt sau giá trị bảo vệ môi trường. Nếu không đẩy nhanh tỷ trọng công nghệ đốt rác thu hồi năng lượng trong việc xử lý rác thải rắn sinh hoạt, mà chỉ trông chờ vào kiểu chôn lấp truyền thống thì tình trạng “ứ rác” như tại Hà Nội trong trung tuần tháng 7 vừa qua vẫn có nguy cơ “đến hẹn lại lên” dù không ai “ra ngó vào trông”./.

Trần Quang Vinh (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/dien-rac-bai-toan-kinh-te-hay-moi-truong-doi-voi-viet-nam/653159.vnp

Bùng nổ đầu tư năng lượng tái tạo toàn cầu

Theo báo cáo của Bloomberg NEF, trong nửa đầu năm 2020, tổng đầu tư toàn cầu cho phát triển năng lượng tái tạo (trừ thủy điện) đạt 132,4 tỷ USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2019.

Trong đó, đầu tư vào lĩnh vực điện gió ngoài khơi tăng kỷ lục 319% lên 35 tỷ USD. Ngược lại, đầu tư vào lĩnh vực điện gió trên đất liền giảm 21% xuống còn 37,5 tỷ USD; đầu tư vào lĩnh vực điện mặt trời giảm 12%, xuống còn 54,7 tỷ USD. Một số lĩnh vực khác như: đầu tư cho năng lượng sinh khối và năng lượng rác giảm 34% xuống còn 3,7 tỷ USD; đầu tư vào năng lượng địa nhiệt tăng 594% lên 676 triệu USD.

Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư lớn vào năng lượng tái tạo, Trung Quốc chiếm vị trí số 1 với 41,6 tỷ USD, tăng 42% so với cùng kỳ năm 2019, chủ yếu vào lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Báo cáo cũng cho biết, đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến hoạt động đầu tư vào năng lượng tái tạo trong nửa đầu năm nay. Nhiều dự án bị hoãn, hủy huy động tài chính và chương trình đấu thầu. Tuy nhiên, lĩnh vực điện gió ngoài khơi chứng kiến hoạt động đầu tư bùng nổ, chủ yếu do triển vọng phát triển các nhà máy điện gió ngoài khơi quy mô lớn và những thành tựu công nghệ phát triển tuabin gió thời gian gần đây.

Chính phủ Hàn Quốc công bố kế hoạch đầu tư 94,6 tỷ USD cho các dự án “xanh” giúp nền kinh tế phục hồi sau đại dịch Covid-19 và tạo thêm 1,9 triệu việc làm mới cho nền kinh tế đến năm 2025. Mục tiêu của kế hoạch là đưa nền kinh tế nước này giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy các ngành công nghiệp thân thiện với môi trường trên nền tảng công nghệ kỹ thuật số, bao gồm: sản xuất ô tô điện và ô tô hydro, hệ thống lưới điện thông minh. Hàn Quốc đặt mục tiêu đạt 1,13 triệu xe điện và 200.000 xe hydro vào năm 2025 và mở rộng hệ thống trạm sạc điện và hydro trên toàn quốc.

Chính phủ Kuwait thông báo hủy kế hoạch xây dựng nhà máy điện mặt trời Al-Dabdaba – dự án sẽ cung cấp 15% nhu cầu năng lượng điện của ngành công nghiệp dầu mỏ Kuwait. Nguyên nhân hủy bỏ kế hoạch là do sự lây lan đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến thị trường tài chính và dầu mỏ toàn cầu nói chung và nền kinh tế Kuwait nói riêng. Theo kế hoạch, dự án được Công ty Dầu khí Quốc gia Kuwait (KNPC) triển khai và sẽ bắt đầu hoạt động vào tháng 2/2021. Chính phủ nước này cho biết, quyết định trên sẽ hỗ trợ KNPC tập trung vào các hoạt động ưu tiên và duy trì vị thế trên thị trường dầu mỏ toàn cầu. Kuwait có kế hoạch tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu các nguồn năng lượng lên 15% vào năm 2030.

Ứng cử viên Tổng thống Mỹ của Đảng Dân chủ John Biden tuyên bố sẽ chuyển đổi ngành năng lượng Mỹ sang năng lượng tái tạo vào năm 2035 nếu trúng cử trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11 sắp tới. Theo ông Biden, Mỹ sẽ thu hút được khoảng 2.000 tỷ USD cho quá trình chuyển đổi sang các nguồn năng lượng thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, ông Biden cũng ủng hộ kế hoạch của lãnh đạo Đảng Dân chủ tại Thượng viện Chuck Schumer về khuyến khích người dân Mỹ chuyển đổi xe ô tô chạy xăng, dầu sang động cơ hybrid, chạy điện hoặc nhiên liệu hydro. Hiện tại, chính quyền Mỹ của Tổng thống Trump cam kết mở rộng sản xuất nhiên liệu hóa thạch.

