Dự án điện mặt trời lớn nhất thế giới qua tuyến cáp ngầm dưới biển

Chính phủ Úc mới đây phê duyệt dự án điện Sun Cable trở thành dự án ưu tiên quốc gia, có vốn đầu tư ước tính 26 tỷ USD. Sun Cable là dự án sản xuất điện tái tạo và xây dựng tuyến cáp ngầm dưới biển, vận chuyển điện năng từ phía Bắc Úc (Darwin) đến Singapore với chiều dài 3.700 km.

Ngoài tuyến cáp ngầm, trong khuôn khổ dự án sẽ bao gồm việc xây dựng nhà máy điện mặt trời quy mô lớn với tổng công suất thiết kế lên tới 10 GW và hệ thống lưu trữ điện năng với tổng công suất thiết kế 30 GWh nhằm đảm bảo cung cấp lượng điện năng ổn định cho thị trường Singapore.

Sun Cable dự kiến được đưa vào vận hành từ năm 2027, sẽ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu tiêu thụ điện của Singapore và mang lại doanh thu cho Úc từ 1,4 – 1,5 tỷ USD mỗi năm. Dự án cũng sẽ góp phần giúp Singapore giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu LNG.

Viễn Đông
https://petrotimes.vn/du-an-dien-mat-troi-lon-nhat-the-gioi-qua-tuyen-cap-ngam-duoi-bien-575446.html

Điện gió sẽ dẫn đầu ngành năng lượng toàn cầu

Dự kiến năm 2020 công nghiệp điện gió ngoài khơi thế giới sẽ đạt mức tăng công suất hơn 6 GW, bất chấp tác động của cuộc khủng hoảng Covid-19. Công suất điện gió ngoài khơi đến năm 2030 sẽ vượt 234 GW, dẫn đầu là các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Ngày 5/8, Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) công bố báo cáo về điện gió ngoài khơi toàn cầu cho thấy công suất điện gió ngoài khơi toàn cầu sẽ tăng vọt từ 29.1 GW vào cuối năm 2019 lên đến mức hơn 234 GW vào năm 2030, nhờ sức tăng trưởng theo cấp số nhân ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và đà phát triển mạnh vẫn được duy trì ở châu Âu.

Hôm nay GWEC phát hành số thứ hai bản Báo cáo Điện gió ngoài khơi toàn cầu. Tài liệu cung cấp bức tranh toàn diện về ngành điện gió ngoài khơi trên toàn thế giới, với dữ liệu và phân tích mới nhất về tăng trưởng thị trường, cùng dự báo ngành đến năm 2030 và những đánh giá dựa trên dữ liệu về các thị trường mới nổi. Báo cáo cũng bao gồm các bài học kinh nghiệm về các chương trình hỗ trợ, phát triển ngành và tạo việc làm, kết nối lưới điện, giảm chi phí và chuỗi cung ứng, cũng như đảm bảo sức khỏe và an toàn để thúc đẩy tăng trưởng thị trường điện gió ngoài khơi toàn cầu.

Báo cáo chỉ ra năm 2019 là năm phát triển mạnh mẽ nhất ngành điện gió ngoài khơi từng ghi nhận, với mức tăng 6,1 GW công suất mới trên toàn thế giới, nâng tổng lắp đặt tích lũy toàn cầu lên 29,1 GW. Trung Quốc hai năm liên tiếp đứng ở vị trí số một về công suất lắp đặt mới, đạt công suất lắp đặt kỷ lục 2,4 GW, theo sau là Vương quốc Anh ở mức 1,8 GW và Đức ở mức 1,1 GW. Trong khi châu Âu tiếp tục là khu vực đi đầu về điện gió ngoài khơi, các quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, như Đài Loan, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc, cùng với thị trường Mỹ cũng đang nhanh chóng tăng tốc và sẽ là khu vực tăng trưởng mạnh mẽ trong thập kỷ tới.

Việt Nam là một trong những thị trường tiềm năng mới của công nghiệp điện gió ngoài khơi.

GWEC Market Intelligence dự báo đến năm 2030, hơn 205 GW công suất điện gió ngoài khơi mới sẽ được bổ sung trên toàn cầu, trong đó sẽ có ít nhất 6,2 GW điện gió nổi ngoài khơi. Con số này cao hơn 15 GW so với mức triển vọng mà GWEC Market Intelligence dự báo thời kỳ tiền Covid, chứng minh khả năng phục hồi có thể giúp ngành này đóng vai trò làm động lực chính cho cả công cuộc phục hồi xanh và quá trình chuyển đổi năng lượng.

