Posts

Tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà máy điện mặt trời phát điện vận hành thương mại

Thời hạn để các chủ đầu tư điện mặt trời hưởng giá ưu đãi theo Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (giá FIT 2) không còn nhiều. Để các chủ đầu tư điện mặt trời có thể “cán đích” đúng tiến độ mong muốn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị trực thuộc đã hỗ trợ, tạo điều kiện tối đa cho các Nhà máy điện mặt trời bằng những giải pháp đồng bộ, quyết liệt.

Chủ động ban hành Quy trình thử nghiệm, công nhận Ngày vận hành thương mại (COD)

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư điện mặt trời trong việc đưa các nhà máy đi vào vận hành thương mại trước 31/12/2020 – thời hạn cuối để hưởng giá FIT 2 – Tập đoàn Điện lực Việt Nam vừa ban hành Quyết định 1010/QĐ-EVN ngày 10/7/2020 về Quy trình thử nghiệm và công nhận “Ngày vận hành thương mại” cho nhà máy điện gió và nhà máy điện mặt trời. Trong đó, quy định rõ các trình tự, thủ tục, các bước triển khai; trách nhiệm của từng đơn vị trong việc đăng ký thử nghiệm và công nhận ngày vận hành thương mại cho các nhà máy điện mặt trời.


EVN luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà máy điện mặt trời phát điện vận hành thương mại.

Theo Quyết định 1010/QĐ-EVN, để đăng ký thử nghiệm COD, đơn vị phát điện phải hoàn thành ghép nối SCADA của nhà máy điện trước ngày tiến hành thử nghiệm; không muộn hơn 20 ngày làm việc trước ngày tiến hành thử nghiệm công nhận COD, đơn vị phát điện có trách nhiệm gửi cấp điều độ có quyền điều khiển và Công ty Mua bán điện chương trình chạy thử nghiệm nhà máy điện; không muộn hơn 03 ngày làm việc trước ngày dự kiến bắt đầu chạy thử nghiệm, nghiệm thu, đơn vị phát điện đăng ký chính thức lịch chạy thử nghiệm, nghiệm thu với cấp điều độ có quyền điều khiển.

Ông Trần Đăng Khoa – Trưởng Ban Thị trường điện EVN cho biết, năm 2019, EVN cũng đã ban hành Quyết định số 578/QĐ-EVN ngày 10/5/2019 về Quy trình thử nghiệm và công nhận “Ngày vận hành thương mại” cho nhà máy điện gió và nhà máy điện mặt trời. Qua đó, quy trình đã được thực hiện thành công trong việc công nhận COD cho 86 nhà máy điện mặt trời đi vào vận hành trước ngày 30/6/2019 trong một thời gian ngắn đảm bảo an toàn và theo đúng quy định pháp luật, một sự kiện chưa từng có trong hệ thống điện Việt Nam. Tuy nhiên, Quyết định 578 gắn liền với Quyết định số 11/2017-QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam hiện đã hết hiệu lực kể từ thời điểm sau ngày 30/6/2019. Trong bối cảnh thời gian từ nay đến cuối năm 2020 không còn nhiều, EVN đã chủ động và sớm ban hành Quyết định số 1010 thay thế Quyết định 578 để các nhà máy có thể nắm rõ và triển khai các quy trình thử nghiệm và công nhận “Ngày vận hành thương mại”.

Cũng theo Quyết định này, trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đăng ký lịch chạy thử nghiệm, nghiệm thu, cấp điều độ có quyền điều khiển có trách nhiệm giải quyết và gửi phiếu đăng ký công tác thử nghiệm, nghiệm thu đã được giải quyết tới đơn vị phát điện. Cấp điều độ cũng có quyền thay đổi kế hoạch thử nghiệm để đảm bảo vận hành an toàn hệ thống điện quốc gia và phù hợp với các yêu cầu thử nghiệm, nhưng phải thông báo cho đơn vị phát điện…

Nội dung của Quy trình đã được thông tin cụ thể tới từng chủ đầu tư thông qua nhiều cuộc họp với các chủ đầu tư trong các năm 2019, 2020 với mục tiêu EVN sẽ phối hợp chặt chẽ với các chủ đầu tư, lên kế hoạch thử nghiệm hợp lý để phân bổ tối ưu thời gian và nguồn lực để đáp ứng tối đa các yêu cầu của các chủ đầu tư.

