Các nước rót cả tỷ USD vào hydro, “mỏ vàng” nhiên liệu mới của tương lai

Hydro đang đứng đầu danh sách những nguồn năng lượng có thể thay thế dầu mỏ. Thị trường hydro xanh có trị giá 676 triệu USD vào năm 2022 và được dự đoán có thể đạt 7,3 tỷ USD vào năm 2027.

Nhiên liệu của tương lai thay thế dầu mỏ

Dầu mỏ được ví như “vàng đen” vì mức độ quan trọng của nhiên liệu này đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, dầu mỏ không phải là nguồn tài nguyên vô hạn và đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt. Chính vì vậy, chúng ta buộc phải tìm kiếm những nguồn năng lượng sạch và đem lại hiệu quả kinh tế tốt hơn để thay thế cho dầu mỏ.

Theo khảo sát của LiveScience, hydro đang đứng đầu danh sách những nguồn năng lượng có thể thay thế dầu mỏ. Hydro có rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống như thay thế cho xăng làm nhiên liệu cho động cơ tên lửa và ô tô.

Ngoài ra, hydro còn được sử dụng trong pin nhiên liệu, cung cấp năng lượng cho động cơ điện, làm nguyên liệu để sản xuất nhiều hợp chất hữu cơ… Sử dụng loại năng lượng này cũng góp phần lớn vào việc giảm ô nhiễm môi trường.


Hydro đang đứng đầu danh sách những nguồn năng lượng có thể thay thế dầu mỏ (Ảnh: Emerson).

Với nhiều ứng dụng, hydro đang được kỳ vọng trở thành nguồn nhiên liệu sạch của tương lai và có thể chiếm từ 12% đến 20% nhu cầu năng lượng toàn cầu vào năm 2050.

Hiện có nhiều loại hydro khác nhau. Trong đó, hydro xám là dạng hydro phổ biến nhất, được tạo ra từ khí methane và hiện chiếm phần lớn sản lượng trên toàn thế giới đạt 90 triệu tấn. Tuy nhiên, hydro xám lại là dạng hydro kém bền vững nhất.

Hydro xanh được xem là loại khí hydro thương mại thân thiện với môi trường, được tạo ra bằng cách sử dụng năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió, nước… Tuy nhiên, sản xuất loại khí này vẫn ở quy mô nhỏ và tốn kém nhiều chi phí.

Loại năng lượng này vẫn ở giai đoạn sơ khai nhưng sở hữu tiềm năng phát triển lớn bởi có lượng khí thải carbon rất thấp. Không những vậy hydro xanh còn có nhiều ứng dụng tiềm năng trong việc giảm thiểu khí thải carbon trong các ngành công nghiệp, góp phần hạn chế tác động của biến đổi khí hậu.

Các chuyên gia trong ngành đánh giá, hydro xanh là giải pháp nhiên liệu sạch. Các chuyên gia dự kiến sản lượng hydro xanh sẽ tăng lên đáng kể trong tương lai khi các nước tập trung đầu tư để giải quyết bài toán năng lượng và vấn đề biến đổi khí hậu.

“Chìa khóa” trong quá trình chuyển dịch năng lượng

Lợi ích hàng đầu của việc sử dụng hydro làm nhiên liệu là không phát thải khí CO2. Khi phản ứng với oxy, hydro chỉ tạo ra điện, nước và nhiệt. Bên cạnh đó, hydro cũng tạo ra mật độ năng lượng cao và mở ra tiềm năng sử dụng hydro như một nguồn tài nguyên phục vụ nhu cầu năng lượng lâu dài trong tương lai.

Hydrogen có hàm lượng năng lượng cao hơn 300% so với xăng, khi được sử dụng trong pin nhiên liệu, “chất thải” duy nhất được tạo ra là nước. Chính vì vậy, các nhà hoạch định chính sách đang xem xét đẩy mạnh đầu tư vào nguồn nhiên liệu này trong cuộc đua đạt mức phát thải ròng bằng 0.

Không chỉ vậy, hydro còn có tiềm năng lưu trữ lớn. Lượng năng lượng được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời và năng lượng gió có thể bị ảnh hưởng do điều kiện thời tiết.


