Tạo “miễn dịch” cho Trái Đất trước virus biến đổi khí hậu

Việc nồng độ khí thải CO2 trong khí quyển Trái Đất đã trở lại mức kỷ lục trong tháng Năm cho thấy sự xuất hiện của virus SARS-CoV-2 không phải là “liều thuốc” cho vấn đề ô nhiễm khí thải toàn cầu.

Những nhà máy đóng cửa, phương tiện giao thông “ngủ đông,” các hãng hàng không ngừng hoạt động, hàng tỷ người hạn chế ra ngoài… Những điều khó tưởng tượng này diễn ra khi “cơn bão” dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 càn quét toàn cầu, được cho sẽ giúp giảm đáng kể lượng khí thải làm nhiệt độ Trái Đất nóng lên, nhờ đó giảm ô nhiễm môi trường và làm chậm tốc độ biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên, báo cáo mới của Chính phủ Mỹ cho thấy nồng độ khí thải CO2 trong khí quyển Trái Đất đã trở lại mức kỷ lục trong tháng Năm, bất chấp việc đại dịch COVID-19 khiến các hoạt động kinh tế ngưng trệ.

Mặc dù lượng khí thải trên toàn thế giới ước tính đã giảm tới 26% tại một số nước trong giai đoạn cao điểm áp lệnh phong tỏa do dịch COVID-19, song báo cáo trên cho thấy sự xuất hiện của virus SARS-CoV-2 không phải là “liều thuốc” cho vấn đề ô nhiễm khí thải toàn cầu.

Thực tế thì trong giai đoạn đầu, các biện pháp hạn chế đi lại hay ngừng hoạt động kinh tế để ngăn chặn lây lan dịch cũng có tác dụng khiến những “điểm đen” ô nhiễm trở nên trong lành hơn. Tại các quốc gia có mức độ ô nhiễm hàng đầu thế giới, lượng khí thải giảm đột ngột.

Nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu năng lượng và không khí sạch ở Phần Lan cho thấy lượng khí thải carbon của Trung Quốc đã giảm ít nhất 100 triệu tấn trong 2 tuần của tháng Hai, tương ứng gần 6% lượng khí thải toàn cầu trong cùng thời điểm năm ngoái.

Mật độ tập trung khí NO2 tại các tỉnh miền Đông và Trung Trung Quốc đã giảm 10-30% so với mức bình thường được ghi nhận cùng thời điểm năm ngoái.

Cư dân thủ đô New Delhi của Ấn Độ – một trong những thành phố ô nhiễm nhất thế giới – và nhiều thành phố khác của đất nước hơn 1,3 tỷ dân này cũng được hưởng không khí trong lành hơn kể từ sau khi nhà chức trách áp đặt biện pháp giãn cách xã hội trên toàn quốc ngày 24/3.

Số liệu phân tích cho thấy trong ngày đầu tiên áp đặt lệnh phong tỏa, mật độ bụi mịn PM 2.5 trung bình ở nước này giảm 22% và khí NO2 – sinh ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch – cũng giảm 15%.

Tại châu Âu, các nhà nghiên cứu ước tính mật độ NO2 trong khoảng thời gian từ ngày 14-25/3, sau khi một loạt quốc gia áp đặt lệnh phong tỏa, giảm ít nhất 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Lượng khí thải CO2 tại châu Âu cũng giảm tới 27%.

Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) ước tính lượng khí thải CO2 toàn cầu trong năm nay sẽ giảm 6% vì hoạt động giao thông và sản xuất năng lượng công nghiệp giảm. Đây sẽ là mức giảm mạnh nhất hằng năm kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai.

Những số liệu trên cho thấy hoạt động của con người tác động lớn như thế nào đến môi trường. Tình trạng chặt phá rừng, đốt rừng, sử dụng nhiên liệu hóa thạch và tất cả những hoạt động khác gây phát thải khí nhà kính là “thủ phạm” gây ra tình trạng nóng lên toàn cầu.