Song song với việc ban hành quy trình, EVN sẽ huy động nguồn lực, nhân lực tiến hành thực hiện thử nghiệm, công nhận COD từng phần hoặc toàn bộ nhà máy cho các chủ đầu tư. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả các hạng mục, chủ đầu đầu tư cần đăng ký thử nghiệm sớm để Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia chủ động bố trí thời gian, nhân lực bố trí thử nghiệm đóng điện lần đầu và thử nghiệm COD cho các nhà máy.

Sẵn sàng hỗ trợ chủ đầu tư 24/24

Ông Nguyễn Xuân Nguyên – Giám đốc Trung tâm Điều khiển Nhà máy điện mặt trời Solar Park 1,2,3,4 (Long An) đánh giá cao sự hỗ trợ của EVN trong thời gian qua.

Nhằm tạo điều kiện cho các chủ đầu tư, giảm thiểu các bước trung gian, EVN và các đơn vị như Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia, Công ty Mua bán điện… đã tích cực ứng dụng CNTT trong công tác triển khai các quy trình, thủ tục. Điển hình, EVN đã thực hiện tiếp nhận hồ sơ đăng kí COD của các chủ đầu tư thông qua website http://ppa.evn.com.vn. Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia cũng đưa vào vận hành Cổng dịch vụ trực tuyến phục vụ gửi hồ sơ đăng ký đóng điện lần đầu với các dự án năng lượng tái tạo. Các ứng dụng trên đều được các đơn vị thực hiện trên nền tảng số hóa, giảm thiểu tối đa các thủ tục cũng như thời gian đi lại cho các chủ đầu tư.

“Để hỗ trợ các nhà máy EVN đã lập nhiều group online sẵn sàng hỗ trợ 24/24 như group của Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia hay của Công ty Mua bán điện… rất hữu ích đối với các chủ đầu tư” – Ông Nguyễn Xuân Nguyên – Giám đốc Trung tâm Điều khiển Nhà máy điện mặt trời Solar Park 1,2,3,4 (Long An).

Không chỉ có vậy, các đơn vị trực thuộc EVN còn tạo các nhóm trao đổi qua ứng dụng Viber với các chủ đầu tư, sẵn sàng hỗ trợ, trả lời các câu hỏi, vướng mắc của chủ đầu tư 24/24 giờ.

Với các nhà máy đã đi vào vận hành, việc phân bổ công suất cũng được EVN/A0 đảm bảo tính công khai, minh bạch và công bằng; tận dụng tối đa khả năng tải của các đường dây, ưu tiên các nhà máy điện năng lượng tái tạo, nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại của các chủ đầu tư.

Những nỗ lực của EVN và các đơn vị trực thuộc trong quá trình suốt từ đầu năm 2019 đến nay đã được các chủ đầu tư đánh giá cao. Ông Nguyễn Xuân Nguyên – Giám đốc Trung tâm Điều khiển Nhà máy điện mặt trời Solar Park 1,2,3,4 (Long An) chia sẻ: Thời gian qua, Solar Park đã nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ EVN cũng như các đơn vị như Trung tâm Điều độ Hệ thống Điện Quốc gia, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện miền Nam, Công ty Mua bán điện, Tổng công ty Điện lực miền Nam trong việc đưa 2 Nhà máy Solar Park 1,2 đi vào vận hành thương mại từ tháng 6/2019. Hiện 2 nhà máy còn lại cũng đang nhận được sự hỗ trợ tích cực, để COD trong tháng 7/2020.

