VNCPC tham gia phiên họp khởi động Hợp phần cung cấp dịch vụ và kỹ thuật cho công nghệ tái chế nhựa thí điểm tại 2 làng nghề

Ngày 6/11/2018, tại Tổng Cục môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), Ban Quản lý dự án đã tổ chức cuộc họp khởi động Hợp phần cung cấp dịch vụ và kỹ thuật cho công nghệ tái chế nhựa thí điểm tại 2 làng nghề, ở Hưng Yên. Buổi họp nhằm thống nhất các nội dung, kế hoạch thực hiện và các hoạt động điều phối, quản lý các sản phẩm của gói thầu.

Đây là gói thầu thuộc Hợp phần 3 của Dự án “Trình diễn áp dụng Phương pháp kỹ thuật tốt nhất hiện có (BAT) và Kinh nghiệm môi trường tốt nhất (BEP) trong hoạt động đốt ngoài trời nhằm thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP)”, được Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ, ủy thác thông qua Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO).

Dự án là hành động thiết thực nhằm thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Trên thế giới, hiện có 5 quốc gia gồm Campuchia, Lào, Mông Cổ, Philippines và Việt Nam được UNIDO lựa chọn là nơi triển khai thực hiện.

Dự án là hành động thiết thực nhằm thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy.

Gói thầu này do liên danh gồm Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC, đơn vị chủ trì) cùng các đối tác là Công ty TNHH Vinacolour, Công ty TNHH Công nghệ Môi trường Việt Trung thực hiện tại 2 làng nghề tái chế nhựa Minh Khai và Phan Bôi (Hưng Yên), trong thời gian 2 năm (2018 – 2020).

Mục đích của gói thầu là khảo sát, nghiên cứu khả thi, xác định và áp dụng thử nghiệm giải pháp BAT/BEP nhằm cải tiến quy trình sản xuất, giảm lượng chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất đồng thời giảm phát thải các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy phát sinh không chủ định (UPOP) do các hoạt động đốt chất thải nhựa.

Các hoạt động chính của Dự án gồm:

  • Khảo sát, đánh giá xác định hiện trạng công nghệ tái chế nhựa tại 2 làng nghề
  • Đề xuất các giải pháp BAT/BEP
  • Tập huấn, chuyển giao công nghệ cho các hộ gia đình
  • Lắp đặt, thử nghiệm hai dây chuyền công nghệ mới tại hai làng nghề
  • Lắp đặt và chạy thử nghiệm dây chuyền tái chế nhựa thải tạo ra sản phẩm có ích như gạch, ngói nhựa, hàng rào nhựa, khay, máng nhựa,…
  • Đo đạc, phân tích hiệu quả kinh tế và môi trường trước và sau khi thực hiện dự án.

VNCPC

Đại sứ Thụy Sỹ tại Việt Nam làm việc với VNCPC cùng các đối tác của dự án Low carbon

Ngày 7/11, tại thành phố Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), bà Beatrice Maser Mallor – Đại sứ Thụy Sỹ tại Việt Nam và Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đã có buổi làm việc với các đối tác thực hiện dự án “Giảm thiểu chất thải công nghiệp vì một nền sản xuất các bon thấp” (Low carbon).

Dự án do Cục Kinh tế liên bang Thụy Sỹ (SECO) tài trợ thông qua Tổ chức UNIDO, với mục tiêu chung là cải thiện môi trường địa phương, giảm phát thải khí nhà kính và mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp.

Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC), Tổ chức SOFIES (Thụy Sỹ), Công ty Cơ khí Viết Hiền là những đối tác đã làm nên thành công của dự án.

Đại diện Công ty Cơ khí Viết Hiền giới thiệu về kết quả của dự án với bà Beatrice Maser Mallor – Đại sứ Thụy Sỹ tại Việt Nam.

Tại buổi làm việc, đại diện các đơn vị thực hiện dự án đã báo cáo tình hình thực hiện dự án cũng như các kết quả mà dự án đã đạt được, đặc biệt là kết quả chuyển giao thành công công nghệ nhiệt phân từ Thụy Sỹ cho Công ty Cơ khí Viết Hiền.

