Lợi ích lớn khi doanh nghiệp tự tiết kiệm năng lượng

Ngoài việc giúp giảm chi phí cho phần năng lượng phục vụ sản xuất cũng như sinh hoạt, các doanh nghiệp tham gia chương trình ký hợp đồng sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả của Bộ Công Thương sẽ nhận rất nhiều lợi ích khác như quảng bá thương hiệu, tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm.

Được hỗ trợ nhiều mặt

Việc tiết giảm năng lượng thông qua các hoạt động cải tiến, đổi mới công nghệ, cải thiện quy trình giám sát, quản lý đã và đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Hiện có nhiều ngành công nghiệp có tiềm năng tiết kiệm năng lượng hiệu quả khi ứng dụng công nghệ mới, dây chuyền sản xuất mới và thông qua các chương trình tư vấn sử dụng năng lượng của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương. Điển hình như sản xuất gạch ngói, gốm sứ, sản xuất giấy và bột giấy, dệt may, chế biến thực phẩm; trong đó, chí phí năng lượng trong ngành sản xuất gạch ngói chiếm từ 45-50% giá thành.

Theo ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm năng lượng Tp. Hồ Chí Minh, khi ký kết hợp đồng thỏa thuận tự nguyện về sử dụng tiết kiệm năng lượng, các doanh nghiệp sẽ hưởng nhiều lợi ích lâu dài và bền vững. Điển hình như doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ 100% chi phí kiểm toán năng lượng, các nhu cầu đầu tư, đổi mới công nghệ cũng được Bộ Công Thương xem xét trong các gói hỗ trợ của chương trình.

Ngoài ra, các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ về kĩ thuật, quảng bá thương hiệu, kiểm toán năng lượng, xác định các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Trong quá trình thực hiện, khi có kết quả tốt doanh nghiệp được cấp chứng nhận tham gia chương trình này. Đây chính là điều kiện tốt để các doanh nghiệp “ghi điểm” về bảo vệ môi trường, giảm thải khí nhà kính khi có nhu cầu xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường khó tính.

Khi các doanh nghiệp tham gia ký kết hợp đồng tiết kiệm năng lượng theo các dự án của Bộ Công Thương, doanh nghiệp sẽ được Ngân hàng Thế giới tài trợ nguồn kinh phí đầu tư như hỗ trợ vay vốn 200 triệu USD và thưởng tối đa 30% khoản vốn vay khi tiết kiệm nguồn năng lượng như đã thỏa thuận.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng được hỗ trợ 50% kinh phí thực hiện kiểm toán năng lượng/doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có mức tiêu thụ 3 triệu kWh/năm trở lên và hỗ trợ 50% kinh phí tư vấn khi triển khai áp dụng mô hình quản lý năng lượng, ông Lê Phú Hưng, Phó Vụ trưởng Vụ tiết kiệm Năng lượng, Bộ Công Thương cho biết.

Nâng cao khả năng cạnh tranh

Các dự án, chương trình thỏa thuận tiết kiệm năng lượng không những giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất mà còn tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đây là con đường để các doanh nghiệp khẳng định chỗ đứng trong xu thế hội nhập hiện nay.

Theo đại diện Công ty cổ phần Lương thực thực phẩm Miliket – Colusa, hiện nay nhờ việc theo dõi chặt chẽ điện năng tiêu thụ tại hệ thống lò hơi, các thiết bị sử dụng hơi, các dây chuyền sản xuất mì, phở và có những giải pháp khắc phục kịp thời nên mức tiêu thụ năng lượng tại khu vực này giảm nhiều, chỉ còn 59 kWh/tấn sản phẩm, thay vì 64 kWh/tấn sản phẩm như trước đây. Sự tiết giảm này cũng giúp cho giá thành sản phẩm của công ty thấp hơn, dễ cạnh tranh hơn so với nhiều sản phẩm cùng loại khác.

Với doanh nghiệp chế biến thủy hải sản, hệ thống làm lạnh phục vụ cho sản xuất và dự trữ chiếm khoảng 70% tổng năng lượng tiêu thụ. Do đó, thời gian qua, doanh nghiệp từng bước thay thế thiết bị cũ, lạc hậu, tiêu tốn điện năng bằng thiết bị mới có khả năng tiết kiệm điện.

