Công nghệ blockchain ảnh hưởng như thế nào đến quyền sở hữu trí tuệ?

Theo chuyên gia, công nghệ blockchain có ảnh hưởng lớn và có thể làm thay đổi việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và tăng cường bảo vệ các quyền SHTT chưa đăng ký.

Các nền tảng chuỗi khối (Blockchain) tạo ra một chuỗi thông tin minh bạch và được cho là bất biến (tức là không thể thay đổi). Các đặc điểm này có thể tạo cơ hội cho các cơ quan sở hữu trí tuệ (SHTT) thay đổi việc đăng ký quyền SHTT bằng cách làm cho quy trình này trở nên có hiệu quả hơn về mặt chi phí, nhanh hơn, chính xác hơn và an toàn hơn. Hơn nữa, công nghệ này có thể tạo ra cơ hội để thay đổi có hiệu quả, cải thiện hiệu quả và tính minh bạch của thông tin quản lý quyền.

Khái niệm cơ bản của công nghệ blockchain là gì và tiềm năng của nó để tăng cường quy trình đăng ký nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp cũng như cung cấp bằng chứng sử dụng là gì? Đối với các quyền của kiểu dáng công nghiệp chưa đăng ký và bản quyền, làm thế nào công nghệ blockchain có thể cung cấp bằng chứng tốt hơn về việc tạo ra các kiểu dáng công nghiệp chưa đăng ký hoặc các tác phẩm mới có bản quyền?

Trong bài viết được đăng trên Cổng thông tin điện tử của WIP, Anne Rose, đồng trưởng nhóm Blockchain Mishcon de Reya (Anh) đã có những phân tích sâu về vấn đề này.

Những thông tin cơ bản về công nghệ blockchain

Nói một cách đơn giản, blockchain là dạng công nghệ sổ cái phân tán, tạo ra một bản ghi an toàn, minh bạch về mọi giao dịch và báo cáo các giao dịch đã được thực hiện cho mọi người trên nền tảng blockchain. Ví dụ, nếu tôi muốn chứng minh việc tạo ra bài viết này (tức là bản quyền của tôi) trên một blockchain, nó sẽ không lưu trữ bài viết thực tế này.

Đúng hơn, nó sẽ ghi lại một hàm băm (hash – một chuỗi ký tự và số duy nhất đã được mã hóa) nhận biết một cách duy nhất bài viết này, cho phép xác minh quyền tác giả và cung cấp bằng chứng rằng tác phẩm sáng tạo (tức là bài viết này) đã tồn tại ở một thời điểm nhất định, mặc dù không bộc lộ các nội dung thực tế của nó.

Sau đó, hàm băm này được liên kết với một hàm băm bất kỳ khác mà đã được tạo ra cùng lúc và chúng được ghi lại trong một “khối”. Sau đó, mỗi khối này được chuyển thành một hàm băm, với mỗi khối mới cũng tham chiếu đến hàm băm của khối trước đó, tạo ra một chuỗi các khối được kết nối bằng mật mã. Sửa đổi bất kỳ đối với khối cũ hơn sẽ phá vỡ chuỗi này vì việc băm khối đó sẽ không còn được tham chiếu một cách hợp lệ trong các khối tiếp theo.

Thực trạng đăng ký kiểu dáng công nghiệp hoặc nhãn hiệu

Để hiểu rõ hơn về khả năng ứng dụng tiềm năng và giá trị của công nghệ blockchain trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hãy để chúng tôi đăng ký một kiểu dáng công nghiệp hoặc nhãn hiệu ở Liên minh châu Âu (EU) và/hoặc Vương quốc Anh (UK). Trước khi đăng ký một kiểu dáng công nghiệp hoặc một nhãn hiệu, bạn cần quyết định nơi bạn muốn bảo hộ nó, ví dụ, ở Liên minh châu Âu và/hoặc Vương quốc Anh.

Thứ hai, bạn cần xem xét các vấn đề về khả năng đăng ký. Đối với một kiểu dáng công nghiệp, nó có (i) “mới”; và (ii) nó có đặc điểm riêng biệt hay không (tức là nó có tạo ra ấn tượng tổng thể khác cho người dùng hiểu biết so với một thiết kế bất kỳ mà công chúng đã biết trước đó) hay không? Đối với nhãn hiệu, bạn cần xem xem nhãn hiệu đó có khả năng phân biệt và có khả năng đăng ký hay không cũng như hàng hoá và/hoặc dịch vụ mang nó mà bạn muốn được bảo hộ. Bạn cũng sẽ muốn không có sự xung đột mọi quyền trước đó bằng cách thực hiện các tra cứu thích hợp.