Ben Backwell, Giám đốc điều hành của GWEC đánh giá: “Điện gió ngoài khơi đang thực sự mở rộng trên toàn cầu, đó là nhờ chính phủ các nước trên thế giới nhận ra vai trò của công nghệ trong việc khởi động phục hồi kinh tế hậu Covid thông qua đầu tư quy mô lớn, tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế cho các cộng đồng ven biển. Trong thập kỷ tới, chúng ta sẽ thấy các thị trường điện gió ngoài khơi mới nổi như Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam được triển khai một cách toàn diện, đồng thời sẽ chứng kiến các turbine ngoài khơi đầu tiên được lắp đặt tại một số quốc gia khác ở châu Á, châu Mỹ Latinh và châu Phi.

Báo cáo cho thấy khu vực điện gió ngoài khơi sẽ tạo ra 900.000 việc làm trong thập kỷ tới – và con số này chắc chắn sẽ còn tăng lên nếu các nhà hoạch định chính sách đưa ra các chiến lược phục hồi giúp đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng của ngành. Hơn nữa, 1 GW năng lượng gió ngoài khơi đồng nghĩa chúng ta tránh được 3,5 triệu tấn CO2 – cho thấy đây là công nghệ quy mô lớn có hiệu quả nhất hiện có giúp tránh phát thải khí carbon và thay thế nhiên liệu hóa thạch tại nhiều nơi trên thế giới”.

Thị trường điện gió ngoài khơi toàn cầu mỗi năm tăng trưởng trung bình 24% kể từ năm 2013. Châu Âu vẫn là thị trường lớn nhất cho điện gió ngoài khơi tính đến cuối năm 2019, chiếm 75% tổng công suất lắp đặt toàn cầu. Châu lục này sẽ tiếp tục dẫn đầu về điện gió ngoài khơi, với mục tiêu đầy tham vọng 450 GW vào năm 2050, đến từ các dự án lắp đặt mới tại Anh, Hà Lan, Pháp, Đức, Đan Mạch và Ba Lan, với một số thị trường EU khác cũng đạt sản lượng hai chữ số.

Bắc Mỹ hiện chỉ có 30 MW công suất điện gió ngoài khơi đang hoạt động vào cuối năm 2019, nhưng khu vực này sẽ tăng tốc triển khai trong những năm tới, với 23 GW dự báo sẽ được lắp đặt vào năm 2030. Phần lớn của mức tăng trưởng này sẽ đến từ Hoa Kỳ nơi ngành công nghiệp này vừa chớm nở, và chúng ta có thể hy vọng được chứng kiến các dự án quy mô lớn sẽ hoà lưới vào năm 2024 tại quốc gia này.

Báo cáo nhấn mạnh ngành công nghiệp này phát triển sôi động ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhờ các quốc gia nâng tham vọng, dẫn đầu là Trung Quốc, với 52 GW công suất điện gió ngoài khơi mới dự kiến ​​sẽ được lắp đặt vào năm 2030. Đài Loan sẽ trở thành thị trường điện gió ngoài khơi lớn thứ hai tại châu Á sau Trung Quốc đại lục, với mục tiêu 5,5 GW vào năm 2025 và thêm 10 GW vào năm 2035. Các thị trường khác trong khu vực cũng bắt đầu mở rộng quy mô, với Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc dự kiến ​​sẽ lắp đặt lần lượt là 5,2 GW, 7,2 GW và 12 GW công suất điện gió ngoài khơi.

Thành Công
https://petrotimes.vn/dien-gio-se-dan-dau-nganh-nang-luong-toan-cau-575523.html

Rào cản nào trên con đường chuyển đổi theo cơ chế thị trường của ngành năng lượng?

Chỉ khi tư nhân tham gia thì mới tạo ra thị trường, phát triển theo tư duy thị trường và tính cạnh tranh trong ngành năng lượng sẽ cao hơn nhiều. Khi các “nút thắt” dần được tháo gỡ bằng những giải pháp đồng bộ, ngành năng lượng hứa hẹn sẽ có những bước đột phá.