China Daily cho biết, Trung Quốc sẽ đưa vào vận hành từ 6-8 lò phản ứng hạt nhân mỗi năm trong giai đoạn 2020-2022 và sẽ tăng công suất điện hạt nhân lên 70 GW. Theo Ủy ban Năng lượng Trung Quốc, tính đến tháng 5/2020, tổng công suất điện hạt nhân của nước này hiện đạt 48,8 GW, chiếm 2,5% tổng công suất phát điện. Công suất điện hạt nhân Trung Quốc được dự báo tăng lên 52 GW (51 tổ máy phát điện) vào cuối năm 2020. Theo Trung tâm phát triển năng lượng hạt nhân Trung Quốc, tổng công suất phát điện hạt nhân nước này sẽ tăng lên 130 GW vào năm 2030, 170 GW vào năm 2035 và 340 GW vào năm 2050. Phát triển năng lượng hạt nhân tại Trung Quốc đã bị đóng băng, nhất là triển khai các dự án lớn do lệnh cấm 4 năm xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới sau thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) năm 2011.

Viễn Đông
https://petrotimes.vn/bung-no-dau-tu-nang-luong-tai-tao-toan-cau-574305.html

Tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà máy điện mặt trời phát điện vận hành thương mại

Thời hạn để các chủ đầu tư điện mặt trời hưởng giá ưu đãi theo Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (giá FIT 2) không còn nhiều. Để các chủ đầu tư điện mặt trời có thể “cán đích” đúng tiến độ mong muốn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị trực thuộc đã hỗ trợ, tạo điều kiện tối đa cho các Nhà máy điện mặt trời bằng những giải pháp đồng bộ, quyết liệt.

Chủ động ban hành Quy trình thử nghiệm, công nhận Ngày vận hành thương mại (COD)

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư điện mặt trời trong việc đưa các nhà máy đi vào vận hành thương mại trước 31/12/2020 – thời hạn cuối để hưởng giá FIT 2 – Tập đoàn Điện lực Việt Nam vừa ban hành Quyết định 1010/QĐ-EVN ngày 10/7/2020 về Quy trình thử nghiệm và công nhận “Ngày vận hành thương mại” cho nhà máy điện gió và nhà máy điện mặt trời. Trong đó, quy định rõ các trình tự, thủ tục, các bước triển khai; trách nhiệm của từng đơn vị trong việc đăng ký thử nghiệm và công nhận ngày vận hành thương mại cho các nhà máy điện mặt trời.


EVN luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà máy điện mặt trời phát điện vận hành thương mại.

Theo Quyết định 1010/QĐ-EVN, để đăng ký thử nghiệm COD, đơn vị phát điện phải hoàn thành ghép nối SCADA của nhà máy điện trước ngày tiến hành thử nghiệm; không muộn hơn 20 ngày làm việc trước ngày tiến hành thử nghiệm công nhận COD, đơn vị phát điện có trách nhiệm gửi cấp điều độ có quyền điều khiển và Công ty Mua bán điện chương trình chạy thử nghiệm nhà máy điện; không muộn hơn 03 ngày làm việc trước ngày dự kiến bắt đầu chạy thử nghiệm, nghiệm thu, đơn vị phát điện đăng ký chính thức lịch chạy thử nghiệm, nghiệm thu với cấp điều độ có quyền điều khiển.

Ông Trần Đăng Khoa – Trưởng Ban Thị trường điện EVN cho biết, năm 2019, EVN cũng đã ban hành Quyết định số 578/QĐ-EVN ngày 10/5/2019 về Quy trình thử nghiệm và công nhận “Ngày vận hành thương mại” cho nhà máy điện gió và nhà máy điện mặt trời. Qua đó, quy trình đã được thực hiện thành công trong việc công nhận COD cho 86 nhà máy điện mặt trời đi vào vận hành trước ngày 30/6/2019 trong một thời gian ngắn đảm bảo an toàn và theo đúng quy định pháp luật, một sự kiện chưa từng có trong hệ thống điện Việt Nam. Tuy nhiên, Quyết định 578 gắn liền với Quyết định số 11/2017-QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam hiện đã hết hiệu lực kể từ thời điểm sau ngày 30/6/2019. Trong bối cảnh thời gian từ nay đến cuối năm 2020 không còn nhiều, EVN đã chủ động và sớm ban hành Quyết định số 1010 thay thế Quyết định 578 để các nhà máy có thể nắm rõ và triển khai các quy trình thử nghiệm và công nhận “Ngày vận hành thương mại”.