Hiện nay, bạn có thể sử dụng ứng dụng Design View và TMView của Cơ quan Sở hữu trí tuệ Liên minh châu Âu (EUIPO) để kiểm tra tình trạng pháp lý của các kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu ở các Quốc gia Thành viên EU, nhưng cũng có thể cần thực hiện các tra cứu rộng hơn, bằng cách sử dụng Cơ sở dữ liệu nhãn hiệu và Cơ sở dữ liệu kiểu dáng công nghiệp toàn cầu của WIPO chẳng hạn, hoặc bằng cách thực hiện các tra cứu thương mại.

Cuối cùng, bạn cần nộp phí đăng ký và nộp đơn tại EUIPO và/hoặc Cơ quan SHTT Vương quốc Anh. Giả sử không có sự từ chối của Cơ quan đăng ký hoặc sự phản đối của bên thứ ba, kiểu dáng công nghiệp có thể được cấp trong một thời hạn kể từ ngày nộp đơn và nhãn hiệu có thể được đăng ký trong vòng bốn tháng kể từ ngày nộp đơn.


Ảnh minh họa

Đăng ký kiểu dáng công nghiệp hoặc nhãn hiệu và bằng chứng sử dụng

Công nghệ chuỗi khối có thể làm cho quy trình đăng ký kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu trở nên có hiệu quả hơn bằng cách cắt giảm một số quy trình và thủ tục của nó. Ví dụ, đối với một số đơn đăng ký nhãn hiệu, nếu không thể chứng minh được rằng nhãn hiệu đó vốn đã có tính phân biệt, thì cần phải chứng minh rằng nhãn hiệu đó đã có được tính phân biệt thông qua việc sử dụng.

Nếu cho rằng các thay đổi cần thiết đã được thực hiện trong luật để cho phép sử dụng thực tế một nhãn hiệu (ví dụ) cần được thêm vào và ghi vào sổ đăng ký chính thức, bằng chứng và thông tin về việc sử dụng thực tế một nhãn hiệu trong thương mại, cũng như tần suất sử dụng như vậy, có thể dễ dàng được chia sẻ và có sẵn cho mọi người xem trên một chuỗi khối. Nếu chủ sở hữu nhãn hiệu quyết định cung cấp thông tin đó một cách tự do, điều này sẽ tiết kiệm đáng kể thời gian và chi phí. Bằng cách thừa nhận tiềm năng của nó, WIPO đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc đối thoại trên blockchain để hiểu rõ hơn về việc sử dụng tiềm năng của nó trong bối cảnh IP.

Để thiết lập và duy trì độc quyền nhãn hiệu ở Liên minh châu Âu và Vương quốc Anh sau khi đăng ký, điều quan trọng là chủ sở hữu quyền phải chứng minh việc sử dụng thực sự nhãn hiệu đó trong một khoảng thời gian cụ thể. Khả năng cung cấp bằng chứng về việc tiếp tục hoặc sử dụng trước nhãn hiệu có thể là một quá trình tốn nhiều công sức liên quan đến việc thu thập các hồ sơ liên quan tốn thời gian và tốn kém để chứng minh việc sử dụng nhãn hiệu.

Để trợ giúp quá trình này, có thể triển khai hợp đồng thông minh trên blockchain (tức là mã điện toán mà tự thực hiện tự động việc xử lý đầu vào của nó khi được kích hoạt). Một hợp đồng như vậy có thể cung cấp bằng chứng về thời gian sử dụng nhãn hiệu lần đầu tiên hoặc sau đó, mà sau đó có thể được trình (nếu được chấp nhận) cho tòa án/Cơ quan đăng ký làm bằng chứng.

Vào tháng 5 năm 2020, WIPO ra mắt WIPO PROOF, dịch vụ kinh doanh kỹ thuật số mới cung cấp chứng nhận có chữ ký điện tử để chứng minh sự tồn tại của tệp kỹ thuật số vào một ngày và giờ cụ thể. Bằng cách loại bỏ sự phụ thuộc thông thường vào kế toán và các hồ sơ khác (có thể không đủ chứng minh việc sử dụng nhãn hiệu trên thực tế) và hồ sơ giấy được lưu trữ, chi phí chứng minh việc sử dụng có thể giảm đáng kể. Do đó, điều này có thể dẫn đến việc giảm nguy cơ thách thức đối với việc đăng ký nhãn hiệu.

Bockchain với quyền SHTT chưa đăng ký

Công nghệ chuỗi khối cũng có thể trợ giúp việc tạo sổ đăng ký các quyền SHTT chưa đăng ký như quyền đối với kiểu dáng công nghiệp và bản quyền chưa đăng ký vì nó có thể dễ dàng cung cấp bằng chứng về thời điểm tạo ra chúng, thông tin quản lý quyền (nếu có) và các yêu cầu pháp lý.

