Điện gió trên những cánh diều, công nghệ mới cho các nước nghèo

Hệ thống năng lượng gió trên không (AWES) là một công nghệ mới nhằm khai thác năng lượng sức gió. Tháp trụ và cánh quạt nặng, đắt tiền của một tuabin gió thông thường được thay thế bằng dây buộc neo nhẹ, phương tiện bay (diều khổng lồ linh hoạt hoặc máy bay không người lái lớn).

Có hai sơ đồ điện gió sử dụng phương tiện bay, sơ đồ thứ nhất là trạm nguồn mặt đất, AWES sử dụng lực căng của dây buộc để quay rotor một máy phát điện trên mặt đất.

Sơ đồ thứ 2 là trạm nguồn bay, năng lượng điện được sinh ra từ các tuabin gió trên phương tiện bay và truyền xuống trang thiết bị khai thác sử dụng điện mặt đất bằng dây dẫn.

Trong cả hai trường hợp, AWES đều có chi phí lắp đặt và vật liệu thấp, hoạt động trên độ cao lớn (trên 500m) nơi gió mạnh hơn và ít bị gián đoạn.

Những hệ thống phát điện này có ảnh hưởng đến tầm quan sát thấp, vận chuyển tương đối dễ dàng, rất phù hợp cho việc sản xuất năng lượng ở những khu vực xa xôi và và địa hình.

Nghiên cứu viên Gonzalo Sánchez Arriaga và đồng nghiệp Ramón y Cajal tại khoa Kỹ thuật sinh học và hàng không vũ trụ tại UC3M Đại học Madrid mang tên Charles III (University Charles III of Madrid) giải thích: AWES là những công nghệ điện gió đột phá, hoạt động ở độ cao lớn và tạo ra năng lượng điện với hiệu suất cao.

Những công nghệ này tích hợp các nguyên tắc của những ngành khoa học được biết rõ là ngành kỹ thuật điện và hàng không dân dụng. Bao gồm như thiết kế máy điện, aeroelasticity (sự kết hợp và tương tác giữa khí động học và các cấu trúc phi chuẩn) và điều khiển học, với các ngành mới và phi truyền thống như máy bay không người lái và động lực tether (dây neo).

Trong khuôn khổ công trình khoa học, các nhà nghiên cứu UC3M trình bày mô phỏng hệ thống điện gió bay mới cho AWES trong một bài báo khoa học được xuất bản gần đây trong tạp chí Mô hình toán học ứng dụng (Applied Mathematical Modelling).

“Chương trình mô phỏng có thể được sử dụng để nghiên cứu hoạt động của AWES, tối ưu hóa thiết kế và xác định các quỹ đạo bay để tối đa hóa năng lượng điện gió”, ông Ricardo Borobia Moreno, kỹ sư hàng không vũ trụ thuộc Lĩnh vực Cơ khí Hàng không, Viện Công nghệ Hàng không Quốc gia Tây Ban Nha ( INTA) và đang làm luận án tiến sĩ trong khoa Kỹ thuật Sinh học và Hàng không vũ trụ tại trường UC3M.

Phần mềm mô phòng, thuộc sở hữu của UC3M, được đăng ký bản quyền và có thể được tải xuống và sử dụng miễn phí cho các nhóm khác nghiên cứu.

Cùng với chương trình mô phỏng, các nhà nghiên cứu phát triển một bộ trang bị thử nghiệm bay cho AWES. Hai cánh diều được lắp đặt một số dụng cụ và những dữ liệu then chốt như vị trí và tốc độ của diều, góc mở mũi diều và bán kính elip cánh diều, độ căng của dây, được ghi lại trong nhiều lần cho diều bay thử nghiệm.

Dữ liệu thử nghiệm sau đó được sử dụng để phát triển các phần mềm công cụ khác nhau, ví dụ như chương trình mô phỏng và một phần mềm công cụ ước tính các tham số khác nhau, đặc trưng cho trạng thái của diều tại mỗi thời điểm.

Việc chuẩn bị các cuộc thử nghiệm đòi hỏi đầu tư đáng kể về thời gian, công sức và nguồn lực, nhưng hệ thống thu hút được sự quan tâm từ một số lượng lớn sinh viên Trường UC3M.