Cũng theo Quyết định này, trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đăng ký lịch chạy thử nghiệm, nghiệm thu, cấp điều độ có quyền điều khiển có trách nhiệm giải quyết và gửi phiếu đăng ký công tác thử nghiệm, nghiệm thu đã được giải quyết tới đơn vị phát điện. Cấp điều độ cũng có quyền thay đổi kế hoạch thử nghiệm để đảm bảo vận hành an toàn hệ thống điện quốc gia và phù hợp với các yêu cầu thử nghiệm, nhưng phải thông báo cho đơn vị phát điện…

Nội dung của Quy trình đã được thông tin cụ thể tới từng chủ đầu tư thông qua nhiều cuộc họp với các chủ đầu tư trong các năm 2019, 2020 với mục tiêu EVN sẽ phối hợp chặt chẽ với các chủ đầu tư, lên kế hoạch thử nghiệm hợp lý để phân bổ tối ưu thời gian và nguồn lực để đáp ứng tối đa các yêu cầu của các chủ đầu tư.

Song song với việc ban hành quy trình, EVN sẽ huy động nguồn lực, nhân lực tiến hành thực hiện thử nghiệm, công nhận COD từng phần hoặc toàn bộ nhà máy cho các chủ đầu tư. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả các hạng mục, chủ đầu đầu tư cần đăng ký thử nghiệm sớm để Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia chủ động bố trí thời gian, nhân lực bố trí thử nghiệm đóng điện lần đầu và thử nghiệm COD cho các nhà máy.

Sẵn sàng hỗ trợ chủ đầu tư 24/24

Ông Nguyễn Xuân Nguyên – Giám đốc Trung tâm Điều khiển Nhà máy điện mặt trời Solar Park 1,2,3,4 (Long An) đánh giá cao sự hỗ trợ của EVN trong thời gian qua.

Nhằm tạo điều kiện cho các chủ đầu tư, giảm thiểu các bước trung gian, EVN và các đơn vị như Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia, Công ty Mua bán điện… đã tích cực ứng dụng CNTT trong công tác triển khai các quy trình, thủ tục. Điển hình, EVN đã thực hiện tiếp nhận hồ sơ đăng kí COD của các chủ đầu tư thông qua website http://ppa.evn.com.vn. Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia cũng đưa vào vận hành Cổng dịch vụ trực tuyến phục vụ gửi hồ sơ đăng ký đóng điện lần đầu với các dự án năng lượng tái tạo. Các ứng dụng trên đều được các đơn vị thực hiện trên nền tảng số hóa, giảm thiểu tối đa các thủ tục cũng như thời gian đi lại cho các chủ đầu tư.

“Để hỗ trợ các nhà máy EVN đã lập nhiều group online sẵn sàng hỗ trợ 24/24 như group của Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia hay của Công ty Mua bán điện… rất hữu ích đối với các chủ đầu tư” – Ông Nguyễn Xuân Nguyên – Giám đốc Trung tâm Điều khiển Nhà máy điện mặt trời Solar Park 1,2,3,4 (Long An).

Không chỉ có vậy, các đơn vị trực thuộc EVN còn tạo các nhóm trao đổi qua ứng dụng Viber với các chủ đầu tư, sẵn sàng hỗ trợ, trả lời các câu hỏi, vướng mắc của chủ đầu tư 24/24 giờ.

Với các nhà máy đã đi vào vận hành, việc phân bổ công suất cũng được EVN/A0 đảm bảo tính công khai, minh bạch và công bằng; tận dụng tối đa khả năng tải của các đường dây, ưu tiên các nhà máy điện năng lượng tái tạo, nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại của các chủ đầu tư.

Những nỗ lực của EVN và các đơn vị trực thuộc trong quá trình suốt từ đầu năm 2019 đến nay đã được các chủ đầu tư đánh giá cao. Ông Nguyễn Xuân Nguyên – Giám đốc Trung tâm Điều khiển Nhà máy điện mặt trời Solar Park 1,2,3,4 (Long An) chia sẻ: Thời gian qua, Solar Park đã nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ EVN cũng như các đơn vị như Trung tâm Điều độ Hệ thống Điện Quốc gia, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện miền Nam, Công ty Mua bán điện, Tổng công ty Điện lực miền Nam trong việc đưa 2 Nhà máy Solar Park 1,2 đi vào vận hành thương mại từ tháng 6/2019. Hiện 2 nhà máy còn lại cũng đang nhận được sự hỗ trợ tích cực, để COD trong tháng 7/2020.