Tuy nhiên, cần phải cẩn thận suy nghĩ về việc thiết kế một nền tảng như vậy. Cơ quan đăng ký dựa trên blockchain, mà bất kỳ thành viên của công chúng đều có thể tải lên thông tin quản lý quyền dưới dạng mục nhập có dấu thời gian, sẽ chỉ là hữu ích nếu có sự tham gia của bên thứ ba có thẩm quyền và đáng tin cậy như cơ quan SHTT hoặc Tổ chức quản lý tập thể.

Theo cách khác, chủ sở hữu quyền cũng có thể là chủ tài khoản, nghĩa là Cơ quan đăng ký sẽ không chỉ ghi lại mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch quyền SHTT. Để phát huy hết tiềm năng của một hệ thống quản lý bản quyền dựa trên blockchain mới, số lượng lớn các chủ sở hữu quyền sẽ cần sử dụng nó và nó sẽ cần có một lượng đủ các tác phẩm có bản quyền.

Như Alexander Savelyev nêu, “tuy nhiên, khi số lượng người dùng tăng lên, hệ thống này thậm chí sẽ trở nên có giá trị hơn và có thể thu hút nhiều người dùng hơn”. Giả định rằng các phương pháp này có thể mở rộng, là đáng tin cậy và dễ áp dụng, có thể hình dung tình huống khai thác tác phẩm (ví dụ, bản ghi âm) có thể phụ thuộc vào việc đăng ký trong một sổ cái kỹ thuật số. Tuy nhiên, với những thách thức liên quan đến việc tạo ra một chủ sở hữu đăng ký dựa trên blockchain có quyền chưa đăng ký có thể cân nhắc việc bảo vệ tài sản trí tuệ của họ bằng cách sử dụng dịch vụ kinh doanh mới của WIPO, WIPO PROOF.

Một vấn đề khác cần xem xét là tính xác thực của thông tin trên blockchain. Blockchain là sổ cái chỉ được thêm vào (append-only ledger) – thông tin chỉ có thể được thay đổi trong các trường hợp ngoại lệ. Nếu thông tin về một tác phẩm có bản quyền được nhập không chính xác, người ta sẽ không thể làm gì nếu không có các quy trình và hệ thống quản trị và kỹ thuật thích hợp để khắc phục tình trạng này.

Một vấn đề khác cần xem xét là làm thế nào để quản lý một kịch bản mà bản quyền được chuyển ra bên ngoài mạng blockchain. Ví dụ, lấy một tình huống mà bạn có mã thông báo trực tuyến, đại diện cho một hàng hóa ngoài chuỗi (như bản quyền trong một cuốn sách). Trong bối cảnh này, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng bất kỳ điều gì xảy ra với hàng hóa ngoài chuỗi (tức là bản quyền trong cuốn sách) đều được ghi lại một cách chính xác trong sổ cái kỹ thuật số. Nếu không có sự phối hợp phù hợp của con người, thay vì làm giảm thông tin và tăng độ tin cậy, sự ra đời của một hệ thống dựa trên blockchain có thể có tác động ngược lại.

Cần có một bộ tiêu chuẩn

Bài viết của Anne Rose đã phân tích cách ngắn gọn một số lợi ích và hạn chế của việc sử dụng công nghệ blockchain trong việc đăng ký và cung cấp bằng chứng về việc sử dụng TSTT. Để công nghệ blockchain có thể phát triển trong việc quản lý quyền SHTT, cần phải có một bộ tiêu chuẩn được quốc tế đồng ý và ủng hộ. Điều quan trọng là các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách phải làm việc cùng nhau để giúp định hình việc triển khai công nghệ này liên quan đến việc đăng ký quyền SHTT.

Đối với các quyền SHTT chưa đăng ký, như bản quyền, chúng tôi đã xem xét một số lợi ích và hạn chế của việc sử dụng công nghệ blockchain. Có nhiều vấn đề từ góc độ pháp lý, kỹ thuật và kinh tế-xã hội cần xem xét. Chỉ bằng cách giải quyết các vấn đề này, blockchain sẽ đạt được mức độ đủ khả năng mở rộng, độ tin cậy và được thị trường chấp nhận để có tác động đến bản quyền trong môi trường kỹ thuật số.

Bài viết này xem xét các vấn đề từ quan điểm của luật pháp Anh và không có gì trong bài viết này cấu thành lời khuyên pháp lý. Có rất nhiều chủ đề mà bài viết này không đề cập, bao gồm, ví dụ, việc sử dụng blockchain trong quản lý quyền và chống hàng giả.

