Tín chỉ carbon và chứng chỉ I-REC: Những điểm khác biệt

Tín chỉ carbon và chứng chỉ Năng lượng tái tạo (I-REC: International Renewable Energy Certificate) là hai công cụ quan trọng trong quá trình chng biến đổi khí hậu. Cả hai đều được sử dụng để bù đắp cho lượng khí thải carbon, nhưng chúng hoạt động theo những cách khác nhau.

Tín chỉ carbon

Tín chỉ carbon là một đơn vị đo lường đại diện cho một tấn carbon dioxide đã được loại bỏ khỏi khí quyển hoặc không được phát thải. Chúng được sử dụng để bù đắp cho lượng khí thải carbon của các công ty, tổ chức và cá nhân.

Tín chỉ carbon được tạo ra bởi các dự án giảm phát thải khí nhà kính như: Trồng rừng, năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng, giảm thiểu phát thải trong các ngành công nghiệp.

Tín chỉ carbon là một đơn vị đo lường đại diện cho một tấn carbon dioxide đã được loại bỏ khỏi khí quyển hoặc không được phát thải.

Các dự án này được chứng nhận bởi các tổ chức uy tín, chẳng hạn như Tổ chức Bảo vệ Môi trường (EPA) của Hoa Kỳ hoặc Tổ chức Quốc tế về Chứng chỉ Carbon (ICCS). Các công ty, tổ chức và cá nhân có thể giao dịch tín chỉ carbon để bù đắp cho lượng khí thải carbon của họ.

Chứng chỉ I-REC

Chứng chỉ I-REC là một chứng chỉ xác nhận rằng một đơn vị năng lượng đã được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo, chẳng hạn như gió, mặt trời, thủy điện hoặc biomass. Chúng được sử dụng để chứng minh rằng một công ty hoặc tổ chức đang sử dụng năng lượng tái tạo.

Chứng chỉ I-REC được chứng nhận bởi Tổ chức Chứng nhận Năng lượng Tái tạo Quốc tế (I-REC Standard). I-REC Standard là một bộ tiêu chuẩn quốc tế quy định việc phát hành, giao dịch và sử dụng chứng chỉ I-REC.

Chứng chỉ I-REC được chứng nhận bởi Tổ chức Chứng nhận Năng lượng Tái tạo Quốc tế (I-REC Standard).

Chứng chỉ I-REC mang lại một số lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp, bao gồm: Chứng minh việc sử dụng năng lượng tái tạo; Thúc đẩy sự phát triển của năng lượng tái tạo; Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng năng lượng tái tạo.

Tín chỉ Carbon và Chứng chỉ I-REC giống và khác

Tín chỉ carbon đo lường lượng khí thải carbon đã được loại bỏ khỏi khí quyển hoặc không được phát thải. Chứng chỉ I-REC đo lường lượng năng lượng đã được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo.

Tín chỉ carbon thường được sử dụng để bù đắp cho lượng khí thải carbon của các công ty, tổ chức và cá nhân. Chứng chỉ I-REC thường được sử dụng để chứng minh rằng một công ty hoặc tổ chức đang sử dụng năng lượng tái tạo.

I-REC nhằm mục đích chứng minh rằng một công ty đang sử dụng năng lượng tái tạo, trong khi tín chỉ carbon nhằm mục đích khuyến khích các công ty giảm lượng khí thải của họ. I-REC được tạo ra và bán bởi các nhà máy điện tái tạo, trong khi tín chỉ carbon được tạo ra và bán bởi các dự án giảm phát thải khí nhà kính. I-REC có thể giúp các công ty đáp ứng các mục tiêu năng lượng tái tạo của họ, trong khi tín chỉ carbon có thể giúp các công ty giảm lượng khí thải của họ.

Dưới đây là bảng tóm tắt các điểm khác biệt và giống nhau giữa tín chỉ carbon và chứng chỉ I-REC:

Đặc điểm Tín chỉ Carbon Chứng chỉ I-REC
Đo lường Lượng khí thải CO2 Lượng năng lượng tái tạo
Mục đích Bù đắp cho lượng khí thải CO2 Chứng minh cho việc sử dụng năng lượng tái tạo
Đối tượng sử dụng Các công ty, tổ chức và cá nhân Các công ty, tổ chức và cá nhân

Theo đó, tín chỉ carbon giúp hạn chế lượng khí thải CO2 trong khi REC tạo ra năng lượng mới từ các nguồn tái tạo.

Hiện các công ty đang sử dụng cả I-REC và tín chỉ carbon trong kế toán và báo cáo lượng khí thải. Họ đang sử dụng I-REC để bù đắp mức tiêu thụ năng lượng và mua tín chỉ carbon để bù đắp cho các nguồn phát thải khác.

Như vậy, cả tín chỉ Carbon và chứng chỉ I-REC đều đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự bền vững và giảm lượng khí nhà kính, nhưng hai hệ thống này lại mang đến những ưu điểm và ứng dụng khác nhau.

VNCPC

Tìm hiểu về Chứng chỉ Năng lượng Tái tạo (P2)

Thị trường REC tại Việt Nam tuy còn tương đối non trẻ nhưng đang phát triển mạnh mẽ. Theo Bộ Công Thương, thị trường REC Việt Nam có thể đạt 1 tỷ USD vào năm 2030.

Thị trường REC toàn cầu sẽ đạt 300 tỷ USD

Trên thế giới hiện nhu cầu Chứng chỉ REC ngày càng tăng nhờ chính sách khuyến khích của các chính phủ. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ước tính thị trường REC dự kiến sẽ đạt 300 tỷ USD vào năm 2030.