Theo Gonzalo Sánchez Arriaga, ngoài việc nghiên cứu để phát triển công nghệ điện gió mới, dự án làm phong phú thêm các hoạt động giảng dạy, nhiều người trong số họ đã thực hiện các luận án tốt nghiệp đại học và thạc sĩ bằng công nghệ AWES.

Theo Baokhoahocdoisong (6/8/2019)

Thành phố bọt biển – giải pháp chống ngập cho nội đô

Chỉ một vài năm trở lại đây, Bằng Tường thuộc tỉnh Giang Tây Đông Nam Trung Quốc chuyển mình từ đô thị hay bị ngập lụt mỗi mùa mưa về thành một “thành phố bọt biển” kiểu mẫu.

Không giống nhiều người đam mê nhiếp ảnh khác, ông Yu – 63 tuổi, một cán bộ ngân hàng nghỉ hưu – luôn tỏ ra hứng thú với một chủ đề rất đời thường: Hệ thống thoát nước của thành phố.

“Trong quá khứ, mỗi khi mưa lớn xuất hiện, Bằng Tường ngập kín như biển. Có lần tôi còn chứng kiến một cây cầu bị đổ sập vì ngập lụt”, ông Yu chia sẻ.

Là vùng đất có núi bao quanh và một vài con sông lớn chảy qua, Bằng Tường thường xuyên phải hứng chịu cảnh ngập lụt đô thị trong mùa mưa.

Để xử lý vấn đề này, giới chức chính quyền địa phương đã quyết định xây dựng “thành phố bọt biển” nhằm giúp thấm hút lượng nước dư thừa thông qua hệ thống thoát nước được nâng cấp, hồ lọc, đất ẩm và gạch thấm.

Năm 2015, Bằng Tường được chọn là một trong 16 thành phố thí điểm trong dự án“bọt biển”. Giới chức địa phương ban đầu chỉ thành lập một khu vực thử nghiệm rộng 33 km2, trước khi áp dụng cho toàn thành phố.

Trung tâm triển lãm trưng bày dự án “thành phố bọt biển” tại Bằng Tường, Trung Quốc. Ảnh: Tân Hoa Xã

Tại thượng nguồn các sông chạy qua thành phố, chính quyền xây dựng thêm nhiều kênh đào để chuyển hướng dòng chảy của nước. Tại trung nguồn, họ đào hồ để hạn chế nước ngập lên cao đỉnh điểm và để trữ nước. Đến phần hạ nguồn, thành phố lắp đặt thêm nhiều trạm bơm để đẩy mạnh khả năng tháo nước.

“Thay vì chỉ đơn giản đào đường ống cho nước dư thừa chảy vào, chúng tôi cũng tập trung vào việc làm cho thành phố hoạt động giống như một miếng bọt biển”, Liu Min – Phó giám đốc tài nguyên thiên nhiên và phòng kế hoạch của Bằng Tường – cho hay.

Nhiều năm nỗ lực xây dựng một “thành phố bọt biển” ở Bằng Tường đã được đền đáp. “Sau năm 2017, không hề xảy ra ngập lụt ở quận dễ bị ảnh hưởng Wanlongwan. Hơn 40.000 cư dân đã thoát khỏi cảnh lội nước mỗi khi mưa về”, ông Yu cho biết.

Xây dựng “thành phố bọt biển” tại Bằng Tường cũng mang lại cơ hội kinh doanh mới cho các lĩnh vực liên quan. Công ty TNHH công nghiệp Jiangxi Longfa được hưởng lợi từ dự án bằng cách sản xuất một loại gạch thấm mới.

“Những viên gạch này có thể hút nước như một miếng bọt biển”, Huang Yong, Tổng giám đốc công ty, cho biết, “Năm 2018, 70 triệu NDT gạch được bán ra. Chúng tôi từng là một công ty chuyên làm gốm sứ truyền thống. Dự án “thành phố bọt biển” đã đem đến cho chúng tôi những cơ hội kinh doanh mới”.

Theo Hanoimoi.vn (6/8/2018)

Úc phát triển phương pháp mới phân hủy hạt vi nhựa trong nước

Phương pháp mới để làm sạch nước khỏi các hạt vi nhựa bằng cách sử dụng các lò xo carbon pha tạp nitơ từ tính cỡ nhỏ (magnetic N-doped nanocarbon springs) do các nhà khoa học Úc phát triển giúp phân hủy những hạt vi nhựa thành các hợp chất không gây hại.