Bảo Lâm
http://vietq.vn/cong-nghe-blockchain-co-anh-huong-nhu-the-nao-den-quyen-so-huu-tri-tue-d188134.html

Thiết bị “ngửi” được mùi người mắc Covid-19 chính xác 100% có gì đặc biệt?

Hãng Robo Scientific đang tiến hành thử nghiệm một thiết bị có khả năng phát hiện người mắc Covid-19 chính xác 100% sau 15 phút thông qua mùi.

Với độ chính xác được tuyên bố là 98-100%, model này được kỳ vọng giúp việc phát hiện bệnh nhân Covid-19 tại các phòng kín như cabin máy bay, lớp học, văn phòng trở nên nhanh chóng hơn.

Theo New York Post, mùi được tạo ra từ quá trình trao đổi chất của người nhiễm virus SARS-CoV-2 sẽ được máy ghi nhận. Dấu vết mùi được nhận biết ngay cả với những người không có triệu chứng, do đó hệ thống sàng lọc này có thể phát hiện bệnh nhân sớm hơn, tránh virus lây lan rộng.


Thiết bị có thể ngửi mùi người mắc Covid-19 chính xác 100%. Ảnh: Zing News

Thiết bị sẽ lấy mẫu không khí theo định kỳ, tự động kiểm tra những người trong phòng có nhiễm Covid-19 hay không. Việc lấy mẫu không khí diễn ra trong phòng kín từ 15-30 phút. Nếu phát hiện dấu vết kỹ thuật số liên quan đến virus, thiết bị sẽ tự động cảnh báo với người phụ trách qua SMS hoặc Wi-Fi.

Robo Scientific cũng đang nghiên cứu thiết bị xét nghiệm cá nhân có công nghệ tương tự, giúp phát hiện Covid-19 qua hơi thở. Việc xét nghiệm cũng diễn ra tự động chỉ trong vòng vài phút từ lúc lấy mẫu hơi thở đến khi cho ra kết quả. Giống khứu giác của loài chó, Robo Scientific Monitor có độ nhạy cao và nhận ra sự hiện diện của dấu vết mùi kỹ thuật số dựa vào các cảm biến của hãng.

Thử nghiệm bởi các nhà nghiên cứu từ Trường Y học Nhiệt đới Vệ sinh Dịch tễ London (LSHTM) và Đại học Durham trên quần áo cho thấy cảm biến có thể phân biệt trang phục được mặc bởi người nhiễm bệnh và khỏe mạnh. Điều đó cho thấy cơ thể bệnh nhân nhiễm virus SARS-CoV-2 tạo ra mùi hương đặc trưng.

Sản phẩm của Robo Scientific được dự đoán có giá khoảng 5.000 USD. Trong ngày thử nghiệm đầu tiên, độ đặc hiệu trung bình của thiết bị là 98%. Đồng nghĩa tỷ lệ kết quả dương tính giả của cách xét nghiệm này thấp. Trong khi đó, độ nhạy trung bình là 99%, tương đương nguy cơ thiết bị cho kết quả âm tính giả thấp.

Vào ngày thử nghiệm thứ hai, các cảm biến đã đạt độ nhạy và độ đặc hiệu 100%. Điều này cho thấy thiết bị có thể phát hiện người nhiễm Covid-19 chính xác hơn các phương pháp xét nghiệm hiện nay.

Trong diễn biễn liên quan tới những nghiên cứu về các thiết bị trong việc phát hiện Covid-19, trước đó Singapore cũng đã nghiên cứu thành công máy xét nghiệm Covid-19 trong một phút.

Để xét nghiệm Covid-19 với thiết bị này, người dùng chỉ cần thở vào van một chiều ở phía ngoài. Hơi thở này sẽ đi vào một bộ phổ kế bên trong máy, để tìm kiếm những hạt hữu cơ dễ bay hơi (VOC).

Theo các nhà phát triển, máy xét nghiệm này sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), phát hiện những thay đổi sinh hóa trong hơi thở để phát hiện Covid-19, cho ra kết quả trong vòng chưa đầy một phút, với độ chính xác hơn 90%.

Tại Singapore, những người được phát hiện dương tính khi dùng máy hơi thở sẽ được xét nghiệm thêm một lần bằng phương pháp xét nghiệm kháng thể để khẳng định dương tính với Covid-19.

Phương pháp xét nghiệm COVID-19 qua hơi thở có ưu điểm đặc biệt nổi bật là nhanh chóng, độ chính xác cao và không cần phải lấy dịch tỵ hầu, họng. Xét nghiệm RT-PRC cho kết quả sau vài giờ, trong khi xét nghiệm kháng thể cũng mất khoảng 20-30 phút.