Giống như sự lây lan của virus từ người sang người, biến đổi khí hậu xảy ra với mức độ nhỏ nhưng tăng dần và dễ dàng bị “phớt lờ” cho đến khi con người đo lường được những con số cụ thể, như nhiệt độ trung bình hằng năm tăng, cường độ của các cơn bão mạnh hơn, hạn hán kéo dài hơn, cháy rừng dữ dội hơn, tốc độ tuyệt chủng của các loài động, thực vật diễn ra nhanh hơn…

Sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 đang bộc lộ rõ hơn những tác động “tàn phá” của con người đối với môi trường.

Theo báo cáo của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), sự xuất hiện ngày càng thường xuyên của các dịch bệnh xuất phát từ động vật thường có liên quan tới những thay đổi về môi trường hay xáo trộn sinh thái, do hoạt động thâm canh nông nghiệp và định cư của con người, hay do tình trạng xâm lấn rừng và các môi trường sống khác.

Bà Anne Larigauderie, Thư ký điều hành IPBES, ủy ban các chuyên gia về đa dạng sinh học của Liên hợp quốc, cảnh báo rằng con người, thông qua hành động của mình, tạo cơ hội cho vi khuẩn, virus tiếp cận gần hơn với nhân loại. Mức độ thay đổi toàn cầu về tự nhiên trong 50 năm qua là “chưa từng có trong lịch sử con người” và dịch COVID-19 có thể chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm.”

Giới chuyên gia y tế cũng cảnh báo đại dịch này báo trước nhiều mối đe dọa sức khỏe toàn cầu khi Trái Đất ngày càng nóng lên, bởi các nhà khoa học đã chứng minh biến đổi khí hậu đang làm gia tăng dịch bệnh.

Giám đốc phụ trách bộ phận HIV, y tế và phát triển của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, chuyên gia Mandeep Dhaliwal cho biết nạn phá rừng và mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp đều đang thúc đẩy biến đổi khí hậu và đưa con người tiếp xúc gần hơn với các loại bệnh xuất phát từ động vật hoang dã.

Hiện tượng nóng lên toàn cầu, thời tiết thay đổi bất thường do biến đổi khí hậu càng tạo điều kiện để đại dịch bùng phát mạnh mẽ.

Đặc biệt, khi mầm bệnh thích ứng với nhiệt độ tăng cao trong môi trường tự nhiên, chúng cũng sẽ dễ dàng thích nghi và tồn tại trong cơ thể người. Điều đó đồng nghĩa với hệ miễn dịch của con người bị suy yếu.

Nồng độ CO2 đo được tại Đài quan sát Mauna Loa ở Hawaii, Mỹ, trong tháng 5/2020 là 417/1 triệu đơn vị không khí (ppm), cao hơn mức kỷ lục 414,8 ppm vào năm ngoái.

Điều đó cho thấy tình trạng giảm ô nhiễm cũng như khí thải trong thời kỳ dịch COVID-19 chỉ mang tính chất tạm thời.

WMO cho rằng dịch COVID-19 có tác động rất ít đến biến đổi khí hậu.

Khi đại dịch qua đi và người dân thế giới bắt đầu trở lại “guồng quay” công việc, khí thải CO2 trong bầu khí quyển sẽ tăng trở lại, có thể bằng, thậm chí hơn mức khí thải trước giai đoạn dịch bệnh này.

Tổ chức này lưu ý kinh tế phục hồi sau các cuộc khủng hoảng kinh tế trước đây thường gắn với mức phát thải cao hơn trước thời kỳ khủng hoảng.

Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres cũng nhấn mạnh: “Chúng ta không nên đánh giá quá cao tình trạng khí thải giảm trong một vài tháng vừa qua bởi chúng ta không thể chống lại sự biến đổi khí hậu bằng loại virus này.”

Virus SARS-CoV-2 gây bệnh COVID-19 và vấn đề biến đổi khí hậu đều cần sự nỗ lực chung tay phối hợp của cộng đồng quốc tế, song hai thách thức này hoàn toàn khác nhau.

Đối với COVID-19, cả cộng đồng quốc tế đều mong đợi đó chỉ là căn bệnh tạm thời và tác động của nó cũng chỉ tạm thời. Còn đối với biến đổi khí hậu thì đây là vấn đề đã tồn tại nhiều năm qua và sẽ song hành với con người trong nhiều thập niên, đòi hỏi cộng đồng cần phải có những hành động mang tính liên tục.