Ông Ngô Sơn Hải – Phó Tổng giám đốc EVN cho biết, từ nay đến cuối năm, còn khoảng 36 nhà máy điện sẽ đóng điện, đi vào vận hành thương mại. Tuy số lượng các nhà máy không nhiều nhưng sẽ tập trung đóng điện vào thời điểm cuối năm. Để quá trình thử nghiệm, đóng điện đưa vào vận hành được thuận lợi, EVN và các đơn vị trực thuộc bố trí nhân lực hỗ trợ tối đa các chủ đầu tư trong quá trình triển khai các quy trình, thủ tục.

Hải An
https://petrotimes.vn/tao-dieu-kien-thuan-loi-nhat-de-cac-nha-may-dien-mat-troi-phat-dien-van-hanh-thuong-mai-574470.html

Thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật điện mặt trời áp mái

Điện mặt trời áp mái (ĐMTAM) mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, Việt Nam đang thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật ĐMTAM, ảnh hưởng đến việc vận hành hệ thống lưới điện. Phóng viên Tạp chí Năng lượng Mới đã có cuộc trao đổi với ông Võ Quang Lâm – Phó tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) – về vấn đề này.

PV: Nhiều ý kiến cho rằng, nước ta đang có nguy cơ thiếu điện. Ông có nhận xét gì về ý kiến đó?


Ông Võ Quang Lâm

Ông Võ Quang Lâm: Nhiều dự án nguồn điện theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh đang bị chậm tiến độ hoặc chưa xác định được tiến độ, dẫn đến nguy cơ Việt Nam sẽ bị thiếu điện trong tương lai gần. Báo cáo của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực mới đây cho thấy, trong số 62 dự án nguồn điện công suất lớn từ 200 MW trở lên trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh, chỉ có 15 dự án đạt tiến độ, còn lại 47 dự án chậm tiến độ hoặc chưa xác định được tiến độ.

Chính vì vậy, bên cạnh các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm tiến độ, đẩy mạnh tiết kiệm điện, thì việc thúc đẩy phát triển các dự án điện gió, điện mặt trời là cần thiết và cấp bách. Thực tế, nguồn năng lượng tái tạo đang chiếm khoảng 10% tổng công suất toàn hệ thống, nhưng sản lượng điện tạo ra chỉ chiếm dưới 3% tổng sản lượng điện sản xuất.

PV: Thời gian qua, Việt Nam đã có những chính sách thúc đẩy sự phát triển ĐMTAM. Ông đánh giá thế nào về tiềm năng của nguồn năng lượng này?

Ông Võ Quang Lâm: Tính đến 31-5-2020, cả nước đã có khoảng 37.000 khách hàng lắp đặt ĐMTAM với tổng công suất 653 MW. Đây là mô hình mang lại rất nhiều lợi ích cho chủ đầu tư. Với hộ gia đình, ĐMTAM sẽ góp phần giảm số điện sử dụng ở bậc thang giá cao. Với doanh nghiệp, ĐMTAM góp phần giảm số điện phải sử dụng trong giờ cao điểm, tiết giảm chi phí tiền điện hằng tháng. Ngoài ra, phần sản lượng điện mặt trời dư thừa, chủ đầu tư có thể bán lại cho ngành điện. Chúng tôi kỳ vọng từ nay đến cuối năm, sẽ có thêm 500-1.000 MW ĐMTAM được lắp đặt.

Tuy nhiên, Việt Nam đang thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật ĐMTAM. Đây là vấn đề cần được quan tâm, vì ảnh hưởng rất lớn đến việc vận hành hệ thống lưới điện trung, hạ áp trong thời gian tới. Hiện nay, EVN đang phối hợp với Bộ Công Thương và Tổ chức GIZ để xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật cho ĐMTAM.

PV: Theo ông, cần có cơ chế chính sách gì để khuyến khích người dân, doanh nghiệp đầu tư và sử dụng ĐMTAM?