Ngoài ra, chi phí mỗi lần xét nghiệm bằng hơi thở tại Singapore vào khoảng 25 dollar (hơn 430.000 đồng), cao hơn xét nghiệm kháng thể nhưng thấp hơn nhiều so với hình thức RT-PCR.

An Dương (T/h)
http://vietq.vn/thiet-bi-ngui-duoc-mui-nguoi-mac-covid-19-chinh-xac-100-co-gi-dac-biet-d188088.html

Xử lý rác thải bằng công nghệ vi sinh không gây ô nhiễm môi trường

Hiện mô hình xử lý rác bằng công nghệ vi sinh có thể xử lý được rác ô nhiễm với quy mô 50-100 tấn/ngày, chi phí thực hiện thấp, tổng mức đầu tư một mô hình gồm bãi, dây truyền, men khoảng 3 tỷ đồng.

Trước thực trạng rác thải đang làm nguy hại đến môi trường, Công ty cổ phần môi trường Lam Sơn phối hợp với Ủy ban Nhân dân huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa thực hiện đề tài khoa học “Ứng dụng công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt bằng công nghệ sinh học (từ năm 2019 đến nay)” với tổng kinh phí là 2 tỷ.

Đến nay, các đơn vị đã nghiên cứu ra mô hình xử lý rác thải sinh hoạt bằng công nghệ vi sinh không gây ô nhiễm môi trường, đây là mô hình chế xuất rác thải sinh hoạt thành hạt nhựa làm nguyên liệu sản xuất đồ nhựa dân dụng và mùn hữu cơ để bón cho cây trồng nông nghiệp, giảm chi phí xử lý rác thải từ ngân sách địa phương.

Mô hình xử lý rác thải bằng công nghệ vi sinh không gây ô nhiễm môi trường. (Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN)

Thường Xuân là huyện miền núi khó khăn, mỗi ngày huyện có khoảng 50 tấn rác thải sinh hoạt được tập kết về bãi rác làm cho bãi rác trung tâm thị trấn ngày càng tăng về số lượng.

Do đó, việc thực hiện đề tài trên đã tìm ra mô hình xử lý rác thải sinh hoạt bằng công nghệ vi sinh để giảm thiểu khối lượng chôn lấp, cũng như chất đốt, tái tạo nguồn tài nguyên, góp phần giảm ô nhiễm môi trường, tăng thêm hiệu quả kinh tế cho địa phương.

Ông Nguyễn Duy Bình, Giám đốc Công ty cổ phần môi trường Lam Sơn cho biết: Đơn vị và Ủy ban Nhân dân huyện Thường Xuân đã phối hợp nghiên cứu ra chủng men mới, sau đó đầu tư dây truyền đưa tách lọc rác bằng công nghệ cơ khí kết hợp men vi sinh.

Qua đó, tách lọc được nylon túi bóng, từ đó chế xuất ra hạt nhựa làm nguyên liệu sản xuất ra đồ gia dụng; lọc ra mùn hữu cơ để dùng bón cho cây trồng, giảm thiểu được ô nhiễm môi trường.

Anh Phan Văn Dũng, thôn Xuân Quang, xã Xuân Cẩm, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa cho hay trước đây, bãi rác huyện Thường Xuân bị ô nhiễm nặng, sau khi có công nghệ xử lý rác thải mới, môi trường đã trong sạch hơn, vấn đề ruồi, muỗi ô nhiễm được khắc phục rõ rệt. Người dân quanh vùng đã không còn lo nguồn nước bị ô nhiễm.

Theo thông tin từ Ủy ban Nhân dân huyện Thường Xuân, huyện đã phối hợp với Công ty cổ phần môi trường Lam Sơn nghiên cứu ra chủng men mới, nguồn gốc của chủng men này là sự kết hợp của các chủng men được nhà nước công nhận sau thí nghiệm, sau đó pha trộn ra chủng men mới, chủng men này có tác dụng ủ và đưa rác lên 80 độ C, từ đó rác đã không còn ô nhiễm.

Hiện mô hình xử lý rác bằng công nghệ vi sinh có thể xử lý được rác ô nhiễm với quy mô 50-100 tấn/ngày, chi phí thực hiện thấp, tổng mức đầu tư một mô hình gồm bãi, dây truyền, men khoảng 3 tỷ đồng nên bất cứ địa phương nào cũng có thể áp dụng mô hình này.

Theo ông Nguyễn Ngọc Dũng, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thường Xuân cho biết: “Ưu điểm của công nghệ xử lý rác thải bằng chế phẩm sinh học men vi sinh này là không cần nhiều diện tích, đảm bảo môi trường cho công nhân sản xuất rác cũng như, vấn đề tập kết rác thành đống không còn. Sau khi rác từ các hộ gia đình, xã, thị trấn được đưa về bãi, chúng tôi đã phun men trong 1-2 tiếng và xử lý đến khi không còn ruồi, mùi hôi. Sau khi phun men 30 ngày, rác được đem vào tách lọc ra các sản phẩm hạt nhựa, mùn và các sản phẩm khác.”