Hiện tại, công nghệ đã được sản xuất thành công ở quy mô công nghiệp và đã có những đơn hàng xuất khẩu hệ thống nhiệt phân đầu tiên sang các nước bạn như Brazil, Campuchia, Serbia.

Bà Đại sứ đánh giá rất cao các kết quả mà dự án đã đạt được, đặc biệt là hiệu quả mang lại của công nghệ nhiệt phân được ứng dụng trong ngành sản xuất cà phê tại Việt Nam.

Bà Đại sứ đánh giá rất cao các kết quả mà dự án đã đạt được, đặc biệt là hiệu quả mang lại của công nghệ nhiệt phân được ứng dụng trong ngành sản xuất cà phê tại Việt Nam.

Trong buổi trao đổi, bà Beatrice Maser Mallor khẳng định: Việt Nam là một trong những nước ưu tiên trong chương trình hợp tác kinh tế của Chính phủ Thụy Sỹ và sẽ tiếp tục nhận được những chương trình hỗ trợ trong việc tăng cường bảo vệ môi trường, giảm thiểu khí thải và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Ông Lê Viết Vinh – Phó Giám đốc Công ty Cơ khí Viết Hiền cho biết, công nghệ nhiệt phân sử dụng các phế phẩm nông nghiệp như vỏ cà phê, vỏ trấu, dăm gỗ… ở nhiệt độ cao trong điều kiện không có oxy sẽ sinh ra hỗn hợp khí gas trong buồng phản ứng. Hỗn hợp khí này tiếp tục được đưa vào buống đốt để đốt ở nhiệt độ cao hơn 1000 độ C để tạo ra nguồn nhiệt sạch và ổn định cho quá trình sấy quả cà phê. Sở dĩ công nghệ nhiệt phân có thể thay thế cho công nghệ đốt lạc hậu, thải nhiều khói bụi và khí thải độc hại ra môi trường là do quá trình đốt nhiệt phân không tạo khói và mùi ra môi trường xung quanh.

Bên cạnh đó, công nghệ này còn giải quyết được một vấn đề đã tồn lại lâu nay đó là mâu thuẫn giữa việc sử dụng vỏ cà phê cho mục đích sấy quả tươi hoặc cho mục đích làm phân bón cải tạo đất. Công nghệ nhiệt phân được chuyển giao thành công từ Thụy Sỹ, với việc sử dụng vỏ cà phê làm nhiên liệu tạo ra nguồn nhiệt ổn định để sấy quả cà phê. Không chỉ có vậy, quá trình nhiệt phân còn sinh ra một sản phẩm là than sinh học (biochar) được sử dụng như một loại phân bón để cải tạo đất.

Theo đó, than sinh học giúp cải thiện độ tơi xốp của đất với khả năng giữ nước rất cao, chống thất thoát, bay hơi nước hay ngấm vào tầng sâu sau khi tưới, chống xói mòn đất, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại vi khuẩn có lợi sống trong đất, thu hút và giữ nguồn dinh dưỡng để bón cho cây trồng…

Nhân dịp đến Đắk Lắk, bà Đại sứ đã tới tham quan mô hình Hệ thống nhiệt phân được lắp đặt tại Hợp tác xã Bình Minh huyện Cư M’gar. Từ năm 2016, các thành viên của hợp tác xã đã sử dụng công nghệ nhiệt phân để chủ động quá trình sấy, giúp tránh được ảnh hưởng của thời tiết mưa kéo dài trong suốt thời gian thu hoạch cà phê, từ đó mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng cà phê và bảo vệ môi trường.

Theo đại diện của VNCPC – đơn vị thực hiện dự án, trải qua hơn 4 năm triển khai, dự án đã hỗ trợ thực hiện đánh giá Hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn cho 16 nhà máy chế biến gạo và 10 công ty chế biến cà phê, giúp tiết kiệm 1,08 triệu kWh/năm, tương đương hơn 80.000 USD, cắt giảm 621 tấn CO2 thải ra môi trường mỗi năm.

VNCPC

Dự án sẵn sàng tham gia thị trường carbon của Việt Nam

Sáng kiến Chương trình PMR là một trong những công cụ được quốc tế xem là hữu hiệu để tạo động lực cho tất cả các bên tham gia các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính từ các hành động tự nguyện như NAMA, chuyển thành các cơ chế bắt buộc khi các chính sách thuế, phí, cơ chế hạn ngạch phát thải, các điều kiện về nhãn carbon, dấu vết carbon sẽ hình thành ở nhiều nơi trên thế giới.