Tháng Năm vừa qua, thế giới cũng ghi nhận tháng nóng kỷ lục trên toàn thế giới. Nhiệt độ trong tháng 5/2020 đã tăng 0,68 độ C so với mức trung bình trong tháng Năm của giai đoạn 1981-2010. Nhiệt độ trung bình trong vòng 12 tháng tính đến tháng 5/2020 đã tăng gần 1,3 độ C so với mức trước khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra.

Thậm chí nhiệt độ tại vùng đất nổi tiếng lạnh giá Siberia của Nga đã tăng 10 độ C so với mức trung bình…

Kể từ năm 2002, nhiệt độ đã tăng đều đặn so với mức trung bình, trong đó 5 năm vừa qua là các năm nóng kỷ lục và thập niên vừa qua cũng là thập niên nóng kỷ lục.

Trong thông điệp nhân Ngày Trái Đất (22/4) năm nay, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Guterres cho rằng các chính phủ nên sử dụng các gói kích thích kinh tế đối phó với dịch COVID-19 để chuyển từ nền kinh tế “xám sang xanh,” Các nguồn ngân sách nên được “rót” vào tương lai chứ không phải vào quá khứ, kinh phí để cứu các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi COVID-19 cần được đầu tư vào những việc làm “thân thiện với môi trường” cũng như tăng trưởng bền vững.

Một số chuyên gia cho rằng đại dịch này có thể giúp “mở một lối tắt” đến tương lai xanh với mức carbon thấp nếu các chính phủ biết “biến nguy thành cơ.”

Cùng với giá dầu và khí đốt giảm, giai đoạn này là một cơ hội thích hợp để điều chỉnh lại các khoản đầu tư và trợ cấp của nhà nước.

Với kịch bản sáng sủa nhất, cuộc khủng hoảng COVID-19 sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển sang nguồn năng lượng sạch.

Các bộ trưởng khí hậu và môi trường của 13 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU), trong đó có Đan Mạch, Áo, Đức, Pháp…, đã kêu gọi Ủy ban châu Âu (EC) sử dụng “Thỏa thuận Xanh” làm lộ trình cho kế hoạch phục hồi kinh tế toàn diện của liên minh sau cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 gây ra.

Với cương vị Chủ tịch luân phiên EU từ ngày 1/7 tới, Chính phủ của Thủ tướng Đức Angela Merkel tuyên bố, trong thời gian 6 tháng giữ trọng trách này, các vấn đề khí hậu “sẽ được chú trọng như các vấn đề y tế trong chương trình nghị sự.”

Một dấu hiệu tích cực khác, là kết quả cuộc khảo sát trực tuyến được thực hiện từ ngày 1/1-24/3 đối với 40.000 người tại 186 quốc gia trên thế giới cho thấy biến đổi khí hậu và môi trường sẽ là mối quan tâm hàng đầu trong tương lai, bên cạnh các mối quan tâm về xung đột và rủi ro sức khỏe sau khi đại dịch COVID-19 xuất hiện.


Khói bốc lên từ đám cháy rừng ở Bumbalong, Australia ngày 2/2/2020. (Nguồn: AFP/TTXVN)

95% số ý kiến khảo sát cũng đánh giá hợp tác quốc tế là “cần thiết” hoặc “rất quan trọng” để giải quyết các vấn đề trên.

Những thay đổi mạnh mẽ của môi trường và khí hậu thời gian qua đủ cho thấy chống biến đổi khí hậu là vấn đề cấp bách. Mối đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe và cả mạng sống của con người đâu chỉ là những căn bệnh như COVID-19, mà còn là không khí ô nhiễm và biến đổi khí hậu.

Nếu không thể đạt được các mục tiêu về khí hậu như hạn chế mức tăng nhiệt toàn cầu dưới 2 độ C, con người cũng sẽ đối mặt với hết đại dịch này đến đại dịch khác.

Đại dịch COVID-19 tới ngày 15/6 cướp đi sinh mạng của hơn 435.000 người trên thế giới có thể kéo dài vài tháng hoặc vài năm, cuối cùng sẽ được khống chế.