Ông Ngô Sơn Hải – Phó Tổng giám đốc EVN cho biết, từ nay đến cuối năm, còn khoảng 36 nhà máy điện sẽ đóng điện, đi vào vận hành thương mại. Tuy số lượng các nhà máy không nhiều nhưng sẽ tập trung đóng điện vào thời điểm cuối năm. Để quá trình thử nghiệm, đóng điện đưa vào vận hành được thuận lợi, EVN và các đơn vị trực thuộc bố trí nhân lực hỗ trợ tối đa các chủ đầu tư trong quá trình triển khai các quy trình, thủ tục.

Hải An
https://petrotimes.vn/tao-dieu-kien-thuan-loi-nhat-de-cac-nha-may-dien-mat-troi-phat-dien-van-hanh-thuong-mai-574470.html

Điện gió ngoài khơi – Năng lượng tương lai

Phần lớn công nghệ để thế giới đạt mục tiêu trung hòa carbon đều có triển vọng khá xa vời. Công nghệ sản xuất hydro “xanh”, công nghệ thu gom và lưu trữ carbon đều cần những khoản đầu tư nghiên cứu phát triển lớn và trợ cấp nhà nước trước khi các công nghệ này có thể đóng góp và các nguồn năng lượng toàn cầu.

Trong khi đó, năng lượng gió ngoài khơi đang sẵn sàng hơn cho thị trường tiêu thụ điện sạch và chuẩn bị “cất cánh”. Chuyên gia nghiên cứu năng lượng gió ngoài khơi Soren Larsen và đội ngũ của mình tại Wood Mackenzie đã xác định 5 lý do vì sao phát triển điện gió ngoài khơi trở thành trung tâm trong kế hoạch của các công ty năng lượng.

Thứ nhất là tốc độ cải tiến công nghệ theo cấp số nhân trong lĩnh vực điện gió. Kích thước các trạm điện gió ngày càng lớn hơn, chi phí lắp đặt trung bình cho mỗi MW điện gió và cho sản xuất điện 1 MWh giảm dần. Công suất trung bình của tuabin gió đã tăng gấp đôi lên 8 MW trong vòng 5 năm và tiếp tục đạt những kỷ lục mới khi xuất hiện các tua bin công suất lên tới 14 – 15 MW.

Trong khi hiệu suất sản sinh điện đối với điện gió trên bờ đạt trung bình trên 30% ở nhiều khu vực thì điện gió ngoài khơi đạt hiệu suất trung bình 41%, thậm chí có nhiều dự án đạt hiệu suất tới 50%. Phạm vi phát triển các dự án điện gió ngoài khơi đã được mở rộng đến các vùng nước sâu để bắt tốc độ gió lớn hơn. Chân đế của trạm điện gió đã đạt tới độ sâu 50 m nước trong khi công nghệ xây dựng các trạm điện gió nổi đang mở ra những cơ hội mới cho phát triển điện gió ngoài khơi ở các vùng nước rất sâu.

Thứ hai là chính sách hỗ trợ. Chính phủ các nước châu u đã bắt đầu định hướng phát triển điện gió là một phần quan trọng trong mục tiêu cắt giảm khí thải nhà kính từ hơn một thập kỷ nay. Anh, Đức, Đan Mạch là các quốc gia dẫn đầu, trong khi Trung Quốc cũng nhanh chóng đón đầu xu thế này.

Điện năng được tính theo giá feed (Feed-in Tariffs) đảm bảo cho các nhà phát triển mức giá cố định trong vòng 20 năm. Với chi phí sản xuất giảm và sự quan tâm đầu tư ngày càng tăng, các điều khoản hỗ trợ đang thay đổi theo hướng thị trường hơn. Các quy trình đấu thầu điện gió được thực hiện nhanh hơn với giá thành cạnh tranh hơn giúp giảm dần các khoản trợ cấp đối với loại hình này. Theo Wood Mackenzie, một số dự án điện gió ngoài khơi có thể hòa trong vòng 5 năm tại một số thị trường mà không cần trợ cấp.