Tổng quan về Dự án Sẵn sàng thị trường carbon toàn cầu (Partnership for Market readiness – PMR)

Sáng kiến Sẵn sàng thị trường carbon (Partnership for Market readiness – PMR) do Ngân hàng Thế giới tổ chức thực hiện đã tạo ra Diễn đàn tập hợp các ý tưởng tưởng, đề xuất kỹ thuật và nguồn lực tài chính hỗ trợ các quốc gia, khu vực nâng cao năng lực triển khai các hành động giảm phát thải khí nhà kính. Sáng kiến PMR được triển khai trong khuôn khổ Chương trình PMR toàn cầu do Ngân hàng Thế giới tài trợ, hỗ trợ các quốc gia thực hiện các nghiên cứu, đề xuất và áp dụng các chính sách thúc đẩy các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính bằng công cụ định giá carbon (carbon pricing instruments).

Chương trình PMR toàn cầu đến nay đã có trên 30 quốc gia, vùng lãnh thổ được hỗ trợ kỹ thuât và tài chính để nghiên cứu từ tiềm năng áp dụng đến việc thử nghiệm, thí điểm các công cụ thị trường như thuế, phí, thiết lập thị trường mua bán hạn ngạch phát thải carbon. Trong khuôn khổ hoạt động của Chương trình, Diễn đàn PMR toàn cầu đã thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức quốc tế, các chuyên gia kỹ thuật hợp tác giữa các quốc gia, chia sẻ thông tin, kiến thức và các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, triển khai cơ chế chính sách về giảm phát thải khí nhà kính, hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm tra, các báo cáo nghiên cứu về xây dựng và triển khai thị trường carbon toàn cầu,…. Chi tiết tham khảo tại website: https://thepmr.org.

Định giá carbon – vấn đề trọng tâm trong các nghiên cứu của PMR ở các quốc gia

Việc định giá carbon thông qua các công cụ tài chính như thuế, mua bán carbon được xem là một trong biện pháp hiệu quả thúc đẩy hoạt động giảm phát thải khí nhà kính ở các quốc gia, khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Nhiều chính phủ các quốc gia trong khuôn khổ Chương trình PMR đã theo đuổi các nghiên cứu chính sách định giá carbon và lồng ghép vào chiến lược giảm nhẹ phát thải khí nhà kính quốc gia. Chương trình PMR đã cam kết hỗ trợ các Chính phủ thiết kế và thực thi các chính sách về định giá carbon, bao gồm hệ thống mua bán carbon (ETS – Emission Trading Scheme), carbon taxes và cơ chế tạo tín chỉ (Crediting) và cơ chế bù trù (offset). Một số nghiên cứu điển hình và kết quả triển khai Dự án PMR ở các quốc gia cụ thể như sau:

Argentina: Nghiên cứu khả năng thiết lập hệ thống mua bán chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính từ phát triển năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, từ đó sẽ triển khai chính sách thuế carbon tại quốc gia này.

Costa Rica hiện nay đang nghiên cứu xây dựng thị trường carbon nội địa thông qua việc thúc đẩy, khuyến khích các hành động tự nguyện, tiếp cận đến thực thi các quy định, hướng dẫn của chương trình. Với sự hỗ trợ của PMR, Costa Rica đã tái khởi động lại chương trình chuyển đổi carbon, tập trung nghiên cứu cơ chế bù trừ, từ đó sẽ thiết kế chương trình mua bán tự nguyện, giai đoạn đầu sẽ thí điểm ở một số ngành công nghiệp.

Chile: Đã ban hành thuế carbon đối với các một số loại nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu, khí và áp thuế đối với một số nguồn thải lớn như các nhà máy nhiệt điện, tuy nhiên, mức thuế hiện tại còn thấp (5$/tấn CO2). Chính phủ Chile đang nghiên cứu tăng mức thuế carbon và giảm các loại thuế khác có liên quan như thuế môi trường, từ đó dần hình thành hệ thống mua bán carbon ETS ở trong nước.