Theo Matter, các nhà nghiên cứu Úc đã phát triển một phương pháp mới để làm sạch nước khỏi các hạt vi nhựa bằng cách sử dụng các lò xo carbon pha tạp nitơ từ tính cỡ nhỏ (magnetic N-doped nanocarbon springs).

Giáo sư Shaobin Wang tại Đại học Adelaide giải thích rằng trong nước một hạt vi nhựa có khả năng hấp thụ các chất ô nhiễm hữu cơ và kim loại.

Hạt vi nhựa gây ô nhiễm vi mô trong các hệ thủy sản đã tới mức đáng báo động trên quy mô toàn cầu – Ảnh: picture alliance

Sau khi hấp thụ thì những hạt nhựa có thể giải phóng các hợp chất này vào các sinh vật dưới nước, khiến chúng tích tụ trong suốt chuỗi thức ăn. Các lò xo nano carbon của các nhà khoa học đủ mạnh và ổn định để phân hủy hạt vi nhựa thành hợp chất không gây hại.

Các hạt vi nhựa thường thâm nhập vào nước theo hai cách. Ở dạng hạt và bột, hạt vi nhựa ban đầu được thêm vào mỹ phẩm, hóa chất gia dụng, sản phẩm vệ sinh, được sử dụng trong sản xuất vải, lốp ô tô.

Các hạt vi nhựa nhỏ đến mức chúng không thể được lọc trong quá trình lọc nước công nghiệp. Nhựa thứ cấp được hình thành khi các vật phẩm lớn như chai và túi nhựa, bị phân hủy thành các hạt nhỏ dưới tác động của ánh sáng mặt trời, muối và cát.

Các nhà nghiên cứu Úc đã tìm được cách phân hủy hạt vi nhựa. Nhựa bao gồm các phân tử hóa học nhỏ lặp đi lặp lại được xếp thành chuỗi dài – polymer.

Các gốc oxy hóa cao (highly oxidizing radicals) có thể phá vỡ chuỗi dài thành các mảnh nhỏ có thể hòa tan trong nước. Tuy nhiên, trong quá trình này nếu sử dụng các kim loại nặng như sắt hoặc cobal, rất nguy hiểm.

Để khắc phục vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một giải pháp thân thiện với môi trường hơn dưới dạng những dây lò xo nano carbon có bổ sung thêm nitơ (magnetic N-doped nanocarbon springs).

Những ống xoắn như vậy đã giúp phân hủy một phần đáng kể của hạt vi nhựa trong vòng 8 giờ, trong khi vẫn ổn định trong điều kiện oxy hóa khắc nghiệt. Dạng xoắn ốc tăng sức mạnh và tăng diện tích bề mặt phản ứng.

Bằng cách đưa một lượng nhỏ mangan vào ống nano, các nhà nghiên cứu đã có thể truyền những đặc tính từ tính cho ống nano. Trong tương lai, điều này sẽ giúp dễ dàng thu thập các ống nano từ dòng nước thải để tái sử dụng.

Do các hạt vi nhựa khác nhau về thành phần hóa học, những phát triển tiếp theo sẽ tập trung vào việc làm cho các lò xo nano mang tính vạn năng hơn. Các nhà khoa học cho biết thêm rằng những sản phẩm phụ từ quá trình oxy hóa nhựa có thể là nguồn năng lượng cho vi sinh vật.

Giáo sư Shaobin Wang kết luận rằng nếu các nhà khoa học tìm ra cách sử dụng nhựa gây ô nhiễm để làm thức ăn cho tảo thì đây sẽ là một chiến thắng vang dội của công nghệ sinh học trong việc giải quyết các vấn đề môi trường,

Theo Motthegioi.vn (3/8/2019)

Tạo ra điện từ hỗn hợp nước thải và nước biển

Các nhà nghiên cứu tại Stanford vừa phát triển thành công công nghệ thu thập năng lượng tái tạo tại vùng ven biển, nơi giao giữa nước mặn và nước ngọt.

Thứ điện đặc biệt này được gọi là năng lượng xanh biển – blue energy, đây cũng là tên gọi chung cho mọi loại điện có quá trình sản xuất liên quan tới biển. Đặc biệt hơn nữa, công nghệ mới đủ rẻ để áp dụng được ngay, đủ bền vững để tính tới chuyện lâu dài.