Hiện thị trường REC được phân khúc theo khu vực, loại REC và ứng dụng. Bắc Mỹ và châu Âu là hai khu vực có thị trường REC lớn nhất. Chứng chỉ REC năng lượng mặt trời đang chiếm phần lớn thị phần, tiếp theo là REC năng lượng gió và REC thủy điện.

Tính đến tháng 8/2023, trên thế giới đã có hơn 512,33 triệu chứng chỉ I-REC đã được phát hành và đã có hơn 4.200 dự án tại 48 quốc gia được cấp chứng chỉ I-REC.

Hiện thị trường REC được phân khúc theo khu vực, loại REC và ứng dụng.

Thị trường REC tại Việt Nam

Thị trường REC tại Việt Nam còn tương đối non trẻ nhưng đang phát triển mạnh mẽ. Theo Bộ Công Thương, thị trường REC Việt Nam có thể đạt 1 tỷ USD vào năm 2030. Thị trường REC được phân khúc theo loại REC và ứng dụng. Chứng chỉ REC năng lượng mặt trời vẫn chiếm phần lớn thị trường, tiếp theo là REC năng lượng gió và REC thủy điện. Các ứng dụng chính của REC bao gồm đáp ứng các yêu cầu tuân thủ và giao dịch năng lượng.

Hiện nay, các xu hướng chính đang định hình thị trường REC Việt Nam bao gồm: Tăng cường phát triển năng lượng tái tạo; Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường REC; Nhu cầu ngày càng tăng về bù đắp phát thải carbon; Tham gia thị trường REC quốc tế.

Tại Việt Nam, chứng chỉ I-REC đã hoạt động từ năm 2014 và được điều hành bởi tổ chức phi lợi nhuận I-REC Standard Foundation. Việc cấp chứng chỉ I-REC tại địa phương do một thực thể độc lập quản lý.

Theo số liệu tính đến cuối 10/2023, đã có 492 dự án đang vận hành với tổng công suất hơn 8.000 MW được cấp chứng chỉ I-REC, bao gồm 353 dự án điện mặt trời, 124 dự án thủy điện và 15 dự án điện gió. Hiện có 196 dự án đang vận hành với tổng công suất 864,593 MW được cấp chứng chỉ TIGR, bao gồm 191 dự án điện mặt trời, 3 dự án thủy điện và 2 dự án điện gió.

Chứng chỉ I-REC đã hoạt động từ năm 2014 tại Việt Nam.

Quy trình đăng ký Chứng chỉ REC tại Việt Nam

Quy trình đăng ký Chứng chỉ REC tại Việt Nam bao gồm các bước sau:

Xác định nguồn năng lượng tái tạo: Đầu tiên, cần xác định nguồn năng lượng tái tạo cụ thể mà chứng chỉ REC sẽ được liên kết.

Xác minh và đánh giá: Bên thứ ba độc lập thực hiện xác minh và đánh giá quá trình sản xuất năng lượng tái tạo từ nguồn đã xác định. Quá trình này đảm bảo rằng năng lượng tái tạo được sản xuất và đáp ứng các tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể.

Cấp chứng chỉ REC: Sau khi quá trình xác minh và đánh giá hoàn tất, chứng chỉ REC được cấp phát cho đơn vị sản xuất năng lượng tái tạo. Mỗi chứng chỉ REC biểu thị một đơn vị của năng lượng tái tạo đã được sản xuất.

Giao dịch và sử dụng REC: Chứng chỉ REC có thể được mua bán trên thị trường năng lượng. Các bên mua chứng chỉ REC có thể sử dụng chúng để chứng minh và xác nhận việc sử dụng năng lượng tái tạo, mặc dù họ không mua trực tiếp năng lượng từ nguồn tái tạo. Điều này cho phép họ đạt được mục tiêu năng lượng tái tạo hoặc tuân thủ các yêu cầu quy định.

VNCPC

Tìm hiểu về Chứng chỉ Năng lượng Tái tạo (P1)

Chứng chỉ Năng lượng tái tạo (REC – Renewable Energy Certificate) là một loại chứng chỉ thuộc nhóm Chứng chỉ Năng lượng (Energy Attribute Certificate – EAC), có chức năng xác nhận lượng điện được tạo ra từ các nguồn năng lượng tái tạo.

REC đóng vai trò là công cụ theo dõi các đặc điểm tái tạo của điện năng, từ giai đoạn sản xuất đến tiêu thụ. Mỗi REC đại diện cho 1 MWh điện từ các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, thủy điện và điện sinh khối.

Các loại Chứng chỉ REC

Chứng chỉ I-REC (International Renewable Energy Certificate) là một chứng chỉ xác nhận rằng một đơn vị năng lượng đã được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo. Chúng được sử dụng để chứng minh rằng một công ty hoặc tổ chức đang sử dụng năng lượng tái tạo.

Chứng chỉ I-REC được chứng nhận bởi Tổ chức Chứng nhận Năng lượng Tái tạo Quốc tế (I-REC Standard). I-REC Standard là một bộ tiêu chuẩn quốc tế quy định việc phát hành, giao dịch và sử dụng chứng chỉ I-REC.

I-REC được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia và khu vực bao gồm Bắc Mỹ, châu Phi, châu Mỹ Latinh, châu Á – Thái Bình Dương. Hiện nay, hơn 95% REC giao dịch quốc tế là I-REC.