Đối với hệ thống chiếu sáng, doanh nghiệp ưu tiên sử dụng hệ thống đèn Led tại các dây chuyền sản xuất, nhà kho, nhà xưởng… Những cải tiến này giúp doanh nghiệp giảm 8% điện năng tiêu thụ so với năm 2014.

Ngoài ra, doanh nghiệp còn ứng dụng hệ thống điều hòa trung tâm, thường xuyên kiểm tra các thiết bị vận hành trong quy trình sản xuất và kịp thời xử lý nhanh chóng các sự cố gây tổn thất điện năng, ông Nguyễn Quốc Trí, Trưởng phòng Kỹ thuật, Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Sông Hậu cho biết.

Theo ông Huỳnh Kim Tước, khi doanh nghiệp tham gia ký kết hợp đồng sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, tuân thủ đúng quy trình tư vấn sử dụng năng lượng có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm từ 5-8% điện năng, điều này cũng đồng nghĩa giúp doanh nghiệp giảm từ 5-8% giá thành sản phẩm. Từ đó, các doanh nghiệp này có thể nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và thế giới.

Trong năm 2014, cả nước tiêu thụ gần 149 tỷ kWh điện cho sản xuất và sinh hoạt; trong đó địa bàn Tp. Hồ Chí Minh chiếm 29 tỷ kWh. Khi các doanh nghiệp đồng loạt tham gia sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả sẽ giúp lượng điện tiêu thụ của cả nước có xu hướng giảm, cũng đồng nghĩa với giảm chi phí cho các chương trình bảo vệ môi trường, giảm thiểu khí thải nhà kính, mang lại lợi ích lớn trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Theo tietkiemnangluong.com.vn 

Bình Thuận: Tổ chức phản biện 05 báo cáo đánh giá nhanh sản xuất sạch hơn được hỗ trợ năm 2015

Ngày 10/12/2015 Trung tâm Khuyến công đã phối hợp với Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Tài nguyên và Môi trường thuộc Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Tp.Hồ Chí Minh (Đơn vị tư vấn) tổ chức buổi làm việc với 04 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận được hỗ trợ đánh giá sản xuất sạch hơn trong năm 2015.

Tham dự buổi làm việc về phía Trung tâm Khuyến công có Ông Phạm Phú Xuân – Phó Giám đốc và các học viên của Trung tâm tham gia lớp đào tạo nâng cao cán bộ tuyên truyền & đánh giá sản xuất sạch hơn năm 2015 và thực hành đánh giá về sản xuất sạch hơn tại nhà máy của 05 doanh nghiệp được hỗ trợ đánh giá SXSH; Về phía Đơn vị tư vấn có Bà Nguyễn Thị Truyền – Giám đốc Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Tài nguyên và Môi trường – Chuyên gia sản xuất sạch hơn và sự hiện diện của lãnh đạo và nhân viên kỹ thuật 04 doanh nghiệp là: Công ty TNHH Nước đá Ngọc Mai, Công ty TNHH Hưng Thịnh, Hộ kinh doanh Pha Lê và Công ty CP Muối Vĩnh Hảo.

Qua buổi làm việc Bà Nguyễn Thị Truyền – Chuyên gia sản xuất sạch hơn trình bày 04 Báo cáo đánh giá nhanh về sản xuất sạch hơn tại Nhà máy sản xuất nước đá của Hộ kinh doanh Pha Lê, Công ty TNHH Hưng Thịnh, Công ty TNHH Nước đá Ngọc Mai và Nhà máy chế biến muối của Công ty CP Muối Vĩnh Hảo; 04 doanh nghiệp tham dự tham gia cho ý kiến phản biện và đưa ra các câu hỏi thắc mắc như: đối với ngành sản xuất nước đá viên thì có cần xử lý nước bằng công nghệ RO trước khi đưa vào máy sản xuất nước đá không? Có nên làm lạnh nước đầu vào trước khi sản xuất nước đá hay không và nếu có thì tiết kiệm được năng lượng điện nhiều hay ít khi sản xuất nước đá? Tại sao phải khử độ cứng của nước đầu vào trước khi đưa vào sản xuất nước đá?,…Theo đó, các câu hỏi phản biện đặt ra đã được chuyên gia sản xuất sạch hơn Nguyễn Thị Truyền đã giải thích một cách thuyết phục và 04 doanh nghiệp đã thống nhất với Báo cáo đánh giá về sản xuất sạch hơn của đơn vị mình mà chuyên gia đã dự thảo.