Thứ điện đặc biệt này được gọi là năng lượng xanh biển – blue energy.

Trong báo cáo nghiên cứu mới, được đăng tải trên trang ACS Omega thuộc Hiệp hội Hóa học Hoa Kỳ, các nhà khoa học mô tả một thiết bị pin tân tiến, cho phép những nhà máy xử lý nước thải dọc bờ biển có thể tự tạo năng lượng để vận hành, không cần móc nối với lưới điện quốc gia.

“Năng lượng xanh biển – blue energy là một nguồn năng lượng tái tạo dồi dào và chưa ai khai phá”, đồng tác giả nghiên cứu, Kristian Dubrawski nói. “Pin của chúng tôi là một bước tiến mới trong công nghệ lưu trữ năng lượng không cần màng bọc, không cần cơ chế vận hành vật lý hay một nguồn năng lượng đầu vào”.

Dubrawski làm việc cùng đồng tác giả nghiên cứu Craig Criddle, hiện là giáo sư ngành kỹ thuật môi trường, nổi tiếng với với những dự án tối ưu hóa công nghệ năng lượng; chính Criddle là người đưa sáng kiến ứng dụng hệ thống này vào các nhà máy xử lý nước thải bên bờ biển.

Còn ý tưởng về hệ thống pin sử dụng nước muối và nước ngọt tới từ hai nhà khoa học là Yi Cui và Mauro Pasta, hai người công tác trong lĩnh vực khoa học vật chất và kỹ thuật.

Nhà khoa học Yu Cui (trái) và Craig Criddle (phải).

Trong bài thử nghiệm, đội ngũ nghiên cứu quan sát kỹ càng khả năng tạo năng lượng từ tổ hợp giữa nước thải tới từ Nhà máy Quản lý chất lượng nước khu vực Palo Alto và nước biển lấy từ Vịnh Bán Nguyệt gần đó. Sau hơn 180 vòng sạc và xả, pin vẫn giữ được 97% hiệu năng.

Có thể lắp đặt công nghệ này tại bất cứ nơi nào có sự hiện diện của cả nước ngọt và nước mặn, nhưng việc thử nghiệm tại nhà máy xử lý nước thải quả là một quyết định sáng suốt, cung cấp một case study đầy giá trị. Nhà máy xử lý nước thải vốn ngốn nhiều năng lượng, chưa kể tới những hệ lụy có thể có mỗi khi mất điện.

Khi tặng cho những nhà máy xử lý nước ven biển một hệ thống cung cấp năng lượng khép kín, ta sẽ có một mũi tên trúng nhiều đích.

Nhà máy xử lý nước thải tại Los Angeles, nơi lý tưởng để áp dụng công nghệ mới.

Mỗi mét khối nước ngọt trộn với nước biển tạo ra khoảng 0,65 kilowat giờ điện, đủ cho 30 phút vận hành một căn nhà thông thường tại Mỹ. Trên lý thuyết, nếu áp dụng công nghệ mới với quy mô toàn cầu, lượng năng lượng có được từ các nhà máy xử lý nước thải ven biển sẽ đạt 18 gigawat, đủ để vận hành 1.700 căn nhà trong vòng một năm.

Nhóm nghiên cứu tại Stanford không phải nơi đầu tiên thành công trong sứ mệnh thu thập năng lượng xanh biển, điểm đáng chú ý là đây: họ ứng dụng công nghệ điện hóa mà không cần áp lực hay màng chắn. Khi tăng quy mô hệ thống đang được nghiên cứu này, ta vẫn sẽ thấy một công nghệ đơn giản, linh hoạt và không quá tốn kém.

Nhà máy xử lý nước thải tại Los Angeles, nơi lý tưởng để áp dụng công nghệ mới.

Đầu tiên, natri và clorua từ điện cực tìm được vào tới dung dịch, tạo ra dòng điện giữa hai điện cực. Sau đó, một lượng nước thải trộn lẫn nước biển sẽ đi vào điện cực, “sạc” thêm natri và clorua rồi đảo chiều dòng điện.