Thứ ba, điện gió ngoài khơi có tiềm năng tăng trưởng không giới hạn. Điện gió ngoài khơi có thể hoạt động ở bất cứ nơi nào có nguồn tài nguyên gió đủ cho thị trường tiêu thụ. Hiện nay, đã có 28 GW điện gió ngoài khơi được lắp đặt (bằng khoảng 1/3 tổng công suất phát điện quy đổi tại Vương quốc Anh) và trải rộng ở nhiều quốc gia từ bờ Biển Bắc đến Trung Quốc. Mỹ, Ba Lan, Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã cam kết phát triển điện gió ngoài khơi.

Liên doanh OREAC giữa các tập đoàn năng lượng Orsted và Equinor dự kiến đạt công suất thiết kế 1.400 GW vào năm 2050 (bằng tổng công suất phát điện của Mỹ), đủ để cung cấp 10% nhu cầu điện toàn cầu. Wood Mackenzie dự báo, công suất điện gió ngoài khơi sẽ tăng 8 lần lên 219 GW vào năm 2035.

Để tăng trưởng bền vững, lĩnh vực này đòi hỏi đầu tư vốn lớn. Nhóm tác giả kỳ vọng tổng mức đầu tư cho lĩnh vực này sẽ tăng từ 20 tỷ USD (2020) lên 60 tỷ USD (2025) và duy trì đà tăng. Mục tiêu này là rất khả thi khi hơn 80% công suất lắp đặt mới đã được các chính phủ phê duyệt hỗ trợ đến năm 2024. Điều đó tương phản với lĩnh vực thượng nguồn của ngành công nghiệp dầu khí, nơi mà chi tiêu và đầu tư giảm trong điều kiện giá dầu thấp hiện nay. Đầu tư vào lĩnh vực điện gió ngoài khơi chỉ chiếm 10% trong lĩnh vực thượng nguồn ngoài khơi hiện nay, song có thể chiếm tỷ trọng cao hơn vào cuối thập kỷ tới.

Thứ tư là yếu tố kinh tế. Lợi nhuận trong lĩnh vực năng lượng tại châu Âu có thể tăng đáng kể bằng các công cụ tài chính. Tuy mức lợi nhuận khiêm tốn nhưng ưu điểm lớn mà các dự án điện gió ngoài khơi mang lại là dòng tiền ổn định, lâu dài. Tài chính dự án hiệu quả và quản lý danh mục đầu tư chủ động có thể giúp các chủ đầu tư tăng đáng kể lợi nhuận.

Thứ năm là nguồn vốn dồi dào. Thị trường vốn cho lĩnh vực này vốn bị chi phối bởi những người chơi tiên phong như Orsted đang thay đổi khi có sự tham gia của các nhà đầu tư mới, bao gồm cả các nhà đầu tư tài chính an toàn. Các công ty dầu khí hàng đầu thế giới cũng đang tăng đầu tư vào lĩnh vực này. Lĩnh vực điện gió ngoài khơi đang thu hút đầu tư dài hạn ngày càng tăng trong xu hướng toàn cầu về sản xuất phát thải carbon thấp hoặc không phát thải carbon. Bên cạnh dòng vốn, các công ty dầu khí hàng đầu cũng mang đến kỹ năng quản trị dự án và sự tích hợp năng lượng tái tạo với năng lượng từ khí thiên nhiên và thương mại năng lượng toàn cầu.

Các tập đoàn dầu khí như Equinor, Total và Shell đã tiên phong trong lĩnh vực phát triển điện gió ngoài khơi kéo theo những người chơi khác trên thị trường.

Phạm TT/Theo: Wood Mackenzie
https://petrotimes.vn/dien-gio-ngoai-khoi-nang-luong-tuong-lai-573447.html

Sáu nước châu Âu kêu gọi EU thúc đẩy phát triển hydro sạch

Uỷ ban châu Âu đã cam kết sử dụng quỹ phục hồi kinh tế do tác động của dịch coronavirus 750 tỷ euro vào việc thúc đẩy nhiên liệu hydro – loại nhiên liệu có thể được sản xuất từ năng lượng tái tạo và có thể thay thế nhiên liệu hoá thạch trong quá trình giảm thiểu chất thải công nghiệp.