Ông Võ Quang Lâm: Ngay sau khi Thủ tưởng Chính phủ ban hành Quyết định 13/2020/QĐ-TTg về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam, trong đó có ĐMTAM, EVN đã báo cáo Bộ Công Thương cho phép tạm thời áp dụng Thông tư 05 để EVN có thể ký được các hợp đồng mua bán điện với người dân và doanh nghiệp đã lắp ĐMTAM, thanh toán được ngay với người dân và doanh nghiệp. Từ ngày 22-5-2020, EVN đã thực hiện thanh toán cho người dân và doanh nghiệp đã lắp ĐMTAM từ 1-7-2019 đến nay với số tiền gần 300 tỉ đồng.

Việc phát triển ĐMTAM là cơ hội rất tốt để người dân, doanh nghiệp giảm chi phí mua điện từ EVN. Do tính chất của điện mặt trời, sản xuất vào đúng giờ cao điểm của các doanh nghiệp nên doanh nghiệp sẽ giảm bớt giá điện bậc thang vào giờ cao điểm. Hiện nay, giá điện bậc thang tùy vào cấp điện áp, nếu điện áp dưới 6 kW thì khoảng 3.000 đồng/kWh, còn điện áp trên 6 kW thì cao hơn 50% so với giá điện bán cho EVN. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã lắp tấm pin điện mặt trời trên mái công xưởng để giảm bớt điện tiêu thụ vào giờ cao điểm.

Từ ngày 22-5-2020, EVN đã thực hiện thanh toán cho người dân và doanh nghiệp đã lắp ĐMTAM từ 1-7-2019 đến nay với số tiền gần 300 tỉ đồng.

Vì những lợi ích to lớn đó nên EVN đã tạo mọi cơ chế khuyến khích doanh nghiệp lắp ĐMTAM. Một mặt, EVN yêu cầu các tổng công ty điện lực, khi người dân, doanh nghiệp có nhu cầu lắp đặt ĐMTAM, trong vòng hai ngày kể từ khi có thông tin phải trang bị công tơ hai chiều miễn phí cho người dân, doanh nghiệp và ký các hợp đồng mua bán điện điện tử.

Ngoài ra, EVN đang thúc đẩy xây dựng nền tảng, tạm gọi là EVN Solar, trên nền tảng đó, EVN cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề pháp lý, thông tin nhà thầu, để các nhà đầu tư, các nhà bán thiết bị, các nhà quản lý có thể gặp nhau nhằm phát triển ĐMTAM ở Việt Nam. EVN đã báo cáo Bộ Công Thương để sớm triển khai hợp đồng mua bán điện trực tiếp giữa người dân, doanh nghiệp với nhau không qua lưới của EVN để tận dụng được nguồn năng lượng quý giá này.

PV: Đối với những khó khăn về giải tỏa công suất cho ĐMTAM, EVN đã có những giải pháp gì, thưa ông?

Ông Võ Quang Lâm: Đối với các dự án nối lưới, EVN đang thực hiện theo các quy định, tiến độ cam kết với các nhà đầu tư. Đặc biệt, đối với các dự án truyền tải lớn, chúng tôi đang tiếp tục đẩy mạnh đầu tư. Chúng tôi cũng nhìn thấy một số khó khăn có thể có trong việc giải tỏa công suất của ĐMTAM, chủ yếu liên quan đến các máy biến áp. Chúng tôi đã đưa các thông tin về tiến độ giải tỏa công suất của các máy biến áp lên các website của EVN để người dân và doanh nghiệp có thể theo dõi được những khu vực nào hệ thống điện sẵn sàng cho việc giải tỏa công suất của ĐMTAM.

Xu hướng chung của xã hội là sử dụng nhiều hơn nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời. Đây là một xu hướng rất tốt, giảm được chi phí đầu tư cho ngành điện cũng như tăng nguồn phụ tải cho nguồn điện, bởi hiện nay nguồn điện đang rất khó khăn. Mong Chính phủ và Bộ Công Thương tiếp tục có những cơ chế chính sách tốt hơn để khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Đức Minh
https://petrotimes.vn/thieu-tieu-chuan-ky-thuat-dien-mat-troi-ap-mai-574108.html

“Hydro sạch”: Động lực vượt qua cuộc khủng hoảng COVID-19

Ngày 10/7, Liên minh châu Âu đã tiết lộ một kế hoạch phát triển hydro sạch với mục đích khử cacbon cho các ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhất như ngành công nghiệp thép, vận tải trong cuộc đua hướng đến trung hòa khí hậu vào năm 2050 ở châu Âu.