Ta có thể thu thập năng lượng khi tiến hành xả lượng nước thải trộn nước biển, không cần cấp thêm năng lượng cho hệ thống và cũng không cần sạc lại pin. Điều này có nghĩa hệ thống pin liên tục sạc và xả mà không cần năng lượng đầu vào.

Mỗi mét khối nước ngọt trộn với nước biển tạo ra khoảng 0,65 kilowat giờ điện, đủ cho 30 phút vận hành một căn nhà thông thường tại Mỹ.

Dù rằng những bài thử ban đầu cho thấy lượng năng lượng đầu ra vẫn khiêm tốn (khi tính tới sản lượng/diện tích điện cực), công nghệ vẫn có chỗ đứng khi ít ô nhiễm, đơn giản, tạo vòng lặp sạc-xả ổn định.

Các điện cực được cấu tạo từ hai loại vật liệu chính: xanh phổ – prussian blue, một thứ vật liệu được dùng nhiều trong thuốc nhuộm và thuốc giải độc, giá thành thấp hơn 1 USD/kg; thành phần còn lại là polypyrrole, một loại vật liệu thử nghiệm dùng trong chế tạo pin và một số thiết bị khác, giá thành mua sỉ chỉ dưới 3 USD.

Bên cạnh đó, hệ thống mới cũng không cần tới pin dự phòng, bởi lẽ hệ thống khá linh hoạt: những lớp phủ ngoài điện cực đảm bảo thiết bị không bị rỉ sét, bên cạnh đó không có cơ chế vận hành vật lý để phải lo lắng tra dầu mỡ hay bảo trì định kỳ. Thậm chí có thể chuyển lượng năng lượng thừa tới những nhà máy lân cận.

“Nhờ khoa học, ta có được một giải pháp tinh tế tuyệt vời cho một vấn đề vô cùng phức tạp”, nhà nghiên cứu Dubrawski nói. “Ta cần thử nghiệm ở quy mô lớn hơn, cho dù chưa thể ngay lập tức áp dụng công nghệ sản xuất năng lượng danh dương ở mức toàn cầu, nhưng đây vẫn là điểm xuất phát lý tưởng cho một công nghệ tiến bộ mới”.

Để xem khả năng của hệ thống pin mới tới được đâu, các nhà nghiên cứu đang tiến hành tăng quy mô, thử nghiệm xem một loạt pin sạc-xả cùng lúc sẽ hiệu quả tới mức nào.

Theo Trithuctre/moitruong.com.vn (2/8/2019)

Những phương thức kỳ lạ để tạo ra điện

Điện năng phần lớn được sản xuất bởi các máy phát điện tại các nhà máy điện, và các hình thức khác như trong pin, ắc quy, tế bào nhiên liệu hay từ năng lượng mặt trời… Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng đề xuất một số phương thức mới để tạo ra điện, các phương thức này nhìn chung rất khác biệt với những phương thức thông thường.

Đường sá

Các siêu đô thị như New York hoặc Tokyo thường xuyên phải hứng chịu sự nóng bức do nhựa đường hấp thu ánh nắng mặt trời sau đó phát nhiệt ra ngoài không khí với nhiệt độ có khi lên đến 45oC. Một công ty ở Đức đã phát triển một hệ thống tạm gọi là “năng lượng từ những con đường” có thể sử dụng lại nhiệt lượng dư thừa này bằng cách lắp đặt hệ thống ống nước phía dưới lớp nhựa đường. Nhiệt lượng từ mặt đường sẽ hâm nóng nước trong ống, sau đó lượng nước nóng này sẽ được sử dụng để làm quay turbin chạy máy phát điện hoặc sử dụng cho các mục đích khác.

Con người

Thân thể một người trung bình có thể tạo ra một nguồn năng lượng từ 60 đến 100 watt, tương đương với năng lượng của một bóng đèn dây tóc. Ước tính có khoảng 250.000 người đi qua nhà ga trung tâm ở Stockholm – Thụy Điển mỗi ngày, sản sinh ra nhiệt lượng đủ để làm tăng nhiệt độ từ 22 lên 25oC. Một công ty ở Thụy Điển đã phát triển một hệ thống năng lượng có thể hấp thu được nhiệt lượng của hành khách khi di chuyển qua nhà ga Stockholm. Nhiệt lượng này có thể hâm nóng một lượng nước nhất định, sau đó lượng nước nóng này có thể được sử dụng để cung cấp nhiệt năng cho khu văn phòng của nhà ga. Qua tính toán hệ thống này có thể đảm bảo được 30% lượng nhiệt cần thiết để sưởi ấm cho khu văn phòng trong những ngày mùa Đông.