Những chuyển biến tích cực

Theo đánh giá chung, đến nay thị trường điện của Việt Nam phát triển qua ba cấp độ: thị trường phát điện cạnh tranh, thị trường bán buôn điện cạnh tranh và thị trường bán điện lẻ cạnh tranh. Từ năm 2012 đến nay, việc phát triển thị trường phát điện cạnh tranh và thị trường bán buôn điện cạnh tranh đã đạt được những kết quả khả quan. Thị trường phát điện cạnh tranh đã được hoàn thành về cơ bản và đến nay EVN không còn giữ vai trò độc quyền trong khâu mua buôn điện mà đã có thêm 5 tổng công ty điện lực.

Ngành Điện Việt Nam đã hoạt động theo mô hình thị trường bán buôn điện cạnh tranh từ năm 2019. Việc điều chỉnh giá bán lẻ điện đã thực thiện theo cơ chế thị trường, có sự kiểm soát của Nhà nước. Thủ tướng Chính Phủ cũng đã chỉ đạo xây dựng và sớm hoàn thiện Đề án phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh vào năm 2030, tầm nhìn 2035; đảm bảo bám sát chủ trương, định hướng, giải pháp của Nghị quyết 55, trong đó sớm hoàn thành thị trường bán lẻ điện cạnh tranh vào thí điểm năm 2022, vận hành hoàn chỉnh vào năm 2023…

Những chuyển biến trên cho thấy thị trường ngành năng lượng trong những năm gần đây đã có hướng phát triển tích cực hơn. Tại Diễn đàn cấp cao Năng lượng Việt Nam 2020 vừa được tổ chức mới đây, ông Nguyễn Văn Bình – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh đến hai quan điểm có ý nghĩa then chốt của Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Trước hết, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia vừa là tiền đề, vừa là động lực phát triển KT-XH. Ưu tiên phát triển ngành năng lượng nhanh, bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo đảm môi trường sinh thái, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bên cạnh đó, phát triển năng lượng quốc gia phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế hội nhập quốc tế. Nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch với nhiều hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh. Áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng. Khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng. Kiên quyết loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh thiếu bình đẳng, minh bạch trong ngành năng lượng…

Như vậy có thể thấy, quyết tâm xóa bỏ mọi rào cản để thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, phát triển các dự án năng lượng trong và ngoài nước, chú trọng những dự án phát điện và các hoạt động bán buôn, bán lẻ điện theo cơ chế thị trường đã được Chính phủ thể hiện rất rõ.

Làm sao để “gỡ” các rào cản?

Được biết, hiện Bộ Công Thương đang nghiên cứu để triển khai thị trường bán lẻ điện cạnh tranh, sẽ thực hiện thí điểm và từ sau năm 2023, chuyển dần việc Nhà nước điều tiết giá điện sang cơ chế giá thị trường. Như vậy, việc phát triển thị trường điện tại Việt Nam phù hợp tinh thần với Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị trong việc từng bước áp dụng giá thị trường, tạo môi trường cạnh tranh thuận lợi để các thành phần kinh tế tham gia phát triển ngành điện, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng, xóa bỏ độc quyền trong các khâu sản xuất kinh doanh điện.

Bộ Công Thương cũng đang nghiên cứu cơ chế bán điện trực tiếp từ các nhà sản xuất điện cho các đơn vị tiêu thụ điện. Cơ chế này sẽ tạo động lực để khuyến khích thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế vào phát triển các nguồn điện, nhất là năng lượng tái tạo; tiến tới nhân rộng cơ chế trong thị trường bán lẻ điện cạnh tranh, tạo lập môi trường bảo đảm theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 55.

Tuy nhiên, bên cạnh quyết tâm của Chính phủ cũng như nỗ lực của bộ ngành, phát triển ngành năng lượng vẫn đối mặt với vô vàn trở ngại khiến dù được đánh giá tiềm năng nhưng các nhà đầu tư tư nhân vẫn rụt rè “rót” vốn.

Một trong những khó khăncủa ngành năng lượng chính cơ chế thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân ngành năng lượng. Công tác tái cơ cấu ngành năng lượng để từng bước hình thành thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh thực hiện còn chậm, còn tình trạng độc quyền nhà nước trong một số lĩnh vực.