Theo sxsh.vn

Nam Định: Sản xuất sạch hơn thúc đẩy phát triển bền vững

Hơn lúc nào hết, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) công nghiệp đang trở thành yêu cầu bức thiết. Nhiều chuyên gia cho rằng, để thực hiện điều này, các DN cần mở rộng áp dụng mô hình sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp.

 Tại tỉnh Nam Định, năm 2014, tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 9,69%, trong đó dệt may, cơ khí, chế biến thực phẩm… được xem là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh. Nhiều DN đã chủ động đổi mới công nghệ, áp dụng các công cụ quản lý, các giải pháp SXSH vào sản xuất.Tiêu biểu như Công ty CP May Sông Hồng từ năm 2012 đã chủ động di dời nhà xưởng từ nội thành Nam Định ra Khu công nghiệp Mỹ Trung, xã Mỹ Tân (Mỹ Lộc) và đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống nhà xưởng, thiết bị máy móc theo hướng hiện đại với tổng vốn đầu tư 300 tỷ đồng. Công ty tiếp tục xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và hệ thống trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA-8000 và WRAP, hệ thống an ninh nhà máy theo tiêu chuẩn C-TPAT của Mỹ. Chủ động hướng đến mục tiêu đạt thẻ xanh quốc tế về môi trường xanh – sạch trong sản xuất để hội nhập bền vững, công ty đã đầu tư hơn 4 tỷ đồng xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt và xử lý nước thải sản xuất tại Nhà máy May Sông Hồng 4, thị trấn Xuân Trường (Xuân Trường). Hiện nay, công ty đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại khu sản xuất xã Hải Phương (Hải Hậu) và đang tiếp tục triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải ở tất cả các khu vực sản xuất với mục tiêu tạo môi trường làm việc xanh – sạch – đẹp.

Công ty CP Bia NaDa là một trong những DN tiên phong của tỉnh ứng dụng chương trình SXSH trong toàn bộ quá trình sản xuất. Theo đó, công ty đã lắp đặt hệ thống thu hồi nước ngưng và tuần hoàn trở lại nồi hơi, tái sử dụng xút trong quá trình nấu bia và rửa chai bia, góp phần giảm lượng chất thải ra môi trường, tiết kiệm xút. Nhằm giảm lượng nước tiêu thụ, tổn thất bia tại khâu bão hòa do CO2 bị quá áp làm trào bia theo đường xả áp, DN đã tiến hành kiểm tra, sửa chữa các đường ống, van, vòi bị rò rỉ, lắp đặt thùng chứa trung gian và thiết bị tách bia để thu hồi lượng bia chảy tràn, áp dụng công nghệ chiết bom tự động. Đồng thời, việc áp dụng các giải pháp tiết kiệm triệt để các nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất như lắp tụ bù, biến tần cho động cơ làm lạnh đã giúp công ty tiết kiệm từ 5-10% chi phí điện năng, toàn bộ nước thải trong quá trình sản xuất đều được điều tiết qua trạm xử lý nước thải công suất 800m3/ngày đêm. Đặc biệt, công ty đã chuyển đổi lò hơi đốt than thay cho lò hơi đốt dầu để tiết kiệm 1/3 chi phí sử dụng nhiên liệu vận hành lò hơi.

Tại Công ty TNHH Đúc thép Thắng Lợi (Nam Định), ngoài đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại và đồng bộ của châu Âu, công ty đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và phương pháp quản lý 5S để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Phương pháp quản lý 5S đã giúp ngăn chặn sự xuống cấp của nhà xưởng, tạo sự thông thoáng cho nơi làm việc, tạo môi trường làm việc ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng, do đó năng suất lao động của công ty đã được nâng lên 1,5-2 lần, tương đương với 1.200 tấn sản phẩm/năm; tỷ lệ sản phẩm lỗi giảm từ 5% xuống còn 1,5%, nhờ đó mỗi năm công ty tiết kiệm được từ 3,5-4 tỷ đồng, đem lại lợi ích kinh tế, môi trường không nhỏ.