Mới đây, Bộ trưởng Năng lượng của các nước Đức, Áo, Pháp, Hà Lan, Bỉ và Luxembourg cho biết khoản tài trợ này phải được luật pháp EU ủng hộ.

Trong một tuyên bố chung, Bộ trưởng Năng lượng của 6 nước kêu gọi Uỷ ban EU lên kế hoạch kịp thời dựa trên quy định của pháp luật nhằm quản lý hydro một cách linh hoạt, phù hợp với mục đích và khuyến khích thị trường sử dụng nhiên liệu hydro trong những năm tới.

Sau đó, các nước thành viên trong khối EU sẽ bàn luận về đề xuất dùng Quỹ phục hồi kinh tế vào việc hỗ trợ nhiên liệu hydro của 6 Bộ trưởng.

Sáu Bộ trưởng kêu gọi các nước trong khối EU vạch ra mục tiêu sản xuất hydro đến năm 2030 và khuyến khích người dân sử dụng các nguồn nhiên liệu sạch.

EU tiêu thụ khoảng 8 triệu tấn hydro mỗi năm, phần lớn được sản xuất từ khí hoá thạch nhiều hơn từ năng lượng tái tạo.

Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Hà Lan Eric Wiebes cho biết: “Trong nhiều ngành như công nghiệp và vận tải, người ta vẫn chưa sử dụng hydro được sản xuất từ năng lượng tái tạo. Để điều đó có thể xảy ra, chúng ta cần tăng quy mô và giảm giá thành của hydro sạch”.

Uỷ ban EU cần đánh giá lại khả năng tái sử dụng hệ thống cơ sở hạ tầng khí đốt của EU trong việc sản xuất hydro, kể cả việc sửa đổi và cải cách luật năng lượng.

Uỷ ban EU dự định sẽ công bố bản kế hoạch thúc đẩy phát triển hydro vào cuối tháng này. Trước đó, Đức và Hà Lan đã công bố xong các bản kế hoạch, chiến lược thúc đẩy hydro mang tầm cỡ quốc gia. Tuần trước, Đức đã cam kết dùng 9 tỷ euro từ gói phục hồi kinh tế của nước này để tăng quy mô sản xuất hydro sạch.

Yến Phạm – Khánh Ly

https://petrotimes.vn/sau-nuoc-chau-au-keu-goi-eu-thuc-day-phat-trien-hydro-sach-572783.html

Tiêu chuẩn cho nhiên liệu: Hướng tới tương lai sạch hơn

Khoa học đã chứng minh nhiên liệu hóa thạch là loại tài nguyên không tái tạo bởi trái đất phải mất hàng triệu năm để tạo ra chúng. Hiện nay, sản lượng tiêu thụ các loại nhiên liệu này đang diễn ra nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ chúng được tái tạo.

Chính vì lí do đó, thế giới đang hướng tới sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, một trong những cách giúp giải quyết vấn đề tăng nhu cầu năng lượng.

Câu trả lời có lẽ nằm ở phát minh những chiếc “xe sạch”. Đây có thể được định nghĩa là các phương tiện được di chuyển bằng điện sử dụng pin hoặc pin nhiên liệu thay vì chạy bằng nhiên liệu thông thường (xăng, dầu). Ý tưởng về ô tô điện đã được đưa ra trong nhiều năm, nhưng chỉ đến bây giờ, dưới tác động của biến đổi khí hậu, kế hoạch phát triển ô tô điện đã được triển khai để biến chúng thành một triển vọng thương mại khả thi trong tương lai.

Số liệu hàng tháng được công bố bởi Hiệp hội các nhà sản xuất và thương mại động cơ cho thấy doanh số bán xe điện ở Anh đã tăng đáng kể trong vài năm qua. Trong khi chỉ khoảng 500 chiếc xe điện được đăng ký mỗi tháng trong nửa đầu năm 2014, thì hiện tại con số này đã tăng lên mức trung bình 5000 xe mỗi tháng trong năm 2018.