Với khoa học công nghệ phát triển, các nhà nghiên cứu sớm muộn sẽ tìm ra vắcxin ngừa virus SARS-CoV-2 gây bệnh COVID-19, nhưng không thể điều chế được loại vắcxin ngừa “virus” biến đổi khí hậu. Vấn đề ở đây là tăng khả năng miễn dịch của Trái Đất.

Hoạt động của con người gây ra biến đổi khí hậu, nhưng chính hành động của con người lại có thể tạo ra “hệ miễn dịch” cho Trái Đất trước những “virus nguy hiểm” như tình trạng nóng lên toàn cầu./.

Nguyễn Hằng (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/tao-mien-dich-cho-trai-dat-truoc-virus-bien-doi-khi-hau/645764.vnp

EU nghiên cứu phát triển điện mặt trời trên đường cao tốc

Học viện Công nghệ Áo (AIT) hợp tác với Viện các hệ thống điện mặt trời Đức (Fraunhofer ISE) và Công ty Forster Industrietechnik GmbH tiến hành dự án nghiên cứu thử nghiệm “PV-SUD” nhằm đánh giá triển vọng lắp đặt các nhà máy điện mặt trời trên các tuyến đường cao tốc trong Liên minh châu Âu.

Xuất phát từ việc quỹ đất cho phát triển điện mặt trời châu Âu hạn hẹp, các nhà khoa học đã đưa ra ý tưởng phát triển các dự án điện mặt trời đóng vai trò như mái che cho các tuyến đường cao tốc hiện nay.

Tại Đức hiện có gần 13.000 km đường cao tốc (Autobahn), chiếm khoảng 2,6% diện tích lãnh thổ của nước này. Nếu như lắp đặt hệ thống mái che, cấu thành từ các tấm pin mặt trời có độ trong suốt cao có thể che phủ toàn bộ đường cao tốc trên diện tích 337 km2.

Hệ thống mái che pin mặt trời sẽ không chỉ sản xuất điện năng mà còn có thể có tác dụng bảo vệ mặt đường khỏi mưa, bão và tình trạng quá nóng, góp phần tăng tuổi thọ của mặt đường. Bên cạnh đó, với thiết kế thích hợp, hệ thống mái che mặt trời có thêm khả năng chống ồn.

Theo tính toán, tổng công suất lắp đặt điện mặt trời trên đường cao tốc tại Đức có thể đại 56 GW, cao hơn tổng công suất điện mặt trời hiện tại của nước này. Giải pháp này có thể góp phần tạo thêm 47 tỷ kWh, đáp ứng khoảng 9% nhu cầu tiêu thụ điện năng tại Đức.

Viễn Đông

https://petrotimes.vn/eu-nghien-cuu-phat-trien-dien-mat-troi-tren-duong-cao-toc-576075.html

Công nghệ đặc biệt biến nước biển thành nước uống chỉ trong 30 phút

Một nhóm nghiên cứu quốc tế vừa phát triển thành công công nghệ đặc biệt giúp biến nước lợ và nước biển nhiễm bẩn thành nước sạch trong 30 phút.

Theo công trình nghiên cứu của Trường Đại học Monash (Australia), công nghệ mới được tích hợp trong bộ lọc với thiết kế đặc biệt, có khả năng lọc hàng trăm lít nước để uống được mỗi ngày mà chỉ cần sử dụng ánh sáng mặt trời trực tiếp để lọc. Quy trình này hứa hẹn nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, chi phí thấp và bền vững.

Bộ lọc sử dụng các vật liệu khung hữu cơ-kim loại (MOFs). Khung hữu cơ – kim loại là một nhóm các hợp chất bao gồm các ion kim loại tạo thành vật liệu tinh thể, có diện tích bề mặt lớn nhất so với bất kỳ vật liệu nào được biết đến từ trước đến nay. Trên thực tế, MOFs rất xốp nên chúng có thể nhét vừa toàn bộ bề mặt sân bóng trong một thìa cà phê.

Trong quá trình khử muối, bước đầu, một bộ lọc MOF chuyên dụng sẽ tách hoàn toàn muối từ nước biển, quy trình này không tiêu thụ năng lượng. Sau đó, bộ lọc MOF sẽ được đưa ra dưới ánh nắng mặt trời trực tiếp trong chưa đầy 4 phút để tái tạo chức năng trước khi được đưa trở lại để thực hiện quy trình tách muối thêm một lần nữa.