“Đây là chìa khoá cho một nền kinh tế châu Âu mạnh mẽ, cạnh tranh và không cacbon”, Phó chủ tịch Uỷ ban châu Âu Frans Timmermans nói trong cuộc họp báo. Uỷ ban châu Âu tin rằng “hydro sạch” sẽ giúp các lĩnh vực giảm lượng khí thải nhà kính. “Nền kinh tế hydro mới có thể là động lực tăng trưởng, do đó giúp chúng ta khắc phục thiệt hại kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra”, Frans Timmermans cho biết.

Điều này liên quan đến việc thay thế nhiên liệu hoá thạch trong công nghiệp, đặc biệt là sản xuất thép, sử dụng “hydro sạch” không chỉ làm nhiên liệu cho vận tải hàng không và đường biển, phương tiện chở hàng nặng, mà còn cho ngành sản xuất pin. “Hydro sạch” đã trở thành một khoản đầu tư ưu tiên cho quá trình chuyển đổi và hồi sinh nền kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Hiện tại, ngành năng lượng góp 75% lượng khí thải nhà kính của châu Âu.

Sản xuất và tiêu thụ hydro hiện tại ở EU lên tới 9,8 triệu tấn mỗi năm, chủ yếu là từ nhiên liệu hóa thạch. Chỉ là một phần rất nhỏ của mức tiêu thụ năng lượng ở châu Âu, nhưng Uỷ ban châu Âu muốn tăng năng lượng “sạch” lên 14% vào năm 2050 (năng lượng sạch được sản xuất bằng cách điện phân nước với điện từ các nguồn tái tạo).

Một xe buýt chạy bằng nhiên liệu hydro sạch.

Ban đầu, Uỷ ban muốn hỗ trợ lắp đặt 6 máy điện phân có công suất 6 gigawatt (GW) và sản xuất lên tới một triệu tấn hydro tái tạo mỗi năm, trước khi tăng dần nhằm phát triển quy mô lớn từ năm 2030 đến năm 2050.

“Chúng ta là dẫn đầu thế giới trong công nghệ này và chúng ta muốn đứng đầu cả trong lĩnh vực hydro sạch nhưng chúng ta cần phải nỗ lực thêm (…) vì các nước còn lại trên thế giới đang bắt kịp chúng ta một cách nhanh chóng”, Frans Timmermans cho biết.

Đầu tháng 6/2020, Đức đã công bố khoản đầu tư khổng lồ 9 tỷ euro với với tham vọng trở thành “nhà cung cấp và sản xuất hydro số một” trên thế giới. Pháp sẽ dành 1,5 tỷ euro trong ba năm để “giúp ngành hàng không đạt mức trung hòa carbon vào năm 2035”. “Đức quan tâm đến việc thúc đẩy dự án đầu tư vì Đức có tiềm năng rất lớn trong việc tạo ra một ngành công nghiệp lớn cho hydro “sạch”, Clément Le Roy, nhà phân tích năng lượng tại Wavestone cho biết.

Hydro sạch phải tham gia vào việc thiết lập một hệ thống năng lượng tích hợp tốt hơn ở châu Âu, mục tiêu này cũng là chủ đề của “chiến lược” mới được công bố vào ngày 10/7. Ủy ban muốn phát triển một hệ thống “tuần hoàn” hơn, tập trung vào hiệu quả năng lượng và điện khí hóa. Ví dụ: bằng cách tái sử dụng nhiệt thải từ các khu công nghiệp hoặc trung tâm dữ liệu hoặc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang xe điện.

Theo tổ chức phi chính phủ Giao thông và Môi trường, châu Âu có lý khi ưu tiên sử dụng hydro trong lĩnh vực vận chuyển, ngành chưa từng có bất kỳ sự thay thế nào cho quá trình khử cacbon. Nhưng giống những hội bảo vệ môi trường khác, tổ chức này lo lắng về vai trò của khí gas.

Ủy ban Châu Âu tin rằng trong những năm đầu tiên, “giai đoạn chuyển tiếp” sẽ cần thiết để đảm bảo sản xuất ổn định và giá cả cạnh tranh, trong đó các quy trình khác của việc sản xuất hydro, phát thải carbon sẽ được duy trì nhưng giảm nhẹ bằng các kỹ thuật thu giữ carbon. “Ủy ban đã rơi vào cái bẫy của ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch. (…) Điều này vô hình trung mang đến một huyết mạch mới cho ngành công nghiệp đang sụp đổ này”, Tara Connolly của tổ chức môi trường thế giới Friends of the Earth cho biết.