Tàu hỏa

Sử dụng phanh cũng là một phương thức tạo ra điện. Một chiếc xe chạy chậm lại do đã chuyển động năng của nó thành nhiệt năng thông qua ma sát giữa hệ thống phanh với bánh xe. Trên một số loại xe điện hoặc xe bus hiện nay đã được trang bị một hệ thống phanh với cơ cấu chuyển động năng thu được thành điện năng để nạp vào bình acqui, tiếp tục sử dụng cho hoạt động của xe. Hiện nay, tàu lửa cũng đang được nghiên cứu triển khai một hệ thống tương tự. Thành phố Philadelphia, Mỹ đã triển khai một dự án tái sử dụng năng lượng từ hệ thống phanh của hệ thống tàu điện ngầm để cấp điện cho tàu điện hoặc thậm chí cung cấp điện cho lưới điện của thành phố. Thành phố Vacsava của Ba Lan cũng đã lắp đặt một hệ thống tương tự và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2013. Mặc dù năng lượng thu được là chưa nhiều nhưng theo ước tính của một số nhà nghiên cứu tại Ba Lan thì một xe điện thông thường có thể cung cấp năng lượng từ hệ thống phanh của mình cho 1 bóng đèn 60 watt sáng trong 1 tuần.

Quả chanh

Ngoài việc cung cấp vitamin cho sức khỏe của con người thì chanh, táo và các loại trái cây có chứa axít có thể hoạt động như một bình acquy mặc dù người ta phải cần đến 5.000 trái chanh để cấp đủ năng lượng cho một bóng đén 1,2 watt hoạt động. Bình acquy thực vật này hoạt động bằng cách cắm 2 thanh kim loại khác nhau vào trái chanh. Năng lượng thu được nhờ biến đổi hóa học xảy ra trên 2 thanh kim loại khi chúng bị nhúng vào môi trường axít. Phương thức này nhìn chung chỉ là nghiên cứu mà không có tính khả thi cao.

Phòng tập thể dục

Ở một số phong tập thể dục, điện năng đã được tạo ra bằng cách nối các thiết bị tập luyện có chuyển động như xe đạp, máy chạy bộ v…v với các máy phát điện mini để tạo ra điện. Một phòng tập thể dục ở Berlin, Đức đã lắp đặt một số bộ phận đặc biệt vào các thiết bị tạp luyện của mình, cho phép người tập sạc điện thoại hay máy nghe nhạc với điện năng do chính họ tạo ra khi vận động (chạy) trên thiết bị tập luyện. Thiết bị tập luyện thú vị này cũng đã xuất hiện ở Hồng Kông, Úc và Hoa Kỳ. Theo ước tính của nhà sản xuất thì một người có tốc độ chạy trung bình có thể tạp ra lượng điện khoảng 50 watt.

Vũ trường

Ở các vũ trường thì hệ thống âm thanh và ánh sáng là những thiết bị tiêu tốn nhiều điện nhất. Nhưng cũng chính vũ trường lại là nơi có thể tạo ra điện năng. Và nơi quan trọng nhất chính là sàn của vũ trường. Các nhà nghiên cứu đã thiết kế và lắp đặt một số lò xo đặc biệt dưới sàn của vũ trường, khi bị nén lại do tác động của những người tham gia nhảy trên sàn, các lò xo này sẽ sản sinh ra một lượng điện nhất định. Điện năng này sẽ được tồn trữ trong bình ắcquy và sau đó được sử dụng để cung cấp cho các thiết bị sử dụng điện trong vũ trường. Vũ trường Bar Surya ở Luân Đôn, Anh đã lắp đặt một hệ thống lò xo như đã mô tả ở trên, ông chủ của vũ trường này cho biết hệ thống trên có thể cung cấp đến 60 % lượng điện cần thiết cho hoạt động hàng ngày của vũ trường.