Chứng chỉ đảm bảo nguồn gốc năng lượng GO (Guarantee of Origin) được sử dụng tại thị trường năng lượng Liên minh châu Âu.

Chứng chỉ TIGR (Tradable Instrument for Global Renewables) cũng là một loại Chứng chỉ năng lượng tái tạo tương tự I-REC. TIGR chiếm khoảng 2% khối lượng REC quốc tế. Tính đến năm 2023, TIGR được sử dụng phổ biến ở 12 quốc gia gồm Bangladesh, Trung Quốc, Guatemala, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam.

Lợi ích khi sở hữu Chứng chỉ REC

Chứng minh việc sử dụng năng lượng tái tạo: Trên thực tế, các nguồn điện sau khi phát lên hệ thống điện và được truyền tải, phân phối đến các hộ tiêu thụ, hộ tiêu thụ không thể biết điện năng họ đang tiêu thụ đến từ nhà máy điện nào. Để áp dụng các cơ chế đặc biệt hỗ trợ các nguồn điện năng nhất định mà cụ thể là nguồn điện năng lượng tái tạo, cần phải giải quyết hai vấn đề: Nhận diện một cách chính xác sản lượng điện năng đó khi sản xuất và khi tiêu thụ. Vì lý do này, các nhà máy năng lượng tái tạo sẽ được cấp Chứng chỉ REC cho mỗi MWh điện tạo ra.

Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng năng lượng tái tạo: Chứng chỉ này có thể dùng cho mục đích tự nguyện hoặc tuân thủ quy định. Trong thị trường tự nguyện, các bên tự chọn tiêu thụ điện sạch thường tuân theo các hướng dẫn tốt nhất từ các khuôn khổ báo cáo bền vững. Còn trong thị trường tuân thủ, Chính phủ yêu cầu các thực thể sử dụng điện từ năng lượng tái tạo như Tiêu chuẩn tỷ lệ năng lượng tái tạo và các đơn vị/tổ chức sử dụng REC để đáp ứng yêu cầu này.

Lợi ích tài chính: Doanh nghiệp có thể nhận được các ưu đãi của chính phủ như ưu đãi thuế và tăng thêm doanh thu từ việc bán chứng chỉ.

Lợi thế thị trường: Sở hữu Chứng chỉ REC còn giúp doanh nghiệp cải thiện uy tín, thương hiệu và tăng khả năng cạnh tranh.

Như vậy, việc sở hữu Chứng chỉ REC sẽ giúp thúc đẩy sự phát triển của năng lượng tái tạo góp phần giảm khí thải nhà kính. Việc sở hữu REC và tham gia vào thị trường REC quốc tế cũng rất quan trọng với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty đa quốc gia và các công ty hướng tới mục tiêu ESG (Environment – môi trường, Social – xã hội và Governance – quản trị doanh nghiệp).

VNCPC

 

Thực hành ESG: Những thách thức đối với doanh nghiệp

Từ năm 2004, thuật ngữ ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) đã lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo của Liên Hợp Quốc, song phải đến những năm 2020, ESG mới trở thành xu hướng đối các doanh nghiệp. Mặc dù vậy, việc thực hiện ESG cũng khiến không ít tổ chức lúng túng.

Thực hành ESG thể hiện rằng các tổ chức hay nhà đầu tư đang có trách nhiệm hơn trong việc phát triển bền vững, thực hành đạo đức, quản lý để tạo ra giá trị dài hạn cũng như giảm thiểu rủi ro về môi trường và xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện báo cáo ESG dưới đây là những khó khăn doanh nghiệp đang gặp phải:

Dữ liệu

Một trong những thách thức lớn khi thực hiện báo cáo ESG chính là sự thiếu tiêu chuẩn hóa về dữ liệu. Trong báo cáo ESG rất đa dạng dữ liệu liên quan tới môi trường và xã hội, dẫn tới việc rất khó khăn cho các doanh nghiệp khi đem ra so sánh và đánh giá các nguồn dữ liệu khác nhau. Theo nghiên cứu của Diligent (tổ chức chuyên nghiên cứu về giải pháp ESG), có tới hơn 60% các doanh nghiệp đang bị hạn chế khả năng thu thập, phân tích và báo cáo các dữ liệu liên quan tới ESG. Hiện có rất nhiều các tiêu chuẩn khác nhau về phát triển bền vững, các tiêu chuẩn này thường không thống nhất về dữ liệu. Vì vậy, nếu kết hợp nhiều tiêu chuẩn lại sẽ dẫn tới tình trạng “loạn” thông tin đối với doanh nghiệp.

Nhân lực và tài chính

Báo cáo ESG là một quy trình yêu cầu sử dụng rất nhiều nguồn lực và năng lực tài chính, vì thế có thể nói đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp không chỉ là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thêm vào đó, báo cáo ESG không có liên kết rõ ràng với báo cáo tài chính của doanh nghiệp, vì vậy các tổ chức sẽ không có nhận thức rõ ràng trong việc tác động của báo cáo bền vững ảnh hưởng như thế nào tới lợi nhuận của họ. Ngoài ra, đầu tư vào báo cáo ESG là một khoản đầu tư dài hạn và yêu cầu sự cam kết liên tục. Cụ thể, để có thể theo dõi toàn diện và giám sát hiệu quả dữ liệu, các tổ chức phải đầu tư rất nhiều vào công nghệ, con người và hệ thống.

Trong khi đó, nhân lực có kiến thức chuyên môn cao về ESG phải được đào tạo hoặc thuê để duy trì mức độ hiệu quả của báo cáo ESG thường có chi phí rất cao.