Nhà máy điện phân tại thành phố Lingen, Đức (Ảnh: RWE)

Việc chuyển đổi năng lượng tái tạo thành hydro giúp lưu trữ đồng thời giúp ổn định mạng lưới năng lượng. Hydro cũng có thể được lưu trữ trong thời gian dài mà không bị thất thoát như các loại năng lượng khác.

Theo dữ liệu từ Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), công suất sản xuất hydrogen toàn cầu vào năm 2022 là 95 triệu tấn/năm, tập trung vào công nghiệp và lọc dầu. Theo kịch bản của IEA, sản lượng hydro hàng năm sẽ cần tăng khoảng 350% vào năm 2050, lên 430 triệu tấn/năm.

Thị trường tỷ USD

Với tiềm năng phát triển lớn, nhiều nước đang tăng cường đầu tư vào hydro. Thị trường sản xuất hydrogen dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 9,2% cho đến năm 2030.

Theo cơ sở dữ liệu các dự án hydro của IEA, thị trường hydro xanh có trị giá 676 triệu USD vào năm 2022. Các chuyên gia dự đoán con số này có thể đạt 7,3 tỷ USD vào năm 2027.

Nhờ những tiến bộ về công nghệ điện phân và pin nhiên liệu, việc sản xuất hydro xanh đang dần trở thành nguồn năng lượng của hiện tại và tương lai. Đạo luật Giảm lạm phát (IRA) ở Mỹ cũng đưa ra các khoản trợ cấp để sản xuất hydro xanh và tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thị trường.

Theo báo cáo về địa chính trị của Cơ quan Năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA), từ năm 2022 đến 2030 sẽ có khoảng 160 tỷ USD được đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo và một nửa trong số đó dành cho hydro xanh.

IRENA cũng ước tính mức tiêu thụ hydro hàng năm sẽ tăng từ 100 triệu tấn lên mức hơn 600 triệu tấn vào năm 2050. Cơ quan này ước tính quy mô thị trường có thể lên tới khoảng 700 tỷ USD.

Ông Francesco La Camera, Tổng giám đốc IRENA, từng khẳng định rằng: “Hydro xanh sẽ đa dạng hóa nguồn cung, dẫn đến việc chia sẻ quyền lực cho nhiều bên hơn. Với sự hợp tác quốc tế, thị trường có thể mở rộng hơn nữa”.


Xưởng đóng tàu Myklebust tại Na Uy đã đóng tàu chạy bằng hydro lớn nhất thế giới (Ảnh: Myklebust).

Năm 2017, chỉ có Nhật Bản lên kế hoạch đầu tư cho hydro nhưng hiện nay đã có khoảng 40 quốc gia có kế hoạch phát triển loại năng lượng này. Chính phủ các nước và các công ty đã cùng tập hợp để thúc đẩy phát triển nền kinh tế dựa trên hydro.

Chính phủ Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Mỹ, Trung Quốc hay Liên minh châu Âu (EU) đều đang xây dựng các chiến lược và dự án sử dụng hydro. Các công ty cũng đang tìm cách phát triển nguồn năng lượng này. Trung tâm hydro xanh công nghiệp đầu tiên trên thế giới đang được xây dựng tại bang Utah (Mỹ) và dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2025.

Đối với lĩnh vực khai thác mỏ, hydro xanh sẽ trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình chuyển đổi sang hệ thống năng lượng tái tạo.

“Hydro còn nhiều hứa hẹn trong tương lai. Các công ty khai thác mỏ đang tích cực khám phá và thúc đẩy một loạt sáng kiến nhằm ứng dụng hydro xanh trong chiến lược năng lượng và kinh doanh mới của mình”, ông Andrew Wilson, Giám đốc phụ trách Úc và New Zealand của công ty dịch vụ tư vấn dss+ Consulting, chia sẻ với Green Review.

Tuy nhiên, IEA cho rằng việc khai thác loại tài nguyên này vẫn chưa đủ. IEA cảnh báo nhu cầu năng lượng sẽ sớm đạt đỉnh và kêu gọi các nước, các công ty khai thác hành động nhanh hơn.


Thị trường hydro xanh có thể đạt 7,3 tỷ USD vào năm 2027 (Ảnh: Track insight).

Ông Geoffrey Ellis, chuyên gia của Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ ước tính rằng hiện có hàng chục tỷ tấn hydro trên toàn cầu. Ông cho biết hầu hết các mỏ hydro tự nhiên thường ở rất xa ngoài khơi hoặc nằm rất sâu dưới lòng đất nên sẽ tốn nhiều chi phí để khai thác. Tuy nhiên nếu biết cách khai thác thì nó sẽ mang lại một lượng khí hydro tự nhiên lớn và có giá trị cao.