Theo sxsh.vn

Sản xuất sạch hơn thúc đẩy phát triển bền vững

Hơn lúc nào hết, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) công nghiệp đang trở thành yêu cầu bức thiết. Nhiều chuyên gia cho rằng, để thực hiện điều này, các DN cần mở rộng áp dụng mô hình sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp. 

Sản xuất sạch hơn thúc đẩy phát triển bền vững

Tại tỉnh Nam Định, năm 2014, tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 9,69%, trong đó dệt may, cơ khí, chế biến thực phẩm… được xem là ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh. Nhiều DN đã chủ động đổi mới công nghệ, áp dụng các công cụ quản lý, các giải pháp SXSH vào sản xuất.

Tiêu biểu như Công ty CP May Sông Hồng từ năm 2012 đã chủ động di dời nhà xưởng từ nội thành Nam Định ra Khu công nghiệp Mỹ Trung, xã Mỹ Tân (Mỹ Lộc) và đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống nhà xưởng, thiết bị máy móc theo hướng hiện đại với tổng vốn đầu tư 300 tỷ đồng. Công ty tiếp tục xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và hệ thống trách nhiệm xã hội theo tiêu chuẩn SA-8000 và WRAP, hệ thống an ninh nhà máy theo tiêu chuẩn C-TPAT của Mỹ. Chủ động hướng đến mục tiêu đạt thẻ xanh quốc tế về môi trường xanh – sạch trong sản xuất để hội nhập bền vững, công ty đã đầu tư hơn 4 tỷ đồng xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt và xử lý nước thải sản xuất tại Nhà máy May Sông Hồng 4, thị trấn Xuân Trường (Xuân Trường). Hiện nay, công ty đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại khu sản xuất xã Hải Phương (Hải Hậu) và đang tiếp tục triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải ở tất cả các khu vực sản xuất với mục tiêu tạo môi trường làm việc xanh – sạch – đẹp.

Công ty CP Bia NaDa là một trong những DN tiên phong của tỉnh ứng dụng chương trình SXSH trong toàn bộ quá trình sản xuất. Theo đó, công ty đã lắp đặt hệ thống thu hồi nước ngưng và tuần hoàn trở lại nồi hơi, tái sử dụng xút trong quá trình nấu bia và rửa chai bia, góp phần giảm lượng chất thải ra môi trường, tiết kiệm xút. Nhằm giảm lượng nước tiêu thụ, tổn thất bia tại khâu bão hòa do CO2 bị quá áp làm trào bia theo đường xả áp, DN đã tiến hành kiểm tra, sửa chữa các đường ống, van, vòi bị rò rỉ, lắp đặt thùng chứa trung gian và thiết bị tách bia để thu hồi lượng bia chảy tràn, áp dụng công nghệ chiết bom tự động. Đồng thời, việc áp dụng các giải pháp tiết kiệm triệt để các nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất như lắp tụ bù, biến tần cho động cơ làm lạnh đã giúp công ty tiết kiệm từ 5-10% chi phí điện năng, toàn bộ nước thải trong quá trình sản xuất đều được điều tiết qua trạm xử lý nước thải công suất 800m3/ngày đêm. Đặc biệt, công ty đã chuyển đổi lò hơi đốt than thay cho lò hơi đốt dầu để tiết kiệm 1/3 chi phí sử dụng nhiên liệu vận hành lò hơi.

Tại Công ty TNHH Đúc thép Thắng Lợi (Nam Định), ngoài đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại và đồng bộ của châu Âu, công ty đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và phương pháp quản lý 5S để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Phương pháp quản lý 5S đã giúp ngăn chặn sự xuống cấp của nhà xưởng, tạo sự thông thoáng cho nơi làm việc, tạo môi trường làm việc ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng, do đó năng suất lao động của công ty đã được nâng lên 1,5-2 lần, tương đương với 1.200 tấn sản phẩm/năm; tỷ lệ sản phẩm lỗi giảm từ 5% xuống còn 1,5%, nhờ đó mỗi năm công ty tiết kiệm được từ 3,5-4 tỷ đồng, đem lại lợi ích kinh tế, môi trường không nhỏ.