Ấn Độ: Đã và đang vận hành hệ thống đăng ký các công cụ thị trường (Market Based Instrument – MBIs), nghiên cứu các cơ chế để đạt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính quốc gia và các ngành. Trong ngắn hạn, Ấn Độ dự kiến áp dụng công cụ định giá carbon đối với lĩnh vực quản lý chất thải.

Trung Quốc: Là quốc gia có nhiều bước tiến trong nghiên cứu và vận hành thị trường mua bán carbon nội địa. Trung Quốc đã công bố hệ thống ETS tháng 12 năm 2017, giai đoạn ban đầu đã triển khai thí điểm một tỉnh, thành phố lớn tại Trung Quốc bao gồm Bắc Kinh, Thượng Hải, Thẩm Quyến,…thí điểm vận hành đối với lĩnh vực sản xuất điện, với sự tham gia chủ yếu của các doanh nghiệp nhà nước.

Một số nội dung nghiên cứu trọng tâm của Dự án PMR của Việt Nam (VNPMR – Vietnam Partnership for Market Readiness’Project)

Dự án VNPMR đã được Đại Hội đồng PMR của Ngân hàng Thế giới phê duyệt vào tháng 8 năm 2014. Sau một thời gian chuẩn bị và hoàn thiện các tài liệu, thủ tục nội bộ theo quy định của pháp luật, Dự án VNPMR đã được Chính phủ phê duyệt năm 2017 và chính thức triển khai thực hiện từ năm 2018 đến tháng 6 năm 2020, do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, cùng với sự tham gia của các Bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng tham gia thực hiện các hợp phần nghiên cứu của các ngành/lĩnh vực, cụ thể:

– Hợp phần của các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiến hành các nghiên cứu đề xuất và xây dựng một số chính sách, công cụ quản lý nhà nước liên quan đến thị trường carbon.

– Hợp phần do Bộ Xây dựng quản lý sẽ thiết lập cơ sở dữ liệu về phát thải khí nhà kính, công cụ thị trường các-bon và lộ trình tham gia thị trường các-bon trong lĩnh vực chất thải rắn.

– Hợp phần do Bộ Công Thương chủ trì dự kiến nghiên cứu xây dựng và triển khai thí điểm NAMA tạo tín chỉ các-bon, hệ thống báo cáo các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và đề xuất lộ trình tham gia thị trường các-bon trong lĩnh vực sản xuất thép.

Hiện nay, Dự án VNPMR đang trong giai đoạn tuyển tư vấn để tham gia thực hiện các nghiên cứu do Ban quản lý dự án đặt hàng. Dự kiến các nghiên cứu sẽ được thực hiện đồng thời trong giai đoạn 2019-2020. Cũng trong giai đoạn này, Ban quản lý Dự án sẽ tổ chức nhiều hoạt động hội nghị, hội thảo, đào tạo tập huấn cho các bên liên quan, trang bị các kiến thức cơ bản đến chuyên sâu trong việc thiết kế, vận hành các cơ chế thị trường mới về giảm phát thải, các công cụ tài chính định giá carbon như thuế, phí, cơ chế mua bán, bù trừ, hạn ngạch phát thải,…Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Dự án sẽ báo cáo Chính phủ xem xét lựa chọn các đề xuất chính sách liên quan đến định giá carbon để ban hành và tổ chức thực hiện trong giai đoạn Việt Nam triển khai Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDCs – National Determined Contributions).

Những nội dung chính của sáng kiến PMR và một số vấn đề cần quan tâm đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, các quốc gia trên thế giới và các tổ chức quốc tế đã và đang có nhiều nghiên cứu, định hướng chính sách lớn ở cấp độ từ quốc gia, khu vực đến toàn cầu về vấn đề giảm phát thải khí nhà kính. Các sáng kiến thúc đẩy các nỗ lực giảm phát thải đã được hình thành từ rất sớm, Kế hoạch hành động giảm phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMA – Nationally Appropriate Mitigation Actions) là một trong những sáng kiến cụ thể hóa các hành đông chính sách từ cấp độ quốc gia, được hình thành từ năm 2007 tại Hội nghị Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 13 tại Indonesia (COP13) và được cụ thể tại Kế hoạch hành động Bali. Kế hoạch này đã nhận được sự hưởng ứng của nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới.

Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, các nước mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu và kêu gọi hỗ trợ quốc tế để thực hiện. Các Hội nghi sau COP13 đến COP15, các cuộc thảo luận, đàm phán trong khuôn khổ Công ước khí hậu vẫn đi vào bế tắc và chưa hình thành được cơ chế nào có hiệu quả để cắt giảm tốc độ phát thải khí nhà kính ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Nghị định thư Kyoto hết hiệu lực, các quốc gia mới nổi, quốc gia đang phát triển có nhu cầu tăng tốc độ phát triển kinh tế hơn bao giờ hết. Nhu cầu tăng trưởng và phát triển của các quốc gia là chính đáng, tuy nhiên để đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ khí hậu trái đất, giảm nhẹ các thiệt hại do biến đổi khí hậu. Các nhà khoa học và các tổ chức quốc tế đã hình thành các chương trình như Chiến lược phát thải thải thấp (LEDS – Low Emission Developemt Strategy), Dự kiến Đóng góp quốc gia tự quyết định (INDCs – Intended National Determined Contributions) nay là NDCs và sẽ được tất cả Bên tham gia Công ước khí hậu cùng thực hiện từ 2021 trở đi.

Sáng kiến Chương trình PMR là một trong những công cụ được quốc tế xem là hữu hiệu để tạo động lực cho tất cả các bên tham gia các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính từ các hành động tự nguyện như NAMA, chuyển thành các cơ chế bắt buộc khi các chính sách thuế, phí, cơ chế hạn ngạch phát thải, các điều kiện về nhãn carbon, dấu vết carbon sẽ hình thành ở nhiều nơi trên thế giới. Do đó, giai đoạn từ nay đến năm 2020, các quốc gia tập trung nghiên cứu các chính sách của quốc gia để phù hợp với xu hướng thế giới, đồng thời cũng là giai đoạn chuẩn bị cho sự hội nhập kinh tế trong bối cảnh biến đổi khí hậu với những cơ chế chính sách mới liên quan đến phát thải carbon. Các chính sách này sẽ tác động đến cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và toàn xã hội, nó có thể đem lại nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có thể trở thành các rào cản lớn nếu không có sự chuẩn bị chu đáo.

Do đó, đối với cộng đồng doanh nghiệp cần lưu ý, quan tâm những nội dung sau để nâng cao khả năng thích ứng với những cơ chế, chính sách mới của quốc tế cũng như của các khu vực và quốc gia, cụ thể:

1) Chủ động nghiên cứu, tiếp cận và cập nhật các thông tin mới nhất về các chính sách có liên quan như thuế carbon, nhãn carbon, thị trường carbon;
2) Tích cực, chủ động tham gia các chương trình đào tạo, nâng cao năng lực triển khai các nhiệm vụ, giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển bền vững; Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong tình hình mới, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu;
3) Chủ động xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, minh bạch và kiểm soát phát thải khí nhà kính trong các hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan đến sử dụng năng lượng;
4) Có kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt các quy định của pháp luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, đầu tư hệ thống năng lượng tái tạo, giảm phụ thuộc vào nguồn năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch để giảm mức phát thải carbon trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
5) Tìm kiếm và phát triển các chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa sử dụng công nghệ, năng lượng hiệu quả để giảm dấu vết carbon trên sản phẩm trong chuối cung ứng hàng hóa.

Trên đây là một số thông tin cơ bản liên quan đến các cơ chế, chính sách mới về phát thải khí nhà kính trong khuôn khổ các nghiên cứu gần đây của ngành và của quốc tế, các cơ chế chính sách này có thể sẽ biến thành các cơ hội phát triển, nhưng cũng có thể trở thành các rào cản nếu chúng ta không nhận thức đúng và có kế hoạch để vượt qua.

Theo Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững

Hà Nội phấn đấu 50% DN phân phối áp dụng sản xuất sạch hơn đến năm 2020

Ngày 31/10/2018, UBND TP Hà Nội ban hành Kế hoạch số 206/KH-UBND về hành động thực hiện Chương trình sản xuất và tiêu dùng bền vững thành phố Hà Nội giai đoạn đến năm 2020.