ESG hiện đã phát triển thành một khuôn khổ toàn diện bao gồm các yếu tố chính xung quanh tác động môi trường và xã hội, cũng như cách sửa đổi cơ cấu quản trị doanh nghiệp để tối đa hóa phúc lợi của các bên liên quan.

Ngoài ra, khi đưa ESG vào chiến lược cốt lõi của doanh nghiệp có thể dẫn đến việc tổ chức phải tái thiết và phân bổ lại nguồn lực cho toàn bộ hệ thống của mình. Điều này có thể bao gồm việc thay đổi quản trị chuỗi cung ứng, phát triển sản phẩm hoặc các chức năng khác của doanh nghiệp.

Thực thi

Tuân thủ các quy định là một trong những khía cạnh quan trọng để thực hiện báo cáo ESG, bao gồm việc tuân thủ luật pháp, quy tắc và quy định do Chính phủ và cơ quan có liên quan. Những luật định này có thể thay đổi theo quốc gia, ngành, thậm chí kể cả quy mô của doanh nghiệp. Vì vậy, việc gặp những thách thức trong việc thực thi các luật định cũng là vấn đề nan giải mà các tổ chức và công ty cần phải giải quyết.

Có thể thấy rằng, việc thực hiện báo cáo ESG theo từng khu vực đang gây ra những thách thức cực lớn cho các tổ chức. Họ cần phải nắm bắt chặt chẽ các quy định và luật pháp cụ thể của từng khu vực để tránh dẫn tới tình trạng vi phạm và ảnh hưởng tới khả năng vận hành của doanh nghiệp.

Trước những thách thức trên, hiện phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn đứng ngoài các hoạt động tiến tới đạt tiêu chuẩn ESG. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do cả yếu tố khách quan và chủ quan.

VNCPC

ESG và các khung báo cáo phổ biến

Khung báo cáo ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) là một tập hợp các hướng dẫn và tiêu chuẩn được sử dụng để tạo ra các báo cáo phát triển bền vững một cách rõ ràng, có cấu trúc và có thể hành động.

Khung báo cáo ESG mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp?

Các khung báo cáo ESG hỗ trợ các tổ chức:

  • Minh bạch hơn với các bên liên quan;
  • Có được thông tin chuyên sâu về các cơ hội cải thiện; và
  • Luôn tuân thủ các yêu cầu báo cáo bắt buộc.

Khung báo cáo ESG cho phép các tổ chức có trình độ chuyên môn và xuất phát điểm khác nhau về tính bền vững biên soạn và công bố các sáng kiến của họ theo cách toàn diện và dễ tiếp cận nhất có thể, cả trong nội bộ và bởi các bên liên quan.

Khung báo cáo ESG là một tập hợp các hướng dẫn và tiêu chuẩn được sử dụng để tạo ra các báo cáo phát triển bền vững một cách rõ ràng, có cấu trúc và có thể hành động.

Các khung ESG phổ biến

Hiện có rất nhiều khung báo cáo ESG mà doanh nghiệp có thể lựa chọn sử dụng. Tuy nhiên, chỉ dựa vào một khung khổ duy nhất có thể không đủ để công bố tất cả thông tin cần thiết.

Dưới đây là một số khung khổ phổ biến nhất mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn để phù hợp với nhu cầu của mình.

CDP

CDP (trước đây là “Dự án Công bố Carbon”) là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào năm 2000, vận hành hệ thống công bố lớn nhất trên toàn cầu cho các công ty và thành phố.

Với vai trò thu thập và phân tích dữ liệu về hiệu suất môi trường và cung cấp thông tin chi tiết để cải thiện các hoạt động bền vững, các doanh nghiệp gửi thông tin cho CDP bằng cách điền vào Bảng câu hỏi. Phối hợp với Trung tâm Khí hậu SME (SME Climate Hub), CDP đã đưa ra một khung khổ công bố khí hậu mới vào năm 2021. Khung khổ này giúp các doanh nghiệp theo dõi và báo cáo tiến độ của họ đối với các cam kết, cũng như thể hiện sự lãnh đạo về khí hậu trong các ngành tương ứng của họ.

Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (Global Reporting Initiative – GRI)

GRI là một tổ chức độc lập – trụ sở tại Amsterdam, có các văn phòng khu vực trên khắp thế giới – giúp các doanh nghiệp, chính phủ và các tổ chức khác hiểu và truyền đạt các tác động bền vững của họ.

Tiêu chuẩn GRI được công nhận rộng rãi như một tiêu chuẩn toàn cầu cho báo cáo ESG và được sử dụng bởi hàng ngàn công ty, chính phủ và tổ chức trên toàn thế giới.

Các tiêu chuẩn cung cấp một khung khổ toàn diện để báo cáo về hiệu suất ESG của một tổ chức, bao gồm một loạt các chủ đề như: phát thải khí nhà kính, sử dụng nước, thực hành lao động công bằng, nhân quyền, chống tham nhũng và sự tham gia của cộng đồng. Các tiêu chuẩn này hướng dẫn cụ thể về cách cung cấp thông tin cho từng chủ đề, bao gồm thông tin nào cần đưa vào, cách đo lường và báo cáo về hiệu suất, cũng như cách đảm bảo tính minh bạch và chính xác.