Bên cạnh đó, việc hình thành thị trường điện triển khai còn chậm và nhiều vướng mắc, chưa thực sự cung cấp tín hiệu khách quan cho các nhà đầu tư cũng như người sử dụng. Do vậy, yêu cầu xây dựng cơ chế chính sách thông thoáng, phù hợp với thực tiễn để phát triển mạnh mẽ hơn nữa thị trường năng lượng cạnh tranh đang là đòi hỏi cấp thiết hiện nay.

Ông Nguyễn Tâm Tiến – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Trung Nam tại Diễn đàn Năng lượng mới đây đã chia sẻ rằng, Nghị quyết 55 đã tạo đòn bẩy cho tư nhân tham gia ngành năng lượng, đặc biệt là xóa bỏ độc quyền để tư nhân tham gia xây dựng truyền tải. Tuy nhiên, việc phát triển các dự án năng lượng vẫn vướng nhiều khó khăn, chẳng hạn như điện gió đang gặp trở ngại về chính sách.

Cụ thể như, giá ưu đãi mua điện ưu đãi (8,5-9,8 cent/kWh tùy dự án) chỉ kéo dài đến năm 2021, trong khi 100% thiết bị điện gió phải nhập khẩu nên các nhà cung cấp thiết bị tìm cách ép giá nhà đầu tư. Do đó, theo ông Tiến, cần sớm ban hành khung giá mua bán điện cố định (giá FIT) sau 2021, đồng thời kéo dài giá mua điện ở mức 9,8 cent/kWh đối với các dự án điện gió gần bờ để thu hút các nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, cơ chế vay vốn đối với các dự án năng lượng cũng đang gặp phải không ít rào cản đặc biệt là các dự án năng lượng tái tạo. Do vốn đầu tư lớn, thời gian thực hiện lâu, độ rủi ro cao… nên rất nhiều dự án khó khăn trong việc thuyết phục các tổ chức tín dụng duyệt hồ sơ vay vốn.

Bộ Công thương cho biết, từ nay đến năm 2030, ngành điện cần 148 tỷ USD. Ông Ousmane Dione, nguyên Giám đốc Quốc gia World Bank tại Việt Nam cho rằng, tài chính từ khu vực công và nguồn vốn ODA sẽ không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư rất lớn của ngành điện. Bởi vậy, Việt Nam phải tăng cường huy động các nguồn vốn thay thế.

Có thể thấy, cải cách thị trường năng lượng là yêu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo tính linh hoạt và khả năng dự báo, vai trò trung tâm của người tiêu dùng và tối ưu hóa các chi phí. Thị trường năng lượng vận hành hiệu quả hơn sẽ giúp các doanh nghiệp tư nhân hoạt động ổn định.

Chỉ khi tư nhân tham gia thì mới tạo ra thị trường, phát triển theo tư duy thị trường và tính cạnh tranh sẽ cao hơn nhiều. Để thu hút được khối tư nhân, cần phải bình đẳng trong đối xử và để bình đẳng, cạnh tranh rõ ràng thì phải công khai, minh bạch. Tư nhân tham gia sâu hơn vào ngành năng lượng không chỉ bảo đảm vững chắc hơn cho an ninh năng lượng đất nước, mà còn tạo môi trường minh bạch để nền kinh tế thực sự phát triển bền vững.

Khi các “nút thắt” dần được tháo gỡ bằng những giải pháp đồng bộ, ngành năng lượng hứa hẹn sẽ có những bước đột phá, tạo đà để KT-XH đất nước tiếp tục phát triển, đi lên.

Đức Minh
https://petrotimes.vn/rao-can-nao-tren-con-duong-chuyen-doi-theo-co-che-thi-truong-cua-nganh-nang-luong-575343.html

Abu Dhabi sẽ xây dựng nhà máy điện mặt trời mạnh nhất thế giới

Một liên danh các nhà thầu gồm tập đoàn EDF của Pháp và Jinko Power Technology của Trung Quốc đã thắng thầu xây dựng nhà máy điện mặt trời “mạnh nhất thế giới” tại Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Nhà máy trong tương lai với công suất lắp đặt 2 gigawatt (GW), “sẽ mạnh nhất thế giới và sẽ cung cấp điện cho tương đương 160.000 hộ gia đình mỗi năm”, hai tập đoàn nhấn mạnh trong một tuyên bố chung.

Hợp đồng được trao bởi Công ty Emirates Water and Electricity Company (EWEC), và nhà máy này dự kiến sẽ được vận hành ​​vào năm 2022 tại khu vực Al Dhafra, cách thành phố Abu Dhabi 35 km về phía nam.