Theo Thu Hường – ven.vn

Ngành than trên chặng đường sản xuất “sạch”

Song song với phát triển khai thác, sản xuất, kinh doanh than, công tác bảo vệ môi trường luôn được Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) coi trọng và có định hướng phát triển bền vững bằng việc triển khai đồng bộ, tổng thể nhiều giải pháp bảo vệ môi trường, vì mục tiêu sản xuất ngày càng “sạch” hơn.

Xây dựng cơ chế, bố trí nguồn lực bảo vệ môi trường

Để có nguồn vốn thực hiện các dự án, công trình khắc phục ô nhiễm môi trường do quá trình khai thác khoáng sản trước đây để lại và xử lý, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường mới phát sinh, TKV đã thành lập Quỹ môi trường tập trung bằng 1% – 1,5% chi phí sản xuất, đồng thời cho phép các đơn vị thành viên trực tiếp chi 0,3% – 0,5% chi phí sản xuất cho các hoạt động bảo vệ môi trường thường xuyên.

TKV cũng đã xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường trong nội bộ (gồm: Quy chế bảo vệ môi trường, quy chế sử dụng quỹ môi trường tập trung, cơ chế ưu tiên sử dụng dịch vụ của các đơn vị làm công tác bảo vệ môi trường trong TKV…) làm cơ sở pháp lý cho các hoạt động bảo vệ môi trường, tạo điều kiện để chuyên môn hóa, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trong toàn TKV.

Hệ thống chỉ đạo, quản lý công tác môi trường trong TKV được xây dựng và phát triển. Cấp Tập đoàn có Ban Môi trường; tại các đơn vị thành viên có bộ phận môi trường chuyên trách và đều phân công 1 đồng chí lãnh đạo phụ trách công tác bảo vệ môi trường. Để có lực lượng chuyên nghiệp nắm vững thực tế sản xuất làm nòng cốt thực hiện các công tác bảo vệ môi trường, TKV đã thành lập các đơn vị chuyên ngành làm công tác bảo vệ môi trường (Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ, Môi trường; Công ty TNHH MTV Môi trường; Công ty Cổ phần Xây lắp môi trường Nhân Cơ).

Hàng năm, nguồn kinh phí của TKV dành cho công tác bảo vệ môi trường tương đối lớn. Tổng chi phí cho công tác bảo vệ môi trường hàng năm của TKV đến nay gần 1.000 tỷ đồng, trong đó 70% dành cho đầu tư các công trình bảo vệ môi trường, 30% dành cho các công việc bảo vệ môi trường thường xuyên.

Song song với đó, TKV thường xuyên mở các lớp tập huấn nâng cao hiểu biết, nhận thức về bảo vệ môi trường cho cán bộ quản lý và cán bộ làm công tác bảo vệ môi trường. TKV cũng đã triển khai hợp tác trong và ngoài nước nghiên cứu công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, như: Rame (Đức), Mireco (Hàn Quốc) và Jogmec (Nhật Bản).

Triển khai các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa ô nhiễm

Trong những năm qua, TKV đã cải tạo, phục hồi môi trường được trên 800 ha bãi thải, khai trường đã kết thúc khai thác và phấn đấu đến năm 2020 sẽ cơ bản hoàn thành việc cải tạo, phục hồi môi trường, cảnh quan các khu vực bãi thải gần khu dân cư, đô thị. Đối với những bãi thải đang hoạt động, TKV chỉ đạo các đơn vị thực hiện đổ thải tầng thấp theo đúng thiết kế để ngăn ngừa nguy cơ sạt lở bãi thải, giảm phát sinh bụi, giảm chi phí cải tạo, phục hồi môi trường sau này. Ngoài ra, TKV cũng đã xây dựng 12 đập chắn đất, đá lớn tại các vị trí tụ nước chân các bãi thải để chống trôi, sạt đảm bảo an toàn cho dân cư.

Đến hết năm 2014, TKV đã hoàn thành xây dựng và đưa vào vận hành 40 trạm xử lý nước thải mỏ than và khoáng sản. Hiện đang tiếp tục triển khai xây dựng tiếp 12 trạm, để đến hết năm 2015 sẽ có khoảng 52 trạm xử lý nước thải mỏ, đảm bảo nước sau khi được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường, được tái sử dụng tối đa cho nhu cầu sản xuất, sinh hoạt.