Bên cạnh đó, mô hình này có kết hợp với việc nuôi giun quế sống trong rác làm mùn hữu cơ, hiện đã cung cấp ra thị trường 2 sản phẩm đó là mùn dùng bón cho các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, cây lâm nghiệp và giun quế chiết xuất ra tinh dịch giun để xuất khẩu ra Ấn Độ. Hiện nay, mô hình này đã được Sở Tài nguyên và Môi tường, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thanh Hóa đánh giá cao.

Thời gian tới, Ủy ban Nhân dân huyện Thường Xuân sẽ nhân rộng mô hình xử lý rác thải bằng công nghệ vi sinh, giải quyết triệt để vấn đề rác thải cho các huyện của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung./.

Nguyễn Nam (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/xu-ly-rac-thai-bang-cong-nghe-vi-sinh-khong-gay-o-nhiem-moi-truong/719742.vnp

Phát triển thành công vải làm từ tảo

Bằng cách sử dụng công nghệ in 3D, các nhà nghiên cứu tại Ðại học Delft (Hà Lan) vừa sáng chế thành công một loại vải “lai” từ tảo, có khả năng quang hợp như thực vật nhưng cũng rất bền chắc.

Loại vải in 3D thân thiện với môi trường này hứa hẹn giúp các ngành công nghiệp – đặc biệt là ngành dệt may – giảm sử dụng hóa chất độc hại và lượng khí thải carbon tạo ra trong quá trình sản xuất.

Ðầu tiên, các chuyên gia thu lấy cellulose – hợp chất hữu cơ được vi khuẩn sản xuất và bài tiết. Cellulose có nhiều đặc tính độc đáo như mềm dẻo, bền chắc và có khả năng giữ nguyên hình dạng ngay cả khi bị xoắn, vắt hoặc nhàu nát. Kế đến, họ dùng một máy in 3D để đặt tảo sống lên trên phần cellulose, giống như cách mà máy in thông thường phun ra mực lên trang giấy. Sự kết hợp giữa hai thành phần cuối cùng giúp tạo ra một loại vải độc đáo, sở hữu khả năng quang hợp của tảo và sự bền chắc của cellulose. Ðiều này đồng nghĩa vải mới có thể sử dụng ánh nắng để tự “nuôi lớn” sau nhiều tuần và có thể tái sinh bằng cách trồng lại một mẩu nhỏ khác.

Nhóm sáng chế nhận định vải mới có thể được ứng dụng để tạo ra nhiều vật dụng hữu ích, bao gồm lá nhân tạo có thể chuyển đổi nước và CO2 thành khí ôxy và năng lượng hoặc một loại da ghép quang hợp giúp vết thương mau lành.

HƯƠNG THẢO (Theo Study Finds)

https://baocantho.com.vn/phat-trien-thanh-cong-vai-lam-tu-tao-a134140.html

Lợi và hại của việc sử dụng AI trong tuyển dụng nhân sự

Nghiên cứu sinh chuyên ngành ứng dụng AI trong tuyển dụng nhân sự thuộc Viện Brookings, cho biết những chương trình và nền tảng này ngày càng phổ biến nhờ tốc độ xử lý hồ sơ nhanh và chi phí thấp.

Bốn năm sau khi tốt nghiệp đại học ở Mỹ, Kevin Carballo đã không ít lần thất bại khi gửi hồ sơ đi xin việc và lần nào cũng là những lá thư từ chối hồi đáp tự động, có khi chỉ vài giờ sau khi hồ sơ được gửi đi.

Không chỉ Carballo, hiện nay, rất nhiều người đi xin việc cũng rơi vào cảnh ngộ tương tự mà nguyên nhân chủ yếu là do nhà tuyển dụng dùng thuật toán, các hệ thống có công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để tự động sàng lọc những ứng viên phù hợp với yêu cầu.

Carballo, một sinh viên 27 tuổi gốc Latinh, cho biết hầu như tất cả các nhà tuyển dụng thời nay đều đã sử dụng các hệ thống tự động sàng lọc kiểu này. Anh gần như không có cơ hội để thể hiện trực tiếp với nhà tuyển dụng khi hồ sơ bị loại ngay từ khâu đánh giá tự động do một chiếc máy thực hiện.