Cuối tháng 6/2020, một liên minh lớn gồm các nhà công nghiệp – ExxonMobil, GE, ENI, Equinor hoặc Erdgas ủng hộ việc sản xuất hydro bằng khí tự nhiên, kèm theo công nghệ thu giữ carbon nhằm giúp hydro có giá cạnh tranh. “Hiện nay, việc sản xuất hydro bằng khí tự nhiên rẻ hơn từ 2 đến 5 lần so với hydro tái tạo và việc triển khai kỹ thuật này sẽ giúp giảm chi phí sau này”. Lisa Fischer của tổ chức E3G cho biết : “Uỷ ban châu Âu quên rằng nếu chúng ta muốn hydro sạch, chúng ta sẽ cần nhiều năng lượng tái tạo hơn nhiều so với những gì chúng ta đang sản xuất”.

Nh.Thạch theo AFP
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/hydro-sach-dong-luc-vuot-qua-cuoc-khung-hoang-covid-19-573918.html

Điều kỳ diệu từ tảo nhiên liệu

Các nhà công nghệ sinh học đã tạo ra được những loài tảo sản xuất ethanol, dầu thô, thậm chí diesel. Những loài tảo này chỉ cần ánh sáng mặt trời, CO2, nước biển và tiết ra nhiên liệu không ngừng.

Tảo nhiên liệu của nhà công nghệ sinh học Dan Robertson (phụ trách bộ phận nghiên cứu tại Công ty Công nghệ sinh học Joule của Mỹ) lấp lánh màu lục sẫm. Khi ánh sáng chiếu qua màng bọc của nó, nó tiết ra từng giọt nhiên liệu. Ông tự hào giới thiệu những chiếc ống nghiệm đựng một thứ dung dịch màu xanh lục tại trung tâm nghiên cứu khoa học Life Sciences Square (Cambridge, Mỹ). Tại đây đang xảy ra điều kỳ diệu. Các nhà khoa học trong nhóm của Dan Robertson đã tạo ra những loài tảo lam sản xuất được diesel.


Xăng nhiên liệu sinh học thu hồi từ tảo xanh.

Các nhà chuyên môn mơ đến một cuộc cách mạng xanh mới. Bằng công nghệ gene và những quy trình nuôi cấy, chọn giống tinh vi, các nhà công nghệ sinh học đang biến tảo lục thành những nhà máy mini sản xuất dầu, ethanol hoặc diesel. Dung dịch tảo lục được nuôi trồng trong hồ ao và tuần hoàn qua các lò phản ứng sinh học. Jason Pyle – đại diện Công ty Năng lượng Sapphire Energy (Mỹ), nơi đã bắt đầu sản xuất dầu thô từ tảo – nhận định: “Sản xuất dầu từ tảo nhằm thay thế dầu mỏ trong tương lai”.

Ngành công nghiệp dầu mỏ truyền thống cũng vào cuộc. Ông Emil Jacobs – Giám đốc phụ trách khoa học của Exxon Mobil – nhận xét: “Nhiên liệu từ tảo có thể trở thành một nguồn năng lượng quyết định”. Exxon Mobil đầu tư 600 triệu USD vào Công ty Synthetic Genomics của chuyên gia giải mã gene Craig Venter.

Tại Mỹ đã có hàng trăm nghìn ôtô chạy bằng ethanol sản xuất từ ngũ cốc. Ở Mỹ, xăng chạy xe được trộn hơn 40% ethanol. Thứ nhiên liệu này ra đời từ quy trình lên men ngô hoặc lúa mạch. Tuy nhiên, thứ “rượu” của ôtô này đang bị chỉ trích. 1 ha ngô mỗi năm chỉ cung cấp gần 4.000 lít ethanol và để sản xuất một lít ethanol phải tiêu tốn 8.000 lít nước ngọt. Bên cạnh đó, một diện tích lớn đất nông nghiệp quý giá để sản xuất lương thực bị mất đi. Vụ ngô năm ngoái, lần đầu tiên nông dân Mỹ thu hoạch ngô để sản xuất ethanol nhiều hơn là để chăn nuôi. Sản xuất nhiên liệu sinh học bùng phát đã đẩy giá lương thực, thực phẩm tăng vọt.


Tảo được trồng thử nghiệm ở trung tâm nghiên cứu khoa học Life Sciences Square, Đại học Cambridge.