Trước những khó khăn trong việc xử lý các chất thải rắn, đặc biệt là chất thải nguy hại, TKV đã đầu tư 1 nhà máy xử lý tại Cẩm Phả và đang tiếp tục nghiên cứu, đầu tư giai đoạn 2 của nhà máy để xử lý các chất thải khó phân hủy, như: cao su, polyme… Hiện nay, toàn bộ chất thải nguy hại phát sinh trong sản xuất của TKV tại Quảng Ninh được thu gom, xử lý, tái chế tập trung đảm bảo tiêu chuẩn môi trường; sản phẩm sau xử lý được thu hồi tối đa phục vụ cho sản xuất và cung cấp cho các ngành kinh tế khác. Những chất thải rắn thông thường khác được thu gom, đổ thải theo đúng quy hoạch, thiết kế và đúng quy định.

Để giảm thiểu công tác phát tán bụi trong quá trình vận chuyển than, TKV tập trung xây dựng các tuyến đường vận chuyển chuyên dùng. Từ năm 2008, TKV đã chấm dứt vận chuyển than trên các tuyến quốc lộ, từ năm 2013 chỉ vận chuyển than ra cảng bằng ô tô vào ban ngày. Cùng với đó, TKV đã đầu tư 06 tuyến băng tải thay thế ô tô vận chuyển than ra các cảng và đến các nhà máy nhiệt điện. Cùng với đó, TKV cũng đã đầu tư các hệ thống phun sương dập bụi, tường chắn, từng bước kiên cố hóa nền các bãi khu vực sàng tuyển, kho chứa than; xây dựng thử nghiệm 02 trạm rửa xe ô tô, 04 trạm rửa toa xe; thu dọn vật liệu rơi vãi, tưới nước chống bụi bằng ô tô, phủ bạt trên các phương tiện vận chuyển.

Một trong những những việc làm thiết thực, được cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Ninh ghi nhận, đó là ngành than đã chủ động quy hoạch, sắp xếp lại các công trình sản xuất, di dời các nhà máy ra khỏi khu vực đô thị, đông dân cư, như: di dời nhà máy cơ khí Hòn Gai, cơ khí Cẩm Phả, nhà máy tuyển than Hòn Gai, kho than I, II, III tại TP Hạ Long, cảng xuất than Hòn Gai, đường sắt Hà Lầm – Hòn Gai, đường sắt Cột 8 – Hòn Gai…

Hướng đến mục tiêu thành ngành sản xuất “sạch”

Với mục tiêu sản xuất sạch hơn, dự kiến trong giai đoạn 2015 – 2020, TKV sẽ dành từ 1.130 – 1.370 tỷ đồng cho công tác bảo vệ môi trường hàng năm, tăng gấp đôi so với nguồn kinh phí mà ngành than đã bỏ ra trong năm 2010. Như vậy, ngành than đã biết chú trọng hơn trong công tác bảo vệ môi trường, phát triển sản xuất một cách bền vững.

Dự kiến trong giai đoạn tới, bên cạnh đẩy mạnh áp dụng công nghệ khai thác cơ giới hóa như: cột chống thủy lực, dàn chống thủy lực, máy khấu… trong khai thác mỏ than hầm lò; đổi mới đồng bộ thiết bị khai thác than lộ thiên theo hướng hiện đại, công suất lớn, góp phần tăng năng suất, tiết kiệm năng lượng tiêu hao, ngành than tiếp tục đầu tư xây dựng đập chắn đất đá tại chân các bãi thải mỏ; nạo vét, cải tạo hệ thống suối thoát nước; tăng cường phủ xanh các vùng đất trống nhằm hạn chế xói mòn.

Ngành than cũng sẽ tiếp tục đầu tư các tuyến băng tải, phấn đấu đến năm 2020 sẽ thay thế hoàn toàn việc vận chuyển than ngoài mỏ đến các cảng và nhà máy nhiệt điện trên địa bàn tỉnh nhằm hạn chế phát sinh bụi, tiếng ồn, khí thải ra môi trường. TKV đầu tư mở rộng, nâng cấp, đổi mới công nghệ các trạm xử lý nước thải mỏ, nhà máy xử lý chất thải nguy hại và các công trình bảo vệ môi trường khác theo yêu cầu phát triển sản xuất; đầu tư thiết bị lọc ép bùn công suất lớn tại các nhà máy sàng tuyển để tăng tỷ lệ thu hồi khoáng sản, tăng lượng nước sử dụng tuần hoàn, giảm xả thải ra môi trường.