EDF và Jinko Power mỗi bên sẽ nắm giữ 20% cổ phần của dự án. 60% còn lại sẽ được các công ty nhà nước của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, TAQA và Masdar, chia nhau nắm giữ.

“Đây cũng là nhà máy điện đầu tiên có quy mô như vậy sử dụng các mô-đun hai mặt, thu bức xạ mặt trời từ cả hai phía của các mô-đun quang điện”, hai tập đoàn thắng thầu nhấn mạnh.

Liên danh các nhà thầu này giải thích rằng họ đưa ra gói đấu thầu cạnh tranh nhất, với chi phí sản xuất điện trung bình là 1,35 cent mỗi kWh.

Trong những năm gần đây, năng lượng mặt trời đã phát triển mạnh nhờ chi phí đầu tư giảm. Nhiều dự án ngày càng khổng lồ đã được phát triển.

Công viên điện mặt trời Bhadla ở Ấn Độ có tổng công suất lắp đặt hơn 2,2 GW, nếu được xây dựng sẽ là nhà máy điện mặt trời lớn nhất thế giới. Nhưng dự án này hiện vẫn còn nằm trên giấy.

“Al Dhafra là dự án năng lượng mặt trời mạnh nhất tính đến thời điểm được vận hành”, một đại diện của EDF nói.

Giàu dầu khí, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất muốn đa dạng hóa hỗn hợp năng lượng của mình bằng cách phát triển các loại năng lượng tái tạo và điện hạt nhân. Nước này muốn sản xuất 50% năng lượng từ các nguồn “sạch” vào năm 2050.

Theo Nh.Thạch/AFP
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/abu-dhabi-se-xay-dung-nha-may-dien-mat-troi-manh-nhat-the-gioi-574957.html

Trung Quốc: Phát minh mới giúp xác định nguồn gây ô nhiễm không khí

Nhóm nghiên cứu tại Trung Quốc đã phát triển một thiết bị theo dõi có thể gắn lên các phương tiện giao thông nhằm truy tìm các nguồn phát thải nhóm chất gây ô nhiễm không khí theo thời gian thực.

Các nhà nghiên cứu tại Học viện Khoa học Trung Quốc (CAS) vừa phát triển một thiết bị khối phổ kế di động nhằm theo dõi các nguồn gây ô nhiễm.

Theo nghiên cứu được đăng trên tạp chí Environmetal Pollution, nhóm các chất gây ô nhiễm không khí (VOC) là một thành phần cơ bản trong tầng ozone cũng như bụi mịn PM2.5.

Do đó, việc tìm ra những nguồn phát thải nhóm chất này đóng vai trò quan trọng đối với các biện pháp kiểm soát ô nhiễm.

Ảnh minh họa. (Nguồn: Getty Images)

Tại các thành phố, sự phân bố và thời gian phát thải VOC là tương đối phức tạp, nên việc truy tìm những nguồn gây ô nhiễm bằng các công cụ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm truyền thống hoặc các cảm biến di động thường gặp nhiều khó khăn.

Nhóm nghiên cứu tại Viện Khoa học vật lý Hợp Phì trực thuộc CAS đã phát triển một thiết bị theo dõi kết hợp giữa công nghệ khối phổ phản ứng dịch chuyển proton và hệ thống thông tin địa lý (GIS).

Thiết bị này có thể gắn lên các phương tiện giao thông nhằm truy tìm các nguồn phát thải VOC theo thời gian thực.

Thiết bị sẽ gửi dữ liệu liên quan đến nhóm chất VOC và thông tin vị trí của phương tiện về phần mềm GIS.

Khi phương tiện di chuyển, dữ liệu này sẽ phản ánh sự phân bố của VOC trong không khí theo thời gian thực và giúp tìm ra các nguồn phát thải nhóm chất này một cách chính xác.

Cho đến nay, nhiều địa phương như thành phố Thượng Hải, tỉnh Tứ Xuyên và tỉnh Phúc Kiến đã đưa vào sử dụng thiết bị này nhằm ngăn chặn và kiểm soát các chất gây ô nhiễm không khí./.

Minh Tuấn (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/trung-quoc-phat-minh-moi-giup-xac-dinh-nguon-gay-o-nhiem-khong-khi/654043.vnp

Điện rác – bài toán kinh tế hay môi trường đối với Việt Nam?