Trên thực tế, ngành phát triển công cụ hỗ trợ tuyển dụng có yếu tố AI hiện có giá trị ước tính hơn 500 triệu USD, với nhiều sản phẩm đã đưa vào ứng dụng như các chương trình nhận diện khuôn mặt và đánh giá biểu cảm ứng viên trong phỏng vấn video hay các nền tảng sàng lọc hồ sơ để lựa chọn những ứng viên phù hợp với mô tả công việc.

Alex Enger, nghiên cứu sinh chuyên ngành ứng dụng AI trong tuyển dụng nhân sự thuộc Viện Brookings, cho biết những chương trình và nền tảng này ngày càng phổ biến nhờ tốc độ xử lý hồ sơ nhanh và chi phí thấp.

Chuyên gia khoa học máy tính Manish Raghavan, Đại học Cornell, cho rằng việc sử dụng các hệ thống AI sẽ giúp tránh được những tình huống thiên vị xuất phát từ cảm tính của người tuyển dụng với ứng viên, các thuật toán sẽ chấm điểm mà không bị chi phối bởi giới tính hay màu da của các ứng viên.

Theo hãng khảo sát Mercer, hơn 55% các nhà quản trị nhân sự (HR) tại Mỹ dựa vào các thuật toán để đưa ra quyết định tuyển dụng. AI được sử dụng ngay từ những khâu đầu tiên trong quy trình tuyển dụng, từ khâu quảng cáo tuyển dụng.

Đại dịch COVID-19 cũng góp phần đẩy nhanh tốc độ đưa những công cụ này vào ứng dụng. HireVue, một công ty chuyên phát triển các công cụ AI trong tuyển dụng để phân tích và chấm điểm các câu trả lời của ứng viên trong những lần tham gia phỏng vấn video, cho biết tỷ lệ sử dụng các công cụ do công ty phát triển đã tăng 46% so với năm ngoái.

Tuy nhiên, hiện chưa có nhiều đơn vị phát triển chú trọng đảm bảo các chương trình này hoạt động một cách hoàn toàn khách quan. Theo chuyên gia Raghavan, vấn đề nằm ở chỗ rất khó phát hiện khi nào thì yếu tố thiên vị vô tình xuất hiện trong khi phát triển một thuật toán dựa theo cơ chế học máy.

Ví dụ, các hệ thống xử lý ngôn ngữ tự động thường được làm quen nhiều hơn với những tên gọi của nhóm người chiếm đa số trong một xã hội, dẫn tới nguy cơ thiệt thòi cho những người đến từ nhóm thiểu số, với những tên gọi hiếm. Hay trường hợp của Carbello, một cái tên Latinh hiếm gặp, có nguy cơ bị loại cao khi các hệ thống máy học chưa được cung cấp dữ liệu đầu vào với những tên gọi như vậy.

Ngoài ra, một trong những điều mà những ứng viên Carballo lo ngại nhất là quy trình nhận diện khuôn mặt không khách quan, khiến các hệ thống đều tự động loại bỏ tất cả những người có nhận diện khuôn mặt như anh, những người thuộc nhóm thiểu số.

Trên thực tế, năm 2017, tập đoàn thương mại điện tử hàng đầu thế giới Amazon đã phải dỡ bỏ hệ thống sàng lọc hồ sơ tuyển dụng có sự hỗ trợ của công nghệ AI sau một thời gian đưa vào sử dụng vì phát hiện lỗi phân biệt đối xử với nữ giới.

Một điều đáng lo ngại khác nữa là việc nhận được những lá thư từ chối tự động khiến các ứng viên không thể hiểu rõ hồ sơ của họ có gì không đáp ứng và luôn thắc mắc rằng liệu họ có bị phân biệt đối xử.

Cũng theo giới chuyên gia, dù nhiều công ty lớn đã thể hiện quyết tâm loại bỏ những yếu tố thiên vị, nhưng khi các nhà chức trách chưa thực sự đưa ra những quy định cụ thể thì những quyết tâm trên cũng mới chỉ dừng lại ở cam kết bằng lời nói.

Theo chuyên gia Enger, một trong những nguyên nhân khiến các đơn vị phát triển hầu như đều bỏ qua khâu thử nghiệm tính khách quan của các hệ thống là chi phí cao và thời gian kéo dài. Họ sẽ chỉ thực hiện những quy trình này nếu như có yêu cầu từ giới chức quản lý.

Nguy cơ phân biệt đối xử cũng là điều gây nhiều tranh cãi nhất khi các nghị sĩ thảo luận về các điều luật để quản lý việc sử dụng công nghệ AI trong các lĩnh vực, đặc biệt là trong quản trị nhân lực. Trên thực tế, các nhà quản lý của Liên minh châu Âu (EU) đã nhiều lần thảo luận về vấn đề này và chuẩn bị đưa ra các quy định về sử dụng AI trong tuyển dụng.