Quy trình lọc nước

“Nghiên cứu này đã chứng minh rằng MOFs phản ứng quang là một chất hấp phụ hiệu quả, tiết kiệm năng lượng và bền vững cho quá trình khử muối. Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp một lộ trình mới cho việc thiết kế các vật liệu chức năng sử dụng năng lượng mặt trời nhằm giảm mức tiêu thụ năng lượng và cải thiện tính bền vững của quá trình khử muối trong nước. Các MOF phản ứng với ánh sáng mặt trời này có thể được ứng dụng cho các phương pháp khai thác khoáng sản cần ít năng lượng và thân thiện với môi trường, để khai thác bền vững cũng như phát triển các ứng dụng liên quan khác”, GS. Huanting Wang từ Khoa Kỹ thuật Hóa học, Đại học Monash cho hay.

Giáo sư Huanting Wang nói thêm, công trình này đã mở ra một hướng mới cho việc thiết kế các vật liệu phản ứng với kích thích từ môi trường bên ngoài để khử muối và lọc nước một cách hiệu quả, bền vững.

“Phương pháp khử muối đang được sử dụng để giải quyết tình trạng thiếu nước ngày càng nghiêm trọng trên toàn cầu. Do nước lợ và nước biển luôn sẵn có ở nhiều nơi và khử mặn là phương pháp đáng tin cậy, nước đã qua xử lý có thể được tích hợp trong các hệ thống thủy sinh hiện có với những rủi ro sức khỏe tối thiểu.

Tuy nhiên, quy trình khử muối nhiệt bằng bay hơi tiêu tốn nhiều năng lượng và một số công nghệ khác như thẩm thấu ngược có những hạn chế như tiêu thụ nhiều năng lượng, sử dụng hóa chất để làm sạch màng và khử clo. Ánh sáng mặt trời là nguồn năng lượng dồi dào và có tính tái tạo nhất trên Trái đất. Việc chúng tôi phát triển một quy trình khử mặn mới, tận dụng ánh sáng mặt trời mang lại một giải pháp khử mặn tiết kiệm năng lượng và bền vững với môi trường”, vị giáo sư này cho hay.

Bảo Lâm

http://vietq.vn/cong-nghe-dac-biet-bien-nuoc-bien-thanh-nuoc-uong-chi-trong-30-phut-d177319.html

Biến rác thải thành… năng lượng sạch

Công ty HomeBiogas (Israel) đã tạo ra một hệ thống giúp tận dụng thực phẩm thừa và rác thải hữu cơ để biến nó thành khí gas nấu ăn sạch.

Cách biến rác thải thành khí biogas là mô hình quen thuộc đã được áp dụng tại nhiều quốc gia. Các loại phân động vật, rác thải được ủ trong hầm kín và sản sinh ra các loại khí đốt phục vụ cho đun nấu, sinh hoạt hàng ngày,

Hệ thống HomeBiogas được phát triển từ mẫu hầm biogas có thể lắp ráp và có kích thước 165 x 100 x 127 cm (dài x rộng x cao), đặt ngay trong sân hoặc vườn nhà.

Hệ thống HomeBiogas biến rác hữu cơ thành khí đốt.

Nguyên liệu đầu vào của hệ thống khí sinh học này có thể là tất cả các loại rác hữu cơ, bao gồm thịt, sữa và thậm chí cả chất thải của mèo. Khi được cho vào bên trong, các vi khuẩn yếm khí trong hầm lên men sẽ phân hủy các vật liệu hữu cơ và giải phóng ra khí sinh học.

Có giá thành là 995 USD và hoạt động không cần điện, hệ thống HomeBiogas có thể xử lý đến 5 kg thức ăn thừa hoặc 15 lít phân động vật mỗi ngày. Lượng khí đốt do hệ thống sinh ra mỗi ngày tương đương với lượng điện 6 kW giờ. Ngoài ra sản phẩm phụ của hệ thống này còn có thể sử dụng làm phân bón dạng lỏng cho cây.