Tuy nhiên, trên thực tế việc sản xuất, tiêu thụ ô tô điện còn gặp nhiều thách thức, khó khăn đối với cả nhà sản xuất và người tiêu dùng trước khi chúng được coi như phương tiện chính. Vấn đề mấu chốt nằm ở việc sản xuất pin nhiên liệu hydro cho xe điện. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để sản xuất pin nhiên liệu cho xe điện vừa đảm bảo hiệu suất xe vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng, đặc biệt chú trọng đến tính tiết kiệm nhiên liệu? Các Tiêu chuẩn Quốc tế về nhiên liệu sạch sẽ giúp đỡ cho quy trình sản xuất pin nhiên liệu cho xe điện như thế nào.

Không giống như bình xăng, dung lượng của pin thay đổi theo nhiệt độ môi trường và suy giảm theo thời gian. Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa việc cung cấp điện cho xe chạy bằng pin thông thường và xe chạy bằng pin nhiên liệu hydro – loại điện pin có lượng năng lượng điện hữu hạn. Trong trường hợp xe điện sử dụng nhiên liệu pin thông thường, thách thức đặt ra nếu đó là loại xe vận tải nâng được, khi nâng hàng hóa sẽ phải tiêu thụ một lượng điện lớn.

Tuy nhiên, với một chiếc xe chạy bằng pin nhiên liệu hydro, phương tiện vận tải có thể hoạt động với công suất 100% cho đến giọt nhiên liệu cuối cùng. Bởi vì pin thông thường chỉ lưu trữ một lượng năng lượng nhất định, nhưng với pin nhiên liệu hydro, phạm vi này cao hơn đáng kể, pin nhiêu liệu có thể liên tục sản sinh ra điện chừng nào nguyên liệu oxy và hydro vẫn còn.

Điều này một phần là do chiếc xe chạy bằng pin nhiên liệu hydro ít bị ảnh hưởng bởi thời tiết môi trường, với thời gian nạp nhiên liệu ngắn hơn từ ba đến năm phút. Ô tô chạy bằng pin nhiên liệu sử dụng hydro làm nhiên liệu có thể đạt được hiệu suất trung bình cao hơn chu kỳ nhiên liệu (tốt cho bánh xe) so với động cơ đốt trong sử dụng nhiên liệu sinh học như dầu diesel sinh học. Thật vậy, ưu điểm lớn nhất của một chiếc xe chạy bằng pin nhiên liệu hydro là nó chỉ tạo ra nước và không khí- nguồn nhiên liệu sạch, không gây hại cho môi trường.

Một số nghiên cứu cho rằng sẽ rất dễ dàng để tiếp cận thị trường với những chiếc xe chạy bằng pin thông thường, nhưng việc thay thế ô tô chạy xăng bằng các giải pháp chạy bằng pin dường như không đơn giản như ý tưởng. Phễu năng lượng tái tạo trực tiếp như gió hoặc mặt trời, hay thậm chí hạt nhân tiếp nhiên liệu vào xe hơi khó có thể hoạt động được vì những nguồn năng lượng này ở rất xa chiếc xe. Nhưng việc sử dụng khí hydro làm pin nhiên liệu, điện có thể được triển khai dùng tại các cửa hàng đã được lắp đặt trạm tiếp nhiên liệu.


Một chiếc xe điện cắm điện tiếp nhiên liệu tại trạm sạc bên đường M40 ở Oxfordshire, Vương quốc Anh.

Vậy làm thế nào để các tiêu chuẩn quốc tế có thể hỗ trợ vấn đề này. Nhìn chung, trở ngại chính của việc đưa ra tiêu chuẩn hóa quốc tế là sự hài hòa giữa các nhà sản xuất. Sau khi các phương tiện chạy bằng pin, một số quốc gia đang chuyển trọng tâm sang ô tô sử dụng công nghệ pin nhiên liệu hydro. Thị trường này đang phát triển nhanh chóng chính vì thế việc hài hòa các Tiêu chuẩn Quốc tế đã trở thành ưu tiên chính.