Hội đồng Chuẩn mực Kế toán bền vững (Sustainability Accounting Standards Board – SASB)

Các tiêu chuẩn SASB được thiết kế để giúp các công ty xác định và báo cáo về các vấn đề bền vững liên quan đến tài chính và có liên quan đến ngành nghề kinh doanh của họ. Bằng cách sử dụng SASB, các công ty có thể cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin hữu ích hơn và có thể so sánh về hiệu suất bền vững để đưa ra quyết định đầu tư sáng suốt hơn.

Hiện có rất nhiều khung báo cáo ESG mà doanh nghiệp có thể lựa chọn sử dụng

Hội đồng Tiêu chuẩn Bền vững Quốc tế (International Sustainability Standards Board – ISSB)

ISSB là một cơ quan độc lập, thuộc khu vực tư nhân được thành lập bởi Tổ chức Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (International Financial Reporting Standards Foundation – IFRS) đã tìm cách phát triển “các tiêu chuẩn chất lượng cao về báo cáo tài chính và phát triển bền vững, dễ hiểu, có thể thực thi và được chấp nhận trên toàn cầu”.

Mục tiêu của ISSB là cung cấp cho các nhà đầu tư và những bên liên quan khác tham gia thị trường thông tin nhất quán về rủi ro và cơ hội liên quan đến tính bền vững của các công ty, để giúp họ đưa ra quyết định sáng suốt trong một loạt các ngành công nghiệp.

Mục tiêu của họ là giúp các nhà đầu tư toàn cầu đánh giá tốt hơn giá trị dài hạn của các công ty niêm yết, với các báo cáo bền vững được phát hành cùng với các báo cáo tiêu chuẩn tài chính.

Sáng kiến Mục tiêu Dựa trên Khoa học (Science-Based Targets Initiative – SBTi)

Khung báo cáo của SBTi cung cấp các hướng dẫn về cách các tổ chức nên báo cáo tiến độ của họ, bao gồm dữ liệu nào họ nên thu thập và cách họ nên đo lường lượng khí thải của mình. Khung này cũng bao gồm các yêu cầu cụ thể để báo cáo về các loại phát thải khác nhau, chẳng hạn như phát thải Phạm vi 1 (trực tiếp) và Phạm vi 2 (gián tiếp), cũng như phát thải Phạm vi 3 (gián tiếp) liên quan đến chuỗi giá trị của tổ chức.

SBTi cũng yêu cầu các tổ chức báo cáo về tiến trình của họ để đạt được các mục tiêu dựa trên khoa học, bao gồm bất kỳ thách thức hoặc rào cản nào họ gặp phải trên hành trình. Thông tin này được SBTi sử dụng để đánh giá hiệu quả của chương trình và xác định các lĩnh vực có thể cần hỗ trợ hoặc hướng dẫn bổ sung.

Các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc (UN Sustainable Development Goals – SDGs)

Mặc dù không phải là một khung khổ báo cáo theo nghĩa truyền thống, các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc (SDGs) là một tập hợp 17 mục tiêu toàn cầu nhằm giải quyết các thách thức kinh tế, xã hội và môi trường cấp bách nhất trên thế giới.

SDGs cung cấp một ngôn ngữ và khung khổ chung cho các tổ chức để điều chỉnh các chiến lược và hoạt động của họ với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu và báo cáo về những đóng góp của họ để đạt được các mục tiêu.

Một số khung báo cáo như CDP, GRI và SASB kết hợp với 17 mục tiêu trên và các tổ chức có thể công bố tiến trình của họ bằng cách sử dụng các khung khổ đó. Chính phủ có thể tận dụng dữ liệu này để theo dõi tiến trình quốc gia và phát triển các chính sách liên quan.

Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc (SDGs) là một tập hợp 17 mục tiêu toàn cầu nhằm giải quyết các thách thức kinh tế, xã hội và môi trường cấp bách nhất trên thế giới.

Nhóm công tác về Công bố Tài chính liên quan đến khí hậu (TCFD)

TCFD là một sáng kiến toàn cầu được thành lập bởi Ủy ban ổn định tài chính (Financial Stability Board – FSB) vào năm 2015 nhằm cải thiện và tăng cường báo cáo về rủi ro và cơ hội tài chính liên quan đến khí hậu của các công ty và tổ chức tài chính.TCFD đã phát triển một bộ khuyến nghị cho các công bố tài chính tự nguyện liên quan đến khí hậu được phát hành vào năm 2017.

Các khuyến nghị cung cấp một khung khổ cho các công ty công bố các rủi ro và cơ hội liên quan đến khí hậu trong báo cáo tài chính của họ, giúp các nhà đầu tư, bên cho vay và các bên liên quan khác đưa ra quyết định sáng suốt hơn. Các khuyến nghị của TCFD được công nhận và hỗ trợ rộng rãi bởi các doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý trên toàn thế giới như một phương tiện hiệu quả để tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về các rủi ro và cơ hội tài chính liên quan đến khí hậu.

Vào năm 2018, CDP đã thiết kế lại bảng câu hỏi về biến đổi khí hậu của mình để phù hợp với các khuyến nghị của TCFD và hiện bảng câu hỏi về biến đổi khí hậu của CDP chứa hơn 25 câu hỏi phù hợp với TCFD.

Nên chọn khung khổ ESG nào?