Kế hoạch hướng tới mục tiêu thúc đẩy hành động sản xuất và tiêu dùng bền vững nhằm đảm bảo phát triển nhanh, hiệu quả; đồng thời thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững theo hướng tiếp cận vòng đời sản phẩm, đẩy mạnh liên kết trong các khâu của vòng đời sản phẩm.

Theo Kế hoạch, thành phố phấn đấu tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp môi trường, tái chế chất thải trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt từ 42% đến 45%; Khoảng 50% các doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối có nhận thức, được hướng dẫn, áp dụng các giải pháp về sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng.

Ảnh minh họa

Đồng thời, giảm tỷ lệ sử dụng bao bì khó phân hủy tại các chợ dân sinh và các siêu thị, trung tâm thương mại đạt từ 50% đến 65%; Tỷ lệ các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp, Cụm công nghiệp áp dụng đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường đạt từ 60% đến 70%.

Góp phần đạt chỉ tiêu quốc gia, phấn đấu tỷ lệ chất thải được tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng hoặc sản xuất phân hữu cơ đối với chất thải được thu gom đối với: Chất thải rắn sinh hoạt đô thị đạt 85%, chất thải rắn công nghiệp đạt 75%, chất thải rắn xây dựng đạt 50%.

Phấn đấu 100% các doanh nghiệp tham gia chuỗi sản xuất cung ứng nông sản, thực phẩm an toàn trên địa bàn Thành phố ứng dụng hệ thống thông tin điện tử sử dụng mã QR truy xuất nguồn gốc, minh bạch thông tin đến người tiêu dùng.

Kế hoạch cũng nêu lên các nội dung thực hiện như tuyên truyền nâng cao nhận thức về sản xuất, tiêu dùng bền vững các sản phẩm thay thế nhựa và túi nilon trên địa bàn Thành phố Hà Nội; Tập huấn chuyên đề nâng cao nhận thức, năng lực của doanh nghiệp về hoạt động sản xuất và tiêu dùng bền vững; Phổ biến triển khai mô hình kinh doanh xanh, kết nối lĩnh vực phân phối – dịch vụ bền vững.

Đánh giá tiềm năng thị trường và khả năng cung ứng, phân phối các sản phẩm thân thiện với môi trường của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Thành phố; Đánh giá cơ hội cạnh tranh, tham gia vào mạng lưới sản xuất và tiêu dùng bền vững toàn cầu đối với ngành công nghiệp hỗ trợ có sản phẩm tham gia xuất khẩu trên địa bàn Thành phố.

Sở Công Thương chủ trì, phối hợp các Sở, ngành; UBND các quận, huyện thị xã và các đơn vị, tổ chức liên quan xây dựng, triển khai thực hiện hiệu quả Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình sản xuất và tiêu dùng bền vững thành phố Hà Nội giai đoạn đến 2020; Hàng năm, xây dựng Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện; Dự toán kinh phí thực hiện theo quy định.

Các sở, ban, ngành Thành phố; UBND các quận, huyện, thị xã có trách nhiệm huy động các nguồn vốn kết hợp với ngân sách hỗ trợ để đảm bảo thực hiện Kế hoạch…

Theo Scp.org.vn (3/11/2018)

Nghị định thư Kyoto là gì?

Nghị định thư Kyoto là một thỏa thuận về việc cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, gắn liền với Chương trình Khung Liên hiệp quốc về Biến đổi Khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change – UNFCCC).

Nghị định thư buộc các nước tham gia phải cam kết đạt được các mục tiêu về thải khí nhà kính được xác định cụ thể cho từng nước. Nghị định thư được hoàn tất và mở ký vào ngày 11/12/1997 tại Kyoto, Nhật Bản. Nghị định thư quy định trước khi có hiệu lực Nghị định thư phải được phê chuẩn bởi ít nhất 55 quốc gia và các quốc gia này phải chịu trách nhiệm ít nhất đối với 55% tổng lượng khí thải toàn cầu. Các điều kiện này đã được thỏa mãn khi Liên bang Nga phê chuẩn Nghị định thư. Vì vậy, Nghị định thư chính thức bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/02/2005. Tính đến tháng 02/2009, đã có 184 quốc gia tham gia vào Nghị định thư Kyoto. Việt Nam ký Nghị định thư vào ngày 03/12/1998 và phê chuẩn vào ngày 25/9/2002.