Hiện nay, trên 70% lượng rác thải tại Việt Nam đang được xử lý chủ yếu bằng công nghệ chôn lấp, chỉ có 13% rác được đốt cháy để thu hồi năng lượng.

Xử lý rác sinh hoạt ở đô thị là vấn đề nóng không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn cầu.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), tại nhiều nước đang phát triển việc quản lý chất thải rắn có thể tiêu tốn 20-50% ngân sách, một con số gây sốc.

Lượng chất thải rắn toàn cầu đang tăng lên nhanh chóng, từ hơn 3,5 triệu tấn mỗi ngày trong năm 2010, lên hơn 6 triệu tấn mỗi ngày vào năm 2025.

Một phần khu vực lò đốt rác của Nhà máy đốt rác phát điện Cần Thơ. (Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)

Chất thải độc hại từ các thành phố đã đủ để lấp đầy một dòng xe chở hàng dài 5.000 cây số mỗi ngày.

Chi phí toàn cầu cho việc đối phó với tất cả những thùng rác đó cũng tăng lên, từ 205 tỷ USD trong năm 2010 lên 375 tỷ USD vào năm 2025.

Từ chôn lấp đến điện rác

Theo Bộ Công Thương, tại Việt Nam bình quân mỗi ngày khoảng 35.000 tấn rác thải sinh hoạt đô thị và 34.000 tấn rác thải sinh hoạt nông thôn được thải ra. Khối lượng rác tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 7.000-8.000 tấn rác mỗi ngày.

Hiện nay, trên 70% lượng rác thải tại Việt Nam đang được xử lý chủ yếu bằng công nghệ chôn lấp, trong đó 80% là bãi chôn lấp không hợp vệ sinh, gây hại cho môi trường. Chỉ có 13% rác được đốt cháy để thu hồi năng lượng.

Chôn lấp rác là công nghệ lạc hậu, tốn đất và gây ra nhiều tác hại, tạo ra nguy cơ cháy; ô nhiễm nước ngầm; phát tán khí metal; gây bệnh cho người lao động và người sống xung quanh; thu hút các loài động vật (chó, chim, động vật gặm nhấm, côn trùng)…

Việc chôn lấp rác ngoài tác động xấu đến môi trường thì còn phải đối mặt với sự phản đối của người dân ở gần khu xử lý rác, chi phí cho việc thu gom, vận chuyển ngày một tăng trong khi tài nguyên rác bị lãng phí.

Theo các chuyên gia về môi trường và điện năng, công nghệ đốt chất thải để tạo ra điện ngày càng được áp dụng rộng rãi do có một số ưu điểm nổi bật so với các công nghệ khác, như giảm được 90-95% thể tích và khối lượng chất thải; có thể tận dụng nhiệt; giảm phát thải khí nhà kính so với biện pháp chôn lấp; giảm thiểu ô nhiễm nước, mùi hôi…

Công nghệ điện rác có hai phương án chính.

Phương án 1, sản xuất khí nhiên liệu để đốt trong các động cơ đốt trong và chạy máy phát điện. Chất thải khó phân hủy được tạo thành viên nhiên liệu và đốt trong các lò khí hóa để sinh ra nhiên liệu khí dưới dạng khí đốt tổng hợp (syngas).

Chất thải dễ phân hủy được đưa vào hầm ủ sinh khối để sản xuất ra khí đốt dưới dạng khí sinh học (biogas).


Bãi rác Tân Tạo, Bạc Liêu, đang trong tình trạng quá tải, ô nhiễm môi trường trầm trọng. (Ảnh: Huỳnh Sử/TTXVN)

Trước tiên, rác được phân loại trên dây chuyền, tách chất thải chung thành chất thải phi nhiên liệu (đất đá, chai lọ, sắt thép) và chất thải nhiên liệu (chất thải cháy được).

Sau đó, chất thải nhiên liệu được phân loại thành chất thải khó phân hủy (nilon, cành cây, gỗ, giấy…) và chất thải dễ phân hủy (thực phẩm, rau…).

Hiệu suất chuyển đổi năng lượng của các công nghệ dạng này thường chỉ đạt được dưới 20%, vẫn mang tính thử nghiệm và chưa được thương mại hóa ổn định với công suất lớn.

Còn ở phương án 2, rác thải khi đưa về nhà máy chỉ cần được loại bỏ các chất thải phi nhiên liệu cỡ lớn dễ tách biệt, sau đó tập trung trong bể chứa rác kín.