Như vậy, có rất nhiều khung báo cáo ESG để doanh nghiệp lựa chọn. Mỗi loại lại đi kèm với bộ số liệu và yêu cầu báo cáo riêng, giúp tìm ra khung khổ nào (hoặc kết hợp với khung khổ nào) phù hợp nhất cho doanh nghiệp của bạn. Ngoài ra, để lựa chọn khung báo cáo phù hợp, tổ chức có thể:

  • Nghiên cứu các khung khổ thường được sử dụng bởi các công ty có cùng hoạt động kinh doanh;
  • Nhìn vào những gì đối thủ cạnh tranh đang sử dụng, khi sử dụng cùng một khung khổ báo cáo có thể giúp doanh nghiệp so sánh điểm chuẩn với họ;
  • Xem xét đối tượng chính mà báo cáo ESG của mình hướng tới, các nhà đầu tư, khách hàng, nhân viên và các bên liên quan khác thường muốn xem các thông tin khác nhau về các sáng kiến ESG.
  • Các quy định về công bố liên quan đến khí hậu và các loại báo cáo ESG khác cũng có thể ảnh hưởng đến các lựa chọn khung báo cáo.

VNCPC

ESG và Phát triển bền vững: Những điểm khác biệt

Trong những năm gần đây, định hướng phát triển bền vững và các yếu tố Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) đã trở thành một phần không thể thiếu trong các chiến lược và quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Các nội dung thực thi của ESG tập trung vào việc đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức trong ba lĩnh vực chính này và đã thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư, người tiêu dùng và các bên liên quan. Đây là sự phát triển bền vững được bảo đảm bằng theo đuổi thực hiện ESG và là 1 xu hướng kinh tế xã hội thời thượng.

Hoạt động kinh doanh cân đối lợi ích hài hòa giữa khách hàng, doanh nghiệp và xã hội là một tư duy trong quản trị kinh doanh hướng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Phát triển bền vững đang trở thành giá trị cốt lõi của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định tầm nhìn và định hướng chiến lược kinh doanh của tổ chức, đặc biệt đối với doanh nghiệp hoạt động giao thương quốc tế, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và các công ty đại chúng niêm yết tại sàn chứng khoán.

Các yếu tố ESG và tính bền vững trong phát triển doanh nghiệp đã trở thành những cân nhắc thiết yếu đối với các công ty trên toàn thế giới. Theo đó, Báo cáo Phát triển bền vững và báo cáo ESG được các doanh nghiệp công bố trở nên cực kỳ phổ biến. Nếu một doanh nghiệp đơn giản chỉ muốn trở nên trưởng thành hơn hoặc mong muốn cao hơn là phát triển ra thị trường quốc tế, họ nên làm quen với các khái niệm này cũng như hiểu sự khác biệt giữa 2 loại báo cáo, để đảm bảo thực hành kinh doanh có trách nhiệm trong khi vẫn nâng cao hiệu quả tài chính trong dài hạn.

Hai chủ đề mang tính xu hướng thời đại này tồn tại song song nhau, tương quan hữu cơ chặt chẽ nhau và thường xuất hiện cạnh nhau không tách rời trong mọi chương trình nghị sự, hội thảo, đào tạo hay kế hoạch sản xuất kinh doanh dịch vụ của mọi tổ chức. Sự gần gũi ngữ cảnh và nội dung tinh thần của 2 thuật ngữ “Phát triển bền vững” và “Thực thi ESG” và sự hòa hợp có tính tương đồng hoàn hảo giữa Báo cáo Tính bền vững trong phát triển doanh nghiệp và báo cáo ESG làm cho nhiều người thường nghĩ chúng như nhau, nhưng kỳ thực, vẫn có những khác biệt khá là rạch ròi tuy là không lớn lao lắm.

“Phát triển bền vững” là tiêu chí lẫn cứu cánh

 

“ESG” là chuẩn mực lẫn phương tiện

Đúng là về mặt tinh thần chúng gần như nhau vì chúng là sự thực thi nghiêm túc, chuẩn mực để cùng hướng đến xây dựng 1 chủ thể kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ, minh bạch và bền vững, nhưng về giá trị cốt lõi trong 2 nội dung có vài sự khác nhau căn bản mà chỉ khi phân tích rõ nét mới nhận ra. Tuy nhiên 2 khái niệm về “Phát triển bền vững” và “ESG” khá tương đồng, không tách bạch sâu sắc và hoàn toàn có thể được hiểu là con đường làm sao cho doanh nghiệp tốt lên, vững mạnh lên, trong đó “Phát triển bền vững” là tiêu chí lẫn cứu cánh, còn “ESG” là chuẩn mực lẫn phương tiện.

Chúng như 2 thức uống trà và cà phê, cũng có hàm lượng chủ yếu chính là tanin và cafeiine và các nguyên tố thành phần, các khoáng chất vi lượng ở mức độ khác nhau, nhưng tính chất, hiệu ứng, cảm quan sử dụng không khác nhau đến nỗi có thể dùng chung không làm thay đổi phong vị dù hàm lượng tương ứng có thể đổi khác (Café: cafeiine 4%/tannin 6%; Trà: cafeiine 5%/tannin 30%) và tanin là thành phần có hàm lượng luôn cao nhất. Trong khi đó, trà sữa lại có trà và sữa là 2 thứ khác nhau hoàn toàn dù người ta có thể hòa chung thành 1 thức uống tổng hợp là trà sữa.

Trong ESG ba trụ cột liên kết với nhau để đo lường tác động của doanh nghiệp đối với các khía cạnh khác nhau của xã hội. Các yếu tố môi trường đánh giá cách doanh nghiệp tương tác với thế giới tự nhiên, bao gồm các đánh giá về lượng khí thải carbon, thực hành quản lý chất thải và bảo tồn tài nguyên. Các yếu tố xã hội đánh giá tác động của công ty đối với nhân viên, khách hàng, cộng đồng và các bên liên quan khác. Điều này bao gồm các sáng kiến về sự đa dạng và hòa nhập, thực hành lao động, tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, sự tham gia của cộng đồng, v.v. Các yếu tố quản trị bao gồm các chính sách và cơ cấu nội bộ của công ty nhằm xác định cách thức quản lý và kiểm soát công ty.