Năng lượng tái tạo là trụ cột chính để loại bỏ carbon cho nền kinh tế thế giới. ING kỳ vọng công suất năng lượng tái tạo sẽ tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai. Trong 2 thập kỷ qua, chi phí năng lượng tái tạo đã giảm mạnh và năng lượng tái tạo đang chuyển sang một thị trường rộng lớn hơn. Theo IEA, công suất điện năng lượng tái tạo toàn cầu đã liên tục tăng trưởng mạnh mẽ trong 22 năm qua.

IEA ước tính rằng thế giới có thể đạt được 4.700 GW công suất năng lượng tái tạo vào cuối năm 2024 so với mức tăng công suất từ hơn 4.100 GW của năm 2023. Cơ quan này cho rằng nếu theo chính sách và điều kiện thị trường dự kiến hiện nay thì công suất năng lượng tái tạo toàn cầu có thể tăng gấp 2,5 lần vào năm 2030.

Theo Dân trí
https://petrotimes.vn/cac-nuoc-rot-ca-ty-usd-vao-hydro-mo-vang-nhien-lieu-moi-cua-tuong-lai-711360.html

Bê tông carbon thấp tuổi thọ cao chuyển 80% xi măng thành tro than

Các nhà nghiên cứu của RMIT đã phát triển loại “bê tông xanh” mới sử dụng lượng tro than tái chế nhiều gấp đôi so với bê tông carbon thấp hiện có, giảm một nửa lượng xi măng cần thiết, thậm chí còn có tuổi thọ cao hơn bê tông xi măng Portland thông thường.

Tro than có rất nhiều xung quanh các nhà máy nhiệt điện than. Trên thực tế, đó có thể là một sự đánh giá thấp đáng kể trên toàn cầu, các nhà máy điện sản xuất khoảng 1,2 tỷ tấn mỗi năm và ở Úc, tro than chiếm gần 20% tổng lượng chất thải. Đó là con số đáng kinh ngạc và cũng có thể đặt cược an toàn rằng những thứ này sẽ vẫn còn dồi dào trong thời gian dài trong quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo.

Do đó, đây là nguồn nguyên liệu tiềm năng to lớn và các nhà sản xuất bê tông có hàm lượng carbon thấp đã sử dụng nó làm chất thay thế xi măng, thường thay thế tới 40% lượng xi măng. Về mặt môi trường, tận dụng lượng lớn chất thải trong khi cắt giảm xi măng – bản thân nó chiếm khoảng 8% tổng lượng khí thải carbon toàn cầu.

Một nhóm từ RMIT đã làm việc với Hiệp hội Phát triển Tro của Úc và Nhà máy điện AGL Loy Yang để tận dụng tốt hơn tài sản đáng ngờ này, cố gắng nâng hàm lượng tro lên để thay thế hơn 80% xi măng. Để làm như vậy, các nhà nghiên cứu đã sử dụng hỗn hợp tro bay có hàm lượng canxi thấp, với 18% vôi ngậm nước, 3% nano-silica đóng vai trò là chất tăng cường, sau đó đổ một ít bê tông và bắt đầu thử nghiệm các tính chất cơ học của nó.

Bê tông tro bay thể tích lớn (HFVA-80) thu được đã chứng tỏ cường độ nén tăng từ 22 lên 71 MPa trong khoảng thời gian từ ngày thứ 7 đến ngày 450. Nó đạt cường độ uốn 2,7-8,7 MPa, cường độ kéo tách 1,6–5,0 MPa và độ đàn hồi mô đun 28,9–37,0 GPa. Nó tồn tại lâu hơn xi măng Portland thông thường theo thời gian khi tiếp xúc với axit và sunfat trong hai năm.

Tiến sĩ Chamila Gunasekara, từ Trường Kỹ thuật của RMIT cho biết: “Việc bổ sung các chất phụ gia nano để điều chỉnh tính chất hóa học của bê tông cho phép bổ sung nhiều tro bay hơn mà không ảnh hưởng đến hiệu suất kỹ thuật”.


Tiến sĩ Chamila Gunasekara cầm mẫu bê tông ít carbon.