Giới chức quản lý đã đề xuất nghị viện châu Âu đưa các công ty bán các hệ thống hỗ trợ tuyển dụng bằng công nghệ AI vào nhóm “nguy cơ cao”, đồng nghĩa mọi công ty trong lĩnh vực này phải tham gia một cơ sở dữ liệu công khai, đảm bảo các dữ liệu khách quan, có tính đại diện cao, hoàn chỉnh và không có lỗi.

Trong khi đó, các nghị sĩ Mỹ đã cân nhắc các điều luật liên bang để loại bỏ nguy cơ thiên vị khi dùng các thuật toán trong lĩnh vực này./.

Lê Ánh (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/loi-va-hai-cua-viec-su-dung-ai-trong-tuyen-dung-nhan-su/718327.vnp

Cuộc cách mạng hydro: Những trở ngại lớn

Hydro đóng một vai trò không thể thiếu trong một hệ thống năng lượng tương lai không có carbon. Nhưng các kịch bản cho thấy tỷ trọng của nó trong năng lượng vào năm 2050 khác nhau đáng kể.

Cho dù kết quả cuối cùng có thể là gì, những người theo dõi ngành công nghiệp hiện nay phần lớn đồng ý rằng có 2 lĩnh vực mà chi phí phải giảm xuống để tăng trưởng hydro không có carbon.

Hai lĩnh vực đó là: Chi phí năng lượng tái tạo, vốn là đối tượng giảm đáng kể trong thập kỷ qua, phải tiếp tục giảm. Và chi phí điện phân nước để sản xuất hydro, bao gồm phần cứng cơ bản của hydro xanh, máy điện phân phải đi theo một con đường tương tự cho phí thấp xuống.

Nhiều người thấy cả hai đã sẵn sàng xảy ra. Nhưng trên thực tế, đó là hai mảng có liên quan không thể tách rời, với chi phí vận hành và chi phí vốn được tính vào tổng chi phí vận hành máy điện phân.

Sự sụt giảm của giá điện tái tạo dự kiến ​​sẽ tiếp tục, với việc tăng tốc triển khai năng lượng tái tạo vào lưới điện. Nhưng chi phí vốn cũng phải giảm, với thiết bị điện phân được sản xuất nhanh hơn và ít tốn kém hơn.

Trong khi giá điện mặt trời đã giảm khoảng 90% trong 10 năm qua, nó cần phải giảm thêm nữa và các chính phủ tỏ ra quyết tâm giúp đỡ. Ví dụ, vào tháng 3, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE) đã công bố mục tiêu của mình rằng chi phí năng lượng mặt trời quy mô tiện ích giảm hơn một nửa trong 10 năm, từ mức giá hiện tại là 4,6 cent cho mỗi kilowatt-giờ (kWh) xuống còn 3 cent/kWh vào năm 2025 và 2 cent/kWh vào năm 2030.

DOE đã công bố một loạt các dự án R&D và vốn hạt giống cho quang điện cải tiến (perovskites, màng mỏng) và điện mặt trời tập trung (CSP) để đạt được hiệu suất cao hơn và chi phí thấp hơn.

Chi phí của công nghệ điện phân cũng đang giảm, với những cải tiến về thiết kế để đạt hiệu quả cao hơn. Các đơn vị kiềm cải tiến đang được triển khai ngay cả khi người mua đang ngày càng chuyển sang sử dụng các máy điện phân màng trao đổi proton (PEM) hiệu quả cao hơn. Trong khi đó, công nghệ đang tiến bộ cho các tế bào điện phân oxit rắn (SOEC), hứa hẹn sẽ đạt được hiệu suất rất cao từ nhiệt đầu vào cao, từ các nguồn nhiệt công nghiệp và có khả năng từ các lò phản ứng hạt nhân.

Câu hỏi đặt ra bây giờ là liệu điện phân nước để sản xuất hydro có thể tuân theo đường cong chi phí giảm ngẫu nhiên mà điện mặt trời đã tuân theo trong 10 năm qua hay không?

Điều quan trọng là phải tiếp tục giảm chi phí, vì hydro điện phân sẽ phải cạnh tranh với “hydro xanh” được sản xuất bằng khí tự nhiên và thu giữ carbon, hiện đã ít tốn kém hơn. Thành công sẽ dẫn đến việc người ta hy vọng sẽ áp dụng rộng rãi thứ mà những người ủng hộ gọi là “Chén thánh” của hydro, là hydro điện phân được sản xuất bằng điện tái tạo (tức là hydro “xanh”).

Bảo Vy
https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/cuoc-cach-mang-hydro-nhung-tro-ngai-lon-612770.html