Các tiêu chuẩn cho nhiên liệu

Cụ thể, ISO 17268 bao gồm các thiết bị kết nối tiếp nhiên liệu trên mặt đất bằng khí hydro. Đầu nối tiếp nhiên liệu hydro được tiêu chuẩn hóa theo tiêu chuẩn ISO này cho các quốc gia có thị trường xe chạy bằng pin nhiên liệu. Điều này có nghĩa là người tiêu dùng có thể lấy hydro từ bất kỳ trạm pin nhiên liệu hydro nào ở các nước như Trung Quốc, Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, v.v.

Bên cạnh đó, ISO 23828 cũng liên quan đến các phương tiện chạy bằng pin nhiên liệu và được sử dụng như một phép đo tiêu thụ năng lượng cho các phương tiện chạy bằng nhiên liệu hydro nén. Tính tiết kiệm nhiên liệu được đo theo phương pháp này và đề cập trong Quy chuẩn kỹ thuật toàn cầu GTR15 quốc tế. Tính tiết kiệm nhiên liệu được đo theo cách này sẽ được cơ quan quản lý, chính phủ sử dụng để thẩm định phương tiện và các nhà sản xuất thực hiện phương pháp này như một chỉ số để cải thiện hiệu quả của loại phương tiện.

Hiện nay ISO 23274-1 cho phép đo mức tiêu thụ nhiên liệu mà không bị ảnh hưởng bởi mức độ sai lệch của mức độ nghiêm trọng của pin khi bắt đầu từ trạng thái sạc khác nhau. Điều đó cũng có nghĩa là trạng thái của điện tích có thể được kiểm tra theo chu kỳ, tải và nhiệt độ khác nhau.

Ủy ban kỹ thuật ISO/TC 197, được ủy nhiệm để đưa ra các tiêu chuẩn về công nghệ hydro, chủ trì bởi Andrei V. Tchouvelev, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về quy định, quy tắc và tiêu chuẩn về an toàn hydro. Ủy ban của ông không trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến ô tô, nhưng đã tạo ra một bộ tiêu chuẩn nhiên liệu, do đó, tất cả mọi thứ liên quan đến giao diện giữa bộ phân phối trạm nhiên liệu và xe chạy bằng nhiên liệu hydro đều nằm trong phần này. Có những yêu cầu chung và yêu cầu cụ thể hơn liên quan đến các bộ phận như bộ phân phối, máy nén, van, phụ kiện và ống nhiên liệu.

Hà My
http://vietq.vn/tieu-chuan-cho-nhien-lieu–huong-toi-mot-tuong-lai-sach-hon-d175145.html

Tiết kiệm năng lượng tại tòa nhà cao tầng: Khắc phục 3 điểm yếu

Tại Việt Nam, năng lượng tiêu thụ của các tòa nhà cao tầng như khách sạn, văn phòng, trung tâm thương mại… chiếm tỷ trọng 35-40% tổng năng lượng tiêu thụ. Nhưng có tới 90% tòa nhà không tích hợp tính hiệu quả sử dụng năng lượng trong thiết kế và vận hành.

Theo TS Nguyễn Mạnh Hiến (Hiệp hội Năng lượng Việt Nam), nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là chưa có sự quan tâm đầu tư công nghệ trong hệ thống chiếu sáng, thông gió, làm mát, sưởi ấm, chưa sử dụng vật liệu cách nhiệt tiết kiệm năng lượng. Đây là một sự lãng phí rất lớn, đặc biệt khi Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng xây dựng cao, tổng diện tích sàn của các công trình thương mại và nhà ở cao tầng tăng 6-7%/năm.

Để tiết kiệm năng lượng tại các công trình nhà cao tầng, TS Nguyễn Mạnh Hiến cho rằng, có hai giải pháp gồm công nghệ và thiết bị.