Tốt hơn nữa, nhóm nghiên cứu cho biết họ nhận thấy kỹ thuật này không yêu cầu “tro bay” mịn và dường như cũng hoạt động tốt với “tro ao” cấp thấp, hiện họ đã tạo và thử nghiệm các dầm bê tông kết cấu từ loại sau đã đạt chứng nhận Tiêu chuẩn Úc về hiệu suất kỹ thuật.

Gunasekara cho biết: “Thật thú vị khi kết quả sơ bộ cho thấy hiệu suất tương tự với tro ao có chất lượng thấp hơn, có khả năng mở ra nguồn tài nguyên hoàn toàn mới chưa được sử dụng đúng mức để thay thế xi măng. So với tro bay, tro ao hồ ít được khai thác trong xây dựng do đặc tính khác nhau. Có hàng trăm megaton chất thải tro nằm trong các con đập trên khắp nước Úc và nhiều nơi khác trên toàn cầu. Những ao chứa tro này có nguy cơ trở thành mối nguy hiểm cho môi trường và khả năng tái sử dụng tro này làm vật liệu xây dựng ở quy mô lớn sẽ là một thắng lợi lớn”.

Nhóm RMIT cũng làm việc với Đại học Hokkaido để phát triển một hệ thống mô hình máy tính thí điểm dự báo hiệu suất của các hỗn hợp bê tông mới theo thời gian và nhóm hy vọng có thể sử dụng phần mềm này để phân tích và tối ưu hóa các hỗn hợp mới hơn nữa.

An Hạ
https://vietq.vn/be-tong-carbon-thap-co-tuoi-tho-cao-chuyen-80-xi-mang-thanh-tro-than-d221600.html

Mekong Capital và HUSK ký khoản đầu tư 5 triệu USD thúc đẩy nông nghiệp tái tạo

Quỹ Mekong Enterprise Fund IV Và HUSK ký thỏa thuận đầu tư 5 triệu USD nhằm thúc đẩy nông nghiệp tái tạo tại Đông Nam Á.

Ngày 15/5, Quỹ Mekong Enterprise Fund IV (MEF IV) thông báo đã ký kết thỏa thuận đầu tư trị giá 5 triệu đô la Mỹ với HUSK, một công ty tiên phong trong lĩnh vực sản xuất than sinh học và phân bón sinh học cam kết các ứng dụng thực tiễn về nông nghiệp tái tạo tại Đông Nam Á.

Đây là minh chứng cho cam kết của MEF IV trong việc mang lại cả lợi nhuận tài chính lẫn các tác động có ý nghĩa về xã hội và môi trường trên toàn khu vực.

HUSK được thành lập vào năm 2017 bởi hai doanh nhân nữ Heloise Buckland và Carol Rius. Sau đó, khi Richard Kendall tham gia vào năm 2019, công ty đã nhanh chóng phát triển thành một công ty dẫn đầu trong lĩnh vực nông nghiệp.

Tận dụng công nghệ tiên tiến, HUSK sản xuất than sinh học, phân bón có chứa carbon hữu cơ (carbon based fertilizer) và các sản phẩm bảo vệ cây trồng hướng đến giải quyết các thách thức mà nông dân đang phải đối mặt, như hiệu suất thu hoạch không đều, không ổn định, sâu rầy, dịch bệnh, và các cách thức canh tác đất làm cạn dinh dưỡng đất. Những vấn đề này ngày càng trở nên trầm trọng hơn do biến đổi khí hậu.

Bà Heloise Buckland, CEO và đồng sáng lập của Husk, cho biết, sứ mệnh của HUSK là đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp tái tạo. Để đạt được điều này, chúng tôi đã phát triển một hệ thống công nghệ và sản phẩm độc đáo giúp cải thiện chất lượng đất, hấp thụ carbon và tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.

“Nông dân lựa chọn sản phẩm của chúng tôi vì chúng mang lại giá trị vượt trội so với các loại phân bón thông thường, hỗ trợ sức khỏe đất lâu dài, bảo vệ cây trồng và cải thiện hiệu quả sử dụng nước và dưỡng chất. Cam kết của Mekong Capital trong việc hỗ trợ tầm nhìn của chúng tôi đến vào thời điểm vô cùng quan trọng, khi nhu cầu về các giải pháp bền vững có thể nhân rộng và có ảnh hưởng đối với việc chống thoái hóa đất đang ở mức cấp bách nhất”, bà Heloise Buckland nói.