Trong quá trình ủ từ 12-15 ngày, các chất hữu cơ trong rác tiếp tục bị phân hủy, hình thành nước rỉ rác, sau đó nước được tách ra tại đáy bể theo một quy trình riêng biệt bao gồm các quá trình xử lý yếm khí, hiếu khí, lắng, lọc.

Nhiệt thừa trong quá trình đốt tiêu hủy rác sẽ được tận dụng để đun nóng nước, qua đó sinh hơi và chuyển sang tua bin để sản xuất ra điện năng như các nhà máy nhiệt điện khác.

Công nghệ này không cần phân loại rác thải, diện tích nhà máy xử lý không quá lớn, hiệu suất chuyển đổi năng lượng cao hơn so với công nghệ theo phương án 1, tuy nhiên cũng chỉ dao động ở mức từ 25-30%.

Điểm hạn chế của công nghệ này là chi phí đầu tư lớn, hệ thống xử lý môi trường cũng tốn kém, tính khả thi cao hay thấp tùy thuộc vào thành phần rác thải.

Kinh tế và môi trường – nghiêng sang đâu?

Trong cuộc họp báo tháng 7/2020 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ông Hoàng Văn Thức, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, thừa nhận rằng việc xử lý rác thải sinh hoạt, nhất là tại các đô thị lớn như Hà Nội, là vấn đề rất nóng.

Định hướng của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc xử lý chất thải rắn là khuyến khích áp dụng các công nghệ hiện đại, trong đó có điện rác.

Theo ông Hoàng Văn Thức, để “dòng chảy” rác đô thị không bị nghẽn thì phải thông suốt ở tất cả các khâu: quy hoạch-công nghệ-nhân lực. Chỉ cần tắc một khâu là nghẽn toàn bộ dây chuyền.

Tại khâu quy hoạch, điểm nghẽn là khó tìm được địa điểm thích hợp cho các bãi tập kết rác, địa điểm xây dựng nhà máy điện rác. Nhà quy hoạch, chủ đầu tư thường không tìm được tiếng nói chung với người dân địa phương.

Người dân vốn có ấn tượng tiêu cực với các bãi rác nên họ không muốn ở gần bất kỳ dự án xử lý rác nào, dù là theo công nghệ chôn lấp hay đốt cháy thu năng lượng.

Một số doanh nghiệp có ý định đầu tư vào các dự án điện rác nhưng sau khi vấp phải sự “lạnh nhạt” của các địa phương thì đã rút lui.

Về mặt chính sách, cơ chế cũng có một số vướng mắc. Các doanh nghiệp đánh giá thủ tục đầu tư xử lý chất thải rắn sinh hoạt rất phức tạp, có khi kéo dài hàng năm, cần sự chấp thuận của nhiều bộ, ngành, trong đó có đánh giá tác động môi trường, quy hoạch phát triển nguồn điện…

Ngoài ra, do chưa có các hướng dẫn cụ thể thực hiện Luật Quy hoạch nên việc bổ sung các dự án vào Quy hoạch phát triển điện lực bị kéo dài, đình trệ.

Tại Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg ngày 5/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn tại Việt Nam, có các quy định hỗ trợ về giá mua điện. Tuy nhiên, các dự án xử lý chất thải phải theo quy hoạch điện lực nên nhiều dự án gặp khó khăn do phải chờ quy hoạch của ngành điện.

Các chuyên gia kiến nghị để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, Chính phủ cần chỉ đạo rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật, các quy trình, thủ tục còn vướng mắc giữa các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng trong lĩnh vực quản lý chất thải sinh hoạt đô thị (Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư – PPP, các quy định phát triển dự án điện rác, công tác quy hoạch…), đồng thời cụ thể hóa chính sách ưu đãi đầu tư.

Chỉ khi cơ chế rộng mở, thủ tục hành chính đơn giản thì mới thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải rắn.