Mỗi kilogram rác thải hữu cơ có thể được chuyển đổi trung bình thành 200 lít nhiên liệu và sử dụng trong một giờ đun nấu. Phát minh này có thể hạn chế tới 6 tấn khí thải CO2 mỗi năm.

G.Minh
https://petrotimes.vn/bien-rac-thai-thanh-nang-luong-sach-575791.html

Dự án điện mặt trời lớn nhất thế giới qua tuyến cáp ngầm dưới biển

Chính phủ Úc mới đây phê duyệt dự án điện Sun Cable trở thành dự án ưu tiên quốc gia, có vốn đầu tư ước tính 26 tỷ USD. Sun Cable là dự án sản xuất điện tái tạo và xây dựng tuyến cáp ngầm dưới biển, vận chuyển điện năng từ phía Bắc Úc (Darwin) đến Singapore với chiều dài 3.700 km.

Ngoài tuyến cáp ngầm, trong khuôn khổ dự án sẽ bao gồm việc xây dựng nhà máy điện mặt trời quy mô lớn với tổng công suất thiết kế lên tới 10 GW và hệ thống lưu trữ điện năng với tổng công suất thiết kế 30 GWh nhằm đảm bảo cung cấp lượng điện năng ổn định cho thị trường Singapore.

Sun Cable dự kiến được đưa vào vận hành từ năm 2027, sẽ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu tiêu thụ điện của Singapore và mang lại doanh thu cho Úc từ 1,4 – 1,5 tỷ USD mỗi năm. Dự án cũng sẽ góp phần giúp Singapore giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu LNG.

Viễn Đông
https://petrotimes.vn/du-an-dien-mat-troi-lon-nhat-the-gioi-qua-tuyen-cap-ngam-duoi-bien-575446.html

Điện gió sẽ dẫn đầu ngành năng lượng toàn cầu

Dự kiến năm 2020 công nghiệp điện gió ngoài khơi thế giới sẽ đạt mức tăng công suất hơn 6 GW, bất chấp tác động của cuộc khủng hoảng Covid-19. Công suất điện gió ngoài khơi đến năm 2030 sẽ vượt 234 GW, dẫn đầu là các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Ngày 5/8, Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) công bố báo cáo về điện gió ngoài khơi toàn cầu cho thấy công suất điện gió ngoài khơi toàn cầu sẽ tăng vọt từ 29.1 GW vào cuối năm 2019 lên đến mức hơn 234 GW vào năm 2030, nhờ sức tăng trưởng theo cấp số nhân ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và đà phát triển mạnh vẫn được duy trì ở châu Âu.

Hôm nay GWEC phát hành số thứ hai bản Báo cáo Điện gió ngoài khơi toàn cầu. Tài liệu cung cấp bức tranh toàn diện về ngành điện gió ngoài khơi trên toàn thế giới, với dữ liệu và phân tích mới nhất về tăng trưởng thị trường, cùng dự báo ngành đến năm 2030 và những đánh giá dựa trên dữ liệu về các thị trường mới nổi. Báo cáo cũng bao gồm các bài học kinh nghiệm về các chương trình hỗ trợ, phát triển ngành và tạo việc làm, kết nối lưới điện, giảm chi phí và chuỗi cung ứng, cũng như đảm bảo sức khỏe và an toàn để thúc đẩy tăng trưởng thị trường điện gió ngoài khơi toàn cầu.

Báo cáo chỉ ra năm 2019 là năm phát triển mạnh mẽ nhất ngành điện gió ngoài khơi từng ghi nhận, với mức tăng 6,1 GW công suất mới trên toàn thế giới, nâng tổng lắp đặt tích lũy toàn cầu lên 29,1 GW. Trung Quốc hai năm liên tiếp đứng ở vị trí số một về công suất lắp đặt mới, đạt công suất lắp đặt kỷ lục 2,4 GW, theo sau là Vương quốc Anh ở mức 1,8 GW và Đức ở mức 1,1 GW. Trong khi châu Âu tiếp tục là khu vực đi đầu về điện gió ngoài khơi, các quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, như Đài Loan, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc, cùng với thị trường Mỹ cũng đang nhanh chóng tăng tốc và sẽ là khu vực tăng trưởng mạnh mẽ trong thập kỷ tới.

Việt Nam là một trong những thị trường tiềm năng mới của công nghiệp điện gió ngoài khơi.