Mưa

Vài năm 2008, các nhà khoa học ở viện nghiên cứu CEA/Leti-Minatec (chuyên nghiên cứu về vi điện tử) tại Cộng hòa Pháp đã phát triển một hệ thống có thể thu được năng lượng từ các hạt mưa. Rung động do hạt mưa gây ra được chuyển đổi thành điện năng thông qua một bộ cảm biến. Theo số liệu thống kế của CEA/Leti-Minatec thì năng lượng trung bình của các hạt mưa trong một trận mưa có lượng mưa từ 1 đến 5 milimet có thể chuyển đổi thành điện năng với công suất 12 miliwatt. Phương thức này cũng chỉ có giá trị nghiên cứu mà ít có ứng dụng thực tiễn.

Cây rừng

Khi các nhà nghiên cứu của công ty MagCap Engineering tại Massachusetts, Mỹ đóng vài cây đinh có gắn dây dây điện vào thân cây và nối với đất thì họ đo điện được một dòng điện yếu từ thân cây do sự mất cân bằng về độ pH giữa thân cây và đất. Sau đó các nhà nghiên cứu tại đại học Washington đã lắp đặt thành công một mạch điện được cung cấp bởi các thân cây. Mặc dù lượng điện thu được là rất nhỏ nhưng các nhà nghiên cứu hy vọng rằng trong tương lai lượng điện thu được sẽ đủ để cung cấp cho các bộ càm biến không dây phục vụ cho việc phân tích các điều kiện về sinh thái hoặc phục vụ cho cảnh báo cháy rừng.

Chất thải của bò

Vào năm 2008, các nhà khoa học của Đại học Texas, Hoa Kỳ ước tính lượng chất thải của loài bò trên toàn thế giới có thể sản xuất ra khoảng 100 tỷ kilowatt giờ điện trong một năm, tương đương với 3% nhu cầu về điện của cả nước Mỹ. Nếu được phơi khô rồi đốt, lượng chất thải của bò có thể sản sinh năng lượng nhất định để chuyển hóa thành điện năng. Đốt chất thải của bò cũng sẽ phát thải CO2 nhưng ít hơn nhiều so với đốt than đá hoặc các loại nhiên liệu hóa thạch khác. Ngoài ra nếu chất thải của bò được đốt đi cũng giúp giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính nếu so với trường hợp lượng chất thải này nằm ngoài môi trường.

Theo Energy Savings (30/7/2019)

Giải pháp mới ngọt hóa nước biển

Một chiếc đĩa nhỏ làm từ giấy lọc siêu thấm nước với các ống nano carbon để hấp thụ ánh sáng Mặt Trời đã giúp loại bỏ muối khỏi nước biển.

Thiết bị trên vừa được các nhà khoa học đến từ Đại học Monash ở Melbourne, Australia công bố trên Tạp chí Năng lượng và Khoa học Môi trường (Energy & Environmental Science) của Mỹ, giúp loại bỏ gần 100% muối từ chất lỏng ban đầu.

Kỹ thuật này dựa trên phương pháp truyền thống là đun nóng nước cho đến khi bay hơi, để lại muối và các tạp chất khác. Thiết bị được làm từ loại vật liệu hấp thu nhiệt để sử dụng hoàn toàn năng lượng Mặt Trời trong suốt quá trình.

Bởi các lớp vật liệu hấp thu nhiệt thông thường bị muối bám vào, nên nhóm nghiên cứu đã dùng các ống nano carbon chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành nhiệt, giúp việc loại bỏ muối diễn ra ngay trong quá trình đun nước, tránh làm hỏng thiết bị.

Hệ thống sử dụng sợi bông có đường kính 1mm để vận chuyển nước mặn đến đĩa bay hơi, nơi nước tinh khiết được giữ lại và muối bị đẩy ra các cạnh.

Thiết bị có thể sản xuất từ 6 đến 8 lít nước sạch trên một mét vuông diện tích bề mặt mỗi ngày. Tuy nhiên, đây mới là bước đầu và nhóm sẽ tiếp tục cải tiến để tăng hiệu năng khử mặn nước biển của sản phẩm.

Ngoài ra, trong tương lai, nó còn có thể áp dụng để xử lý nước thải thành nước sinh hoạt nhằm giúp nhiều nơi trên thế giới đối phó với hiện tượng biến đổi khí hậu đang khiến tình hình thiếu nước trở nên gay gắt, theo New Atlas.

Theo Nghenhinvietnam.vn (29/7/2019)