Với những nỗ lực của mình, TKV đang từng bước hướng đến mục tiêu trở thành ngành sản xuất “sạch”, phát triển hài hòa, thân thiện với môi trường và cộng đồng, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh Quảng Ninh trên chặng đường dài phía trước.

Theo sxsh.vn

Việt Nam và những cam kết ở COP-21

Hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP-21) diễn ra từ ngày 30-11 đến 11-12 tại Paris đặt mục tiêu đi đến một hiệp định quốc tế về khí hậu có hiệu lực từ năm 2020, nhằm giới hạn nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng không quá 20C vào cuối thế kỷ 21.

Biến đổi khí hậu gây hạn hán ở Ninh Thuận -Thuận Thắng
Biến đổi khí hậu gây hạn hán ở Ninh Thuận -Thuận Thắng

Để chuẩn bị cho việc xây dựng dự thảo hiệp định quốc tế về khí hậu này, các quốc gia được yêu cầu trình nộp báo cáo “Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định” (INDC) cho Ban thư ký Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), trong đó thể hiện cam kết pháp lý trong việc cắt giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn sau năm 2020.

Việt Nam cần tham vọng hơn

Báo cáo INDC của Việt Nam đưa ra các đóng góp dự kiến trong hai hợp phần chính là cắt giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu. Các đóng góp dự kiến trong hợp phần cắt giảm phát thải khí nhà kính tập trung vào lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp, quản lý chất thải.

Riêng đối với lĩnh vực năng lượng, các hoạt động giảm phát thải bao gồm các quá trình đốt nhiên liệu, cụ thể là công nghiệp sản xuất năng lượng, công nghiệp chế biến, xây dựng, giao thông và các dịch vụ về dân dụng, nông nghiệp, thương mại.

Các đóng góp về thích ứng với biến đổi khí hậu tập trung vào nông nghiệp, tài nguyên nước, lâm nghiệp ở vùng đồng bằng, ven biển, đồi núi và đô thị nhằm giúp tăng khả năng chống chịu, tạo điều kiện để có thể đóng góp nhiều hơn cho giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Về chỉ tiêu cắt giảm phát thải, INDC của Việt Nam thể hiện rằng bằng nguồn lực trong nước, Việt Nam cam kết giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường vào năm 2030. Tuy nhiên, Việt Nam có thể giảm tiếp đến 25% nếu nhận được sự hỗ trợ quốc tế từ các hợp tác song phương và đa phương.

Theo ông Nguyễn Khắc Hiếu – phó cục trưởng Cục Khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và môi trường), tổ trưởng xây dựng INDC, trong tổng dự kiến tài chính 21 tỉ USD Việt Nam chỉ có thể bố trí 3,2 tỉ USD để hoàn thành mục tiêu 25% này, phần còn lại (17,8 tỉ USD) cần quốc tế hỗ trợ.

Bảng tổng hợp các cam kết cắt giảm phát thải của các quốc gia ASEAN (xem bảng đính kèm) cho thấy một số quốc gia đặt mục tiêu cao, như Thái Lan 20%, Indonesia 26%, Campuchia 36,5% và đặc biệt Philippines cam kết cực kỳ mạnh mẽ với 70%.

Tại hội thảo “Hành động về biến đổi khí hậu của Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam” do phái đoàn EU tại Việt Nam đồng tổ chức với đại sứ quán các nước Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh ngày 21-11-2015, ông Bruno Angelet – đại sứ, trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam – phát biểu:

EU muốn khuyến khích Việt Nam cam kết một mục tiêu khí hậu tham vọng hơn cho Paris COP-21 so với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính hiện thời là 8%”. Để hỗ trợ và khuyến khích Việt Nam cam kết về một mục tiêu cao hơn, EU rất trông đợi và sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam lồng ghép các hành động giảm nhẹ, ứng phó cụ thể vào những kế hoạch hành động của mình, trong đó một trong những ưu tiên của EU là hỗ trợ Việt Nam cải cách ngành năng lượng.