Về công nghệ, thứ nhất có thể lắp đặt cửa sổ các tòa nhà bằng kính năng lượng thấp để giảm truyền nhiệt từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong tòa nhà, hoặc kính khống chế ánh nắng, phản xạ hầu hết bức xạ mặt trời. Loại kính này giúp tiết kiệm được 5% năng lượng; thứ hai là sử dụng phim cách ly khống chế cho ánh nắng đi qua, phản xạ lại các tia cực tím (UV), ánh sáng chói và hơi nóng; thứ ba là sử dụng sơn phản xạ nhiệt để giúp cải thiện cách nhiệt của các tòa nhà theo hướng thân thiện với môi trường. Loại sơn này có thể phản xạ tới 80% bức xạ mặt trời, nếu sơn lên mái hoặc các bề mặt của tòa nhà thì chúng sẽ phản xạ nhiệt mặt trời và giữ mát cho ngôi nhà.

Về thiết bị, có thể sử dụng máy biến áp hiệu quả năng lượng với lõi thép silic được sử dụng cho lưới điện phân phối nhằm giảm tổn thất trong máy đến 50% so với máy biến áp thông thường. Cùng với đó, có thể dùng hệ thống quản lý thông minh tòa nhà (BMS) tiết kiệm 12% lượng điện tiêu thụ. Chiếu sáng bằng đèn LED T5 tiết kiệm điện năng khoảng 30-40% so với đèn huỳnh quang T8, T10. Bên cạnh đó, dùng cảm biến quang điện để điều khiển hệ thống chiếu sáng trong tòa nhà, tự động bật, tắt đèn khi có hoặc không có đối tượng chuyển động. Sử dụng thu hồi nhiệt từ các hệ thống thông gió và điều hòa không khí để tiết kiệm 5-20% điện năng. Đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời, tiết kiệm điện năng 70-85% so với sử dụng điện trở…

Tuy nhiên, để thực hiện triệt để được các giải pháp tiết kiệm năng lượng, theo TS Nguyễn Mạnh Hiến, cần khắc phục 3 điểm yếu: công nghệ, vốn và đặc biệt là sự tin tưởng của các nhà đầu tư vào giải pháp tiết kiệm năng lượng. Cần có cơ chế, chính sách cho lĩnh vực này để không chỉ tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động sử dụng năng lượng nói chung mà tại cả các công trình nhà cao tầng nói riêng.

Nguyễn Bách
https://petrotimes.vn/tiet-kiem-nang-luong-tai-toa-nha-cao-tang-khac-phuc-3-diem-yeu-571124.html

Nhà thông minh tạo ra năng lượng

Một công ty ở Bồ Đào Nha đã thiết kế những ngôi nhà luôn quay về phía mặt trời để hấp thu và tạo ra năng lượng. Lấy cảm hứng từ hoa hướng dương, kiến ​​trúc của ngôi nhà tích hợp sự đổi mới và bền vững đồng thời cũng thích ứng với nhu cầu của người sử dụng.

Theo nhóm nghiên cứu, ngôi nhà có thể tự sản xuất 25.000 kWh điện mỗi năm, gấp 5 lần lượng điện một ngôi nhà cần sử dụng. Việc luôn quay về hướng mặt trời giúp nó sản xuất nhiều hơn 45% điện so với thông thường.


Ngôi nhà luôn quay về phía mặt trời để hấp thu và tạo ra năng lượng.

Ngôi nhà kết hợp 2 chuyển động. Chuyển động xoay của phần mái từ các tấm điện mặt trời và chuyển động xoay của chính ngôi nhà. Các tấm điện mặt trời có thể điều chỉnh phù hợp từng loại thời tiết. Chúng có thể tạo ra bóng râm hoặc mở ra để mặt trời chiếu vào làm ấm không gian bên trong. Sự kết hợp của hai chuyển động này tạo nên hiệu ứng hoa hướng dương. Năng lượng được tạo ra từ ngôi nhà có thể dùng để sạc xe ô tô điện.

Người sử dụng có thể mở cửa, bật đèn và điều chỉnh không gian bên trong như ý muốn. Ngôi nhà có thể dễ dàng di chuyển và phù hợp mọi nơi trên thế giới.

G.Minh
https://petrotimes.vn/nha-thong-minh-tao-ra-nang-luong-570443.html