Cũng theo bà Bà Heloise Buckland, việc ký kết khoản đầu tư trên không chỉ là một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển nhanh chóng của HUSK với tư cách là nhà sản xuất hàng đầu về phân bón hữu cơ, mà còn là phần thiết yếu trong việc thúc đẩy sự áp dụng than sinh học như một nền tảng quan trọng trong việc gia tăng các thực hành nông nghiệp tái tạo trên khắp Đông Nam Á. Đội ngũ của HUSK rất mong chờ được hợp tác cùng Mekong Capital trong giai đoạn tiếp theo của hành trình đầy triển vọng này”.

Bà Ellen Văn, Trưởng nhóm Tư vấn Đầu tư tại Mekong Capital và là người phụ trách khoản đầu tư vào HUSK, chia sẻ: “Chúng tôi rất vinh dự được hợp tác với HUSK trong việc kết hợp tri thức và sự đổi mới để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp tái tạo. Tại Mekong Capital, chúng tôi luôn tin tưởng vào việc đầu tư vào những công ty không chỉ mang lại những con số lợi nhuận mà còn tạo ra tác động tích cực đối với xã hội và môi trường. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ sứ mệnh của HUSK và mong muốn hỗ trợ sự phát triển của họ trong những năm tới, là minh chứng cho mối quan hệ tương hỗ giữa tác động xã hội và lợi nhuận tài chính.”

Được thành lập vào năm 2017 bởi Heloise Buckland và Carol Rius, HUSK là công ty dẫn đầu trong lĩnh vực nông nghiệp tái tạo tại Đông Nam Á. Khi Richard Kendall gia nhập vào năm 2019, công ty ưu tiên về lãnh đạo nữ và các giải pháp đổi mới. Theo đó, HUSK chú trọng đào tạo phụ nữ làm đại sứ nông nghiệp carbon, tạo động lực cho họ để thúc đẩy các hoạt động bền vững và phổ cập cho mọi người về ‘sức khỏe’ của đất. Phương pháp này, kết hợp với các nỗ lực bán hàng được trực tiếp dẫn dắt bởi các nữ lãnh đạo tại Campuchia, đã đóng góp 27% doanh số bán hàng trong năm 2023.

Tại Việt Nam, HUSK tiếp thị sản phẩm của mình chủ yếu ở các vùng trung du cho cây rau và cà phê, và các vùng đồng bằng sông Cửu Long cho việc canh tác lúa. Công ty đặt mục tiêu đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về phân bón hữu cơ tại Việt Nam theo mục tiêu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nhằm nâng tỷ lệ sản phẩm hữu cơ được đăng ký lên 25% vào năm 2025. HUSK cũng có kế hoạch đầy tham vọng để đưa Việt Nam lên vị trí dẫn đầu trong việc giảm thiểu carbon trong các chuỗi giá trị quan trọng như cà phê và lúa gạo, bằng cách cải tạo đất, hấp thụ carbon và giảm sử dụng phân bón tổng hợp.

Là Quỹ thứ năm do Mekong Capital tư vấn, MEF IV, là quỹ đầu tư vốn cổ phần tư nhân với quy mô quỹ là 246 triệu USD. MEF IV sẽ tiếp tục chiến lược thành công của Mekong Capital trong việc đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, tập trung vào các công ty trong lĩnh vực tiêu dùng đang tăng trưởng tốt nhờ vào sự gia tăng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và việc ứng dụng các phương thức kinh doanh hiện đại.

Theo đó, Quỹ sẽ đặc biệt tập trung vào các ngành bán lẻ, giáo dục, nhà hàng, dịch vụ tiêu dùng, hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) và chăm sóc sức khỏe như Entobel, Rever, LiveSpo, Tập đoàn HSV , Mutosi , Marou, Gene Solutions và F88.

Với cách tiếp cận Đầu tư vốn cổ phần tư nhân mang tính chuyển hóa và mô hình Đầu tư lấy tầm nhìn làm định hướng, MEF IV hướng đến thực hiện cam kết đồng hành cùng các công ty hiện thực hóa tầm nhìn của họ.

https://baodautu.vn/mekong-capital-va-husk-ky-khoan-dau-tu-5-trieu-usd-thuc-day-nong-nghiep-tai-tao-d215224.html