EU và Chính phủ Việt Nam đang xúc tiến thảo luận các vấn đề liên quan tới cơ chế thị trường, cơ chế định giá, trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch và đánh giá sự độc quyền.

Giải pháp nào để tăng 
mục tiêu cắt giảm phát thải?

Theo Bộ Tài nguyên và môi trường, Việt Nam xem ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Tuy nhiên, mục tiêu cắt giảm 8% phát thải không điều kiện của Việt Nam dường như chưa tương xứng với việc góp phần giảm nhẹ hậu quả tác động của biến đổi khí hậu trước hết cho chính mình, như EU đã khuyến cáo.

Có hai điều cực kỳ quan trọng mà báo cáo INDC không tập trung sâu vào, đó là khả năng cắt giảm phát thải trong ngành sản xuất năng lượng và huy động tài chính tư nhân cho việc cắt giảm phát thải.

Theo ước tính của Bộ Tài nguyên và môi trường, trong kịch bản phát triển thông thường, phát thải khí nhà kính của chỉ riêng việc đốt nhiên liệu trong ngành sản xuất năng lượng (nhiệt điện) của Việt Nam đã chiếm đến 31,1% tổng phát thải khí nhà kính năm 2020 và lên đến 51% tổng phát thải khí nhà kính năm 2030, chủ yếu đến từ nguồn nhiệt điện than.

Do vậy, có thể thấy tiềm năng cắt giảm phát thải trong sản xuất năng lượng của Việt Nam là vô cùng lớn. Nếu chỉ giảm phát thải thêm 20% trong ngành sản xuất năng lượng như là mức tự nguyện giảm phát thải năm 2030 theo Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thì đã dẫn đến giảm phát thải thêm 10,2% trong toàn bộ phát thải khí nhà kính của Việt Nam năm 2030, lúc đó mức giảm phát thải không điều kiện của Việt Nam đã nâng lên 18,2%.

Tiếc rằng báo cáo INDC của Việt Nam đã bỏ qua điều này. Việc cắt giảm phát thải trong ngành sản xuất năng lượng có thể được thực hiện thông qua việc nâng cao hiệu suất của các nhà máy nhiệt điện than hiện hữu, sử dụng than sạch hơn và lựa chọn công nghệ nhiệt điện than hiệu suất cao khi đầu tư mới, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc phát triển năng lượng tái tạo để thay thế nhiệt điện.

Về vấn đề tài chính, báo cáo INDC của Việt Nam chỉ đề cập đến nguồn lực nội tại mang tính chất đầu tư công của Việt Nam và các hỗ trợ quốc tế thông qua hợp tác song phương, đa phương mà bỏ quên nguồn tài chính tư nhân.

Theo báo cáo Bối cảnh toàn cầu về tài chính khí hậu năm 2015 do Sáng kiến chính sách khí hậu (Climate Policy Inititative) công bố tháng 11-2015, tổng hợp các nguồn tài chính đầu tư cho khí hậu trong giai đoạn năm 2012-2014 là 391 tỉ USD, trong đó tài chính tư nhân đóng góp đến 243 tỉ USD, chiếm 62% trong tổng số các nguồn tài chính huy động, chủ yếu đầu tư vào các giải pháp nhằm hỗ trợ cắt giảm phát thải khí nhà kính là phát triển năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng.

Với Việt Nam, tiềm năng đầu tư vào năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng là vô cùng lớn, nhưng việc huy động nguồn vốn tư nhân đến nay vẫn còn cực kỳ hạn chế, chủ yếu do những rào cản về pháp lý.

Với việc hoàn thiện khung pháp lý nhằm huy động tối đa tài chính tư nhân đầu tư vào các dự án liên quan đến công nghệ sạch, công nghệ tiết kiệm năng lượng, khi đó nguồn vốn không còn là một trở ngại để Việt Nam cam kết mạnh mẽ hơn trong việc cắt giảm phát thải khí nhà kính, thể hiện trách nhiệm cùng với cộng đồng quốc tế đóng góp vào việc giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam.

Nguồn: Tác giả tổng hợp
Nguồn: Tác giả tổng hợp

Tác giả: Nguyễn Đăng Anh Thi

Theo tuoitre.vn