Vì thế, hiện nay nhiều nhà sinh thái học cho rằng, trồng các loại cây năng lượng là hướng đi sai trái. Trong khi đó, tảo không cần đất nông nghiệp. Mặt trời, nước mặn, một chút phân bón và CO2 là đủ để loài sinh vật nhỏ bé này sinh trưởng. Khi quang hợp, chúng tiêu thụ lượng CO2 tương tự như lượng CO2 thải ra khi đốt dầu được sản xuất từ chúng, nên nhiên liệu tảo vô hại với khí hậu. Năng suất của tảo cũng rất đáng kinh ngạc. Trên 1 ha tảo ngoài sa mạc mỗi năm có thể thu được một lượng nhiên liệu sinh học từ sinh khối của tảo lớn gấp 8 lần lượng nhiên liệu sinh học từ ngô.

Sapphire Energy thuộc những công ty tiên phong trong lĩnh vực này. Chủ tịch Pyle tham vọng biến sa mạc thành vùng đất năng lượng. Ông Pyle nói: “Để làm được điều đó chúng ta phải trồng tảo như trồng lúa trong ao nước nông, trên diện tích hàng nghìn héc-ta. Chỉ như vậy mới sản xuất được nhiên liệu tảo với khối lượng lớn và giá cả cạnh tranh”.

Trong tương lai, giá 1 thùng dầu tảo lục của Sapphire Energy vào khoảng từ 70-100 USD. Tuy nhiên, cần phải chọn được những giống tảo có năng suất cao. Các chuyên gia của Sapphire Energy đã thử nghiệm những chủng tảo lục kỳ diệu tại một cơ sở nhỏ ở bang New Mexico. Sắp tới, họ sẽ cùng Tập đoàn Nông nghiệp Monsanto và nhà sản xuất CO2 Linde thử nghiệm khả năng thương mại hóa của tảo năng lượng trên một diện tích rộng 120 ha. Tuy vậy, tảo của Sapphire Energy chỉ là một sự khởi đầu, vì chúng mới chỉ tích tụ dầu trong cơ thể, muốn thu được thứ dầu đó phải thu hoạch tảo và ép lấy dầu theo một quy trình tốn tiền của và công sức.


Quy trình biến tảo xanh thành nhiên liệu.

Vì thế, có những nhà khoa học khác nuôi trồng loại tảo không cần phải thu hoạch, vì chúng có thể tự “vã mồ hôi” ra nhiên liệu. Trong phòng thí nghiệm của Công ty Joule, người ta đã có thể chiêm ngưỡng những đại diện đầu tiên của những sinh vật kỳ diệu đó. Các nhà công nghệ sinh học sử dụng các môi trường khác nhau, tủ ấp và ngân hàng dữ liệu chứa các đoạn ADN của hàng nghìn vi sinh vật. Trong ngân hàng dữ liệu đó, Dan Robertson và nhóm của ông tìm kiếm những đoạn gene đầy hứa hẹn, phân lập chúng và cấy vào gene di truyền của tảo lam.

Công ty Joule hiện đang thử nghiệm hàng chục loài tảo lam trong các lò phản ứng quang sinh tí hon trong những điều kiện môi trường khác nhau. Công ty có một cơ sở thử nghiệm đặt tại Texas. Chi phí cho những thử nghiệm rất lớn, tuy nhiên cũng hứa hẹn đem lại thành công to lớn cho các nhà “lắp ráp gene”. Các nhà vi sinh vật học của Công ty Joule đã tạo ra những chủng tảo lam tự bơm ra ngoài qua màng mỏng của chúng các hợp chất ankan. Đó là các hydrocarbon no chứa đầy năng lượng có trong nhiên liệu diesel. Khác với ngũ cốc chỉ cho ra loại nhiên liệu chất lượng kém, tảo lam của họ cung cấp nhiên liệu có độ tinh khiết cao và không chứa lưu huỳnh và benzen.

Mỗi năm nhóm của Dan Robertson dự kiến sẽ thu được 140.000 lít nhiên liệu sinh học trên 1 ha tảo lam, nhiều gấp 40 lần so với thu hoạch nhiên liệu từ 1 ha ngô. Công ty Joule đã quy hoạch khoảng 500 ha đất sa mạc tại bang New Mexico để xây dựng cơ sở sản xuất thương mại đầu tiên.

Ai là người đầu tiên tung ra thị trường nhiên liệu sinh học không tác động lên khí hậu và có giá cả cạnh tranh, người đó không chỉ kiếm bạc tỉ mà còn ghi tên mình vào lịch sử năng lượng thế giới.

S.Phương
https://petrotimes.vn/dieu-ky-dieu-tu-tao-nhien-lieu-574122.html