Tầm quan trọng ngày càng tăng của tính bền vững ESG là do một số yếu tố chính. Thứ nhất, người tiêu dùng ngày càng có ý thức hơn về sản phẩm họ mua và các công ty họ ủng hộ. Họ đang tích cực tìm kiếm các doanh nghiệp phù hợp với giá trị của họ về quản lý môi trường và trách nhiệm xã hội. Thứ hai, các nhà đầu tư ngày càng xem xét tiêu chí ESG khi đưa ra quyết định đầu tư. Họ nhận ra rằng các công ty ưu tiên các yếu tố này có nhiều khả năng được quản lý tốt trong dài hạn và được trang bị các công cụ, giải pháp tốt hơn để xử lý các rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu hoặc các vấn đề xã hội.

Hơn nữa, các cơ quan quản lý trên khắp thế giới đang thực hiện các hướng dẫn chặt chẽ hơn liên quan đến các yêu cầu báo cáo tính bền vững đối với các doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động của họ. Điều này tạo ra nghĩa vụ pháp lý đối với các đơn vị, doanh nghiệp trong việc báo cáo chính xác hiệu suất ESG của họ. Quan trọng hơn hết là ESG bao trùm cả 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, thế nên mới nói ESG chính là phương tiện để đạt được cứu cánh Phát triển bền vững.

Để hiểu sự khác biệt rạch ròi của ESG và Phát triển bền vững, có lẽ cần phân tích khái niệm của 2 chủ đề này: Trước hết ta nói đến tính bền vững, là thực tiễn điều hành một doanh nghiệp theo cách đáp ứng nhu cầu kinh tế, xã hội và môi trường của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của chính doanh nghiệp.

Tính bền vững trong khía cạnh môi trường tập trung vào việc giảm hoặc loại bỏ các tác động tiêu cực đến môi trường bằng cách giảm thiểu phát thải khí nhà kính, giảm chất thải và ô nhiễm, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên; Trong khía cạnh xã hội tập trung vào việc thúc đẩy công bằng xã hội, đa dạng và hòa nhập bằng cách đảm bảo thực hành lao động công bằng và an toàn, ưu tiên sức khỏe và an toàn, nhân quyền và sự tham gia của cộng đồng; Cuối cùng, trong khía cạnh kinh tế, tính bền vững tập trung vào việc duy trì lợi nhuận lâu dài, tạo ra giá trị kinh tế và đảm bảo phân bổ nguồn lực có trách nhiệm.

Tính bền vững của doanh nghiệp nhằm đảm bảo rằng các doanh nghiệp hoạt động một cách có đạo đức, có trách nhiệm và bền vững, họ đóng góp vào sự thịnh vượng của cộng đồng nơi họ hoạt động. Bằng cách giải quyết một loạt các vấn đề, chẳng hạn như giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện điều kiện làm việc, thúc đẩy nhân quyền và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, tính bền vững của doanh nghiệp có thể đảm bảo các tổ chức hoạt động theo cách có lợi nhuận và có trách nhiệm với xã hội. Điều này sẽ tạo ra giá trị và mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan trong dài hạn.

Trong khi đó, khung ESG được các nhà đầu tư sử dụng để đánh giá hiệu suất của một tổ chức dựa trên các tiêu chí cụ thể. Các tiêu chí này được sử dụng để đo lường mức độ rủi ro của đơn vị với mục đích cải thiện các quyết định đầu tư. Hiểu và cải thiện hiệu suất ESG của công ty có thể mang lại lợi ích cho doanh nghiệp theo nhiều cách, bao gồm hiệu quả tài chính, nâng cao danh tiếng và thương hiệu, tăng tính tuân thủ quy định. Số lượng các cơ quan xếp hạng điểm ESG ngày càng phổ biến. Các khung báo cáo mới và đang phát triển đang tăng cường tính minh bạch và nhất quán của thông tin ESG mà các công ty báo cáo công khai. Điều này được gọi là công bố ESG.

Mặc dù cả ESG và tính bền vững đều liên quan đến các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị, nhưng ESG tập trung vào việc đánh giá hiệu suất của các công ty

Mặc dù việc công bố ESG là tự nguyện, nhưng nó đã trở thành một yêu cầu tiêu chuẩn đối với các bên liên quan quan trọng, chẳng hạn như các nhà đầu tư. Trong những năm gần đây, các yếu tố ESG ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà đầu tư và các bên liên quan khác, khi họ tìm cách đầu tư vào các công ty có tác động tích cực đến xã hội và môi trường.

ESG và tính bền vững là hai khái niệm liên quan chặt chẽ và lồng ghép nhưng khác biệt. Mặc dù cả ESG và tính bền vững đều liên quan đến các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị, nhưng ESG tập trung vào việc đánh giá hiệu suất của các công ty dựa trên các yếu tố này, trong khi tính bền vững là một nguyên tắc rộng hơn bao gồm các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm và đạo đức một cách toàn diện. Tính bền vững giao thoa môi trường và trách nhiệm xã hội vào nền kinh tế nhưng ESG là sự hòa nhập mang tính tổng hợp của mảng quản trị doanh nghiệp vào cùng tập hợp với 2 mảng môi trường và trách nhiệm xã hội.