Tại Hà Nam, Cần Thơ, Quảng Bình, một số nhà máy điện rác đã đi vào hoạt động. Một số dự án đang được triển khai gồm cơ sở ở Vĩnh Tân (Đồng Nai) với công suất 600 tấn/ngày, công suất phát điện 30MW; cơ sở ở Sóc Sơn (Hà Nội) với công suất 4.000 tấn/ngày, công suất phát điện 75MW; cơ sở ở Phù Ninh (Phú Thọ) với công suất 500 tấn/ngày; hai cơ sở tại Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh với công suất mỗi nhà máy là 1.000 tấn/ngày…

Tuy vậy, việc thu hút nhà đầu tư vào các dự án điện rác không đơn giản. Nhiều dự án điện rác ở Việt Nam “đứt gánh giữa đường” do công nghệ đòi hỏi khoản kinh phí quá lớn (thiết bị chiếm 70-80% tổng vốn đầu tư) và khó thích ứng với thực tế ở nước ta là rác không được phân loại ngay từ đầu nguồn. Các dự án đã được hoàn thành thì hiệu quả kinh tế đều không cao.

Theo dữ liệu ban đầu của một số dự án tại Việt Nam đã được phê duyệt và chờ phê duyệt, suất đầu tư cho các nhà máy điện rác nằm trong khoảng 3,5-4 triệu USD/1MW điện.

Điểm chung của các dự án này là chi phí vận hành lớn, cần bảo trì thường xuyên và tuổi thọ thiết bị ngắn hơn so với các dự án nhiệt điện đốt than.

Trong khi đó, dù sử dụng loại công nghệ theo phương án nào thì hiệu suất điện năng của các nhà máy điện rác đều ở mức nhỏ (cao nhất cũng chỉ là 30%). Do công suất điện phát lên lưới quốc gia cũng sẽ nhỏ nên thời gian thu hồi vốn của các dự án này thường chậm, từ 10-20 năm.

Các nhà đầu tư điện rác cũng từng đề xuất về việc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu tiên, hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp 5% trong 9 năm tiếp theo và từ năm thứ 15 trở đi thì được hưởng thuế suất 10%.

Trong Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg ngày 5/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ “Về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn tại Việt Nam” ngoài quy định về trách nhiệm mua điện từ các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn còn có quy định về ưu đãi về vốn đầu tư, thuế; ưu đãi về đất đai; hỗ trợ giá điện.

Điều này cho thấy Chính phủ rất quan tâm đến việc bảo vệ môi trường và khuyến khích phát triển công nghệ xử lý rác hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh định hướng, chính sách vĩ mô thì còn cần sự vào cuộc quyết liệt trong từng dự án cụ thể từ phía các bộ, ngành có liên quan, các địa phương và cả người dân.

Chúng ta hiểu rằng so với các loại hình công nghệ sản xuất điện năng khác (thủy điện, nhiệt điện than…), đốt rác phát điện không thể chiếm ưu thế về hiệu quả năng lượng. Cần nhìn nhận sự việc theo góc độ sinh thái-đốt rác và tận dụng nhiệt thải để phát điện, trước hết là một giải pháp giúp cho quá trình xử lý rác thải được hiệu quả cao hơn, bền vững hơn.

Ngay trong việc thu phí rác thải ở nước ta hiện nay vấn đề “hoạch toán” cũng không là yếu tố chính bởi thu không đủ chi.

Theo WB, mức thu phí rác thải tại Việt Nam mới chiếm khoảng 0,5% thu nhập trung bình của hộ gia đình, trong khi “nhẽ ra” mức phí phải chiếm từ 1-1,5% thu nhập trung bình của các hộ gia đình.

Đồng thời, tỷ lệ thu phí xử lý rác hằng năm tại các địa phương đạt thấp. Ví dụ, tại 4 quận nội thành Hà Nội (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa và Hai Bà Trưng) phí rác tối đa là hơn 103 tỷ đồng/năm nhưng số tiền thu được trên thực tế chỉ là 65,8 tỷ đồng/năm, bằng 64%.

Trong việc đánh giá hiệu quả của công nghệ điện rác giá trị kinh tế nên được đặt sau giá trị bảo vệ môi trường. Nếu không đẩy nhanh tỷ trọng công nghệ đốt rác thu hồi năng lượng trong việc xử lý rác thải rắn sinh hoạt, mà chỉ trông chờ vào kiểu chôn lấp truyền thống thì tình trạng “ứ rác” như tại Hà Nội trong trung tuần tháng 7 vừa qua vẫn có nguy cơ “đến hẹn lại lên” dù không ai “ra ngó vào trông”./.

Trần Quang Vinh (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/dien-rac-bai-toan-kinh-te-hay-moi-truong-doi-voi-viet-nam/653159.vnp