GWEC Market Intelligence dự báo đến năm 2030, hơn 205 GW công suất điện gió ngoài khơi mới sẽ được bổ sung trên toàn cầu, trong đó sẽ có ít nhất 6,2 GW điện gió nổi ngoài khơi. Con số này cao hơn 15 GW so với mức triển vọng mà GWEC Market Intelligence dự báo thời kỳ tiền Covid, chứng minh khả năng phục hồi có thể giúp ngành này đóng vai trò làm động lực chính cho cả công cuộc phục hồi xanh và quá trình chuyển đổi năng lượng.

Ben Backwell, Giám đốc điều hành của GWEC đánh giá: “Điện gió ngoài khơi đang thực sự mở rộng trên toàn cầu, đó là nhờ chính phủ các nước trên thế giới nhận ra vai trò của công nghệ trong việc khởi động phục hồi kinh tế hậu Covid thông qua đầu tư quy mô lớn, tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế cho các cộng đồng ven biển. Trong thập kỷ tới, chúng ta sẽ thấy các thị trường điện gió ngoài khơi mới nổi như Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam được triển khai một cách toàn diện, đồng thời sẽ chứng kiến các turbine ngoài khơi đầu tiên được lắp đặt tại một số quốc gia khác ở châu Á, châu Mỹ Latinh và châu Phi.

Báo cáo cho thấy khu vực điện gió ngoài khơi sẽ tạo ra 900.000 việc làm trong thập kỷ tới – và con số này chắc chắn sẽ còn tăng lên nếu các nhà hoạch định chính sách đưa ra các chiến lược phục hồi giúp đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng của ngành. Hơn nữa, 1 GW năng lượng gió ngoài khơi đồng nghĩa chúng ta tránh được 3,5 triệu tấn CO2 – cho thấy đây là công nghệ quy mô lớn có hiệu quả nhất hiện có giúp tránh phát thải khí carbon và thay thế nhiên liệu hóa thạch tại nhiều nơi trên thế giới”.

Thị trường điện gió ngoài khơi toàn cầu mỗi năm tăng trưởng trung bình 24% kể từ năm 2013. Châu Âu vẫn là thị trường lớn nhất cho điện gió ngoài khơi tính đến cuối năm 2019, chiếm 75% tổng công suất lắp đặt toàn cầu. Châu lục này sẽ tiếp tục dẫn đầu về điện gió ngoài khơi, với mục tiêu đầy tham vọng 450 GW vào năm 2050, đến từ các dự án lắp đặt mới tại Anh, Hà Lan, Pháp, Đức, Đan Mạch và Ba Lan, với một số thị trường EU khác cũng đạt sản lượng hai chữ số.

Bắc Mỹ hiện chỉ có 30 MW công suất điện gió ngoài khơi đang hoạt động vào cuối năm 2019, nhưng khu vực này sẽ tăng tốc triển khai trong những năm tới, với 23 GW dự báo sẽ được lắp đặt vào năm 2030. Phần lớn của mức tăng trưởng này sẽ đến từ Hoa Kỳ nơi ngành công nghiệp này vừa chớm nở, và chúng ta có thể hy vọng được chứng kiến các dự án quy mô lớn sẽ hoà lưới vào năm 2024 tại quốc gia này.

Báo cáo nhấn mạnh ngành công nghiệp này phát triển sôi động ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhờ các quốc gia nâng tham vọng, dẫn đầu là Trung Quốc, với 52 GW công suất điện gió ngoài khơi mới dự kiến ​​sẽ được lắp đặt vào năm 2030. Đài Loan sẽ trở thành thị trường điện gió ngoài khơi lớn thứ hai tại châu Á sau Trung Quốc đại lục, với mục tiêu 5,5 GW vào năm 2025 và thêm 10 GW vào năm 2035. Các thị trường khác trong khu vực cũng bắt đầu mở rộng quy mô, với Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc dự kiến ​​sẽ lắp đặt lần lượt là 5,2 GW, 7,2 GW và 12 GW công suất điện gió ngoài khơi.

Thành Công
https://petrotimes.vn/dien-gio-se-dan-dau-nganh-nang-luong-toan-cau-575523.html