Thuật ngữ ESG dường như đồng nghĩa với tính bền vững, nhưng việc sử dụng hoán đổi ngữ nghĩa lẫn ngữ cảnh cho nhau của hai thuật ngữ này là không hề chính xác. Sự khác biệt chính giữa ESG và tính bền vững ở chỗ ESG là một công cụ cụ thể được sử dụng để đo lường hiệu suất của một doanh nghiệp, trong khi tính bền vững như một nguyên tắc rộng lớn bao gồm một loạt các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm.

Mặt khác, tính bền vững bao gồm một loạt các chủ đề như quản lý chuỗi cung ứng, sự tham gia của các bên liên quan và phát triển cộng đồng và cách doanh nghiệp tác động đến thế giới và thị trường, còn ESG xem xét cách thế giới và thị trường tác động đến doanh nghiệp hoặc khoản đầu tư, và có giá trị cung cấp khuôn khổ để đánh giá hiệu suất và rủi ro của công ty qua các tiêu chuẩn đã được đặt ra bởi các nhà lập pháp, nhà đầu tư và các tổ chức báo cáo ESG.

Trong khi tính bền vững có trọng tâm của các bên liên quan rộng hơn, bao gồm nhân viên, khách hàng và cổ đông bởi các tiêu chuẩn bền vững kết hợp khoa học thì ESG tìm cách xác định và xếp hạng các cam kết mong muốn, rộng hơn những gì được xem xét về tính bền vững – những đặc điểm này mở rộng đến mức thu nhập cho nhân sự, sự đa dạng của các bên liên quan, đãi ngộ với người lao động, sự tham gia của cộng đồng và các vấn đề sức khỏe và an toàn và nhiều thứ nữa.

Sự khác biệt giữa ESG và tính bền vững là tinh tế nhưng quan trọng. Việc chuyển đổi từ các chỉ số bền vững sang ESG cho thấy sự phát triển của các hoạt động kinh doanh sang các phép đo hiệu suất chính xác hơn. Theo nghĩa này, thay đổi là tốt, vì nó chỉ ra sự trưởng thành của các hoạt động kinh doanh để đo lường chính xác hơn về cách một doanh nghiệp tác động đến môi trường và hệ thống xã hội.

Sự khác biệt của 2 chủ thể tính bền vững và ESG dẫn đến khác biệt của giữa Báo cáo ESG với Báo cáo Phát triển bền vững:

Báo cáo ESG cần cho các nhà đầu tư để xuất vốn cho những hoạt động kinh doanh hiệu quả và có trách nhiệm, vì các báo cáo này cho phép họ xem xét dữ liệu đáng tin cậy, chính xác, có thể so sánh và kịp thời. Báo cáo ESG tiết lộ dữ liệu môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp bằng cách sử dụng các tiêu chí cụ thể, với mục đích tiết lộ hồ sơ rủi ro của đơn vị cho các nhà đầu tư.

Trong báo cáo ESG, thông tin về quản trị thường được cung cấp trong báo cáo hàng năm của một tổ chức là tiêu chuẩn về thủ tục quản trị và quy tắc đạo đức của họ; Các dữ liệu môi trường có số liệu phức tạp hơn nhiều vì những quy định mới đang được phát triển trong lĩnh vực này và các tiêu chuẩn báo cáo được cải thiện; Sau cùng là các vấn đề xã hội bao gồm phúc lợi của nhân viên, quan hệ lao động, sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc, điều mà các doanh nghiệp thường chậm chạp trong việc cung cấp dữ liệu đáng tin cậy.

Báo cáo ESG cần cho các nhà đầu tư để xuất vốn cho những hoạt động kinh doanh hiệu quả và có trách nhiệm

Trong khi đó, Báo cáo Phát triển bền vững là một báo cáo định kỳ được xuất bản bởi các doanh nghiệp muốn chia sẻ trách nhiệm xã hội và môi trường của mình với nhiều bên liên quan. Báo cáo này tổng hợp và công bố thông tin mà một tổ chức quyết định truyền đạt liên quan đến các cam kết và hành động của mình ở các lĩnh vực xã hội và môi trường trong hoạt động kinh doanh của mình. Bằng cách đó, một tổ chức sẽ cho phép các bên liên quan – từ khách hàng đến nhân viên và bất kỳ ai khác quan tâm đến hành động của tổ chức – biết về chiến lược phát triển bền vững của thương hiệu.

Tóm lại, sự khác biệt giữa ESG và Phát triển bền vững của doanh nghiệp nằm ở chỗ, ESG là một tiêu chí cụ thể được đặt ra bởi các nhà lập pháp, nhà đầu tư và các tổ chức báo cáo ESG. Trong khi Phát triển bền vững là một thuật ngữ chung để làm điều tốt đẹp thuộc bối cảnh và là mục tiêu lẫn nội hàm hoạt động cho nhiều bên liên quan. Sự khác biệt này được phản ánh trong báo cáo. Mặc dù nhiều tiêu chuẩn được sử dụng cho báo cáo ESG cũng có thể được sử dụng để tạo ra một báo cáo bền vững, mục đích và đối tượng mục tiêu của các báo cáo khác nhau. Song, một báo cáo bền vững có thể mơ hồ trong khi báo cáo ESG được cấu trúc chặt chẽ bởi các tiêu chí môi trường, xã hội và quản trị.

Chuyên gia Lê Năng Hùng, GS danh dự Đại học quốc tế Châu âu IEU – Ngành kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.
https://www.hane.vn/co-gi-khac-biet-giua-phat-trien-ben-vung-va-esg/