Nội dung chính của Nghị định thư Kyoto là đưa ra các mục tiêu mang tính bắt buộc đối với 37 nước công nghiệp trên thế giới và Liên minh Châu Âu (EU) về việc giảm lượng khí thải nhà kính. Theo đó, các nước này đến năm 2012 phải giảm lượng phát thải khí nhà kính, chủ yếu là carbon dioxide, ít nhất 5% so với mức phát thải năm 1990. Mức giảm cụ thể áp dụng cho từng quốc gia thay đổi khác nhau. Ví dụ, các nước EU là 8%, Mỹ 7%, Nhật Bản 6%, Australia 8%, trong khi New Zealand, Nga và Ucraina được duy trì mức phát thải hiện tại. Riêng một số quốc gia vốn có lượng phát thải khí nhà kính thấp được phép tăng lượng phát thải, như Na Uy được tăng 1% hay Iceland 10%.

Việt Nam ký Nghị định thư vào ngày 03/12/1998 và phê chuẩn vào ngày 25/9/2002.

Các nước tham gia vào Nghị định thư Kyoto phải chịu sự giám sát và quản lý bởi các nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc về lượng khí thải cắt giảm. Các quốc gia được chia làm hai nhóm: nhóm các nước phát triển thuộc Phụ lục I của Nghị định thư, buộc phải có bản đệ trình thường niên về các hành động cắt giảm khí thải; và nhóm các nước đang phát triển nằm ngoài Phụ lục I của Nghị định thư, bao gồm đa số các nước đang phát triển và cả một số nền kinh tế lớn mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil. Những nước này ít chịu ràng buộc hơn so với các nước thuộc nhóm Annex I.

Nghị định thư Kyoto yêu cầu các quốc gia tham gia cam kết thực hiện các mục tiêu nêu trên thông qua ba cơ chế chính được đưa ra trong Hiệp định Marrakesh (Marrakesh Accord) được thông qua năm 2001, bao gồm (1) Cơ chế thị trường khí thải, hay còn gọi là thương mại khí thải; (2) Cơ chế phát triển sạch; và (3) Cơ chế đồng thực hiện.

Theo đó, thông qua cơ chế thị trường khí thải, các quốc gia có hạn ngạch phát thải dư thừa có thể bán hạn ngạch này cho những nước có lượng phát thải vượt mức cho phép. Cơ chế phát triển sạch cho phép các quốc gia phát triển tài trợ cho các dự án giúp giảm lượng phát thải tại các nước đang phát triển, qua đó các nước tài trợ sẽ được gia tăng lượng hạn ngạch phát thải ở nước mình. Đây được xem như một công cụ hiệu quả nhằm giúp các nước đang phát triển tham gia vào Nghị định thư Kyoto, giúp nâng cao năng lực công nghệ ở các quốc gia này, đồng thời giải quyết được bài toán lợi ích giữa kinh tế và môi trường tại các quốc gia phát triển. Tương tự, cơ chế đồng thực hiện cũng cho phép một quốc gia thành viên tự thực hiện một dự án ở một quốc gia thành viên khác và qua đó giành được thêm hạn ngạch phát thải ở nước mình.

Nghị định thư Kyoto cũng được cho là một trong những tiền đề hình thành nên khái niệm “ngoại giao khí hậu”, vốn xuất hiện trong khoảng 7 đến 8 năm trở lại đây, khi các diễn biễn phức tạp của khí hậu cùng các hệ quả của nó gây ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ quốc tế. Những quốc gia công nghiệp và các nước phát triển được cho là “thủ phạm” chính gây ra sự biến đổi khí hậu (đứng đầu là Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản), tuy nhiên lại không phải là những nước gánh chịu hậu quả nặng nề nhất, mà lại là các quốc gia đang phát triển. Các nước phát triển dù cam kết đi đầu trong việc cắt giảm lượng khí thải nhà kính theo Nghị định thư, nhưng thực tế lại tìm nhiều cách lảng tránh vấn đề như trì hoãn phê chuẩn, thực hiện, đưa những dây chuyền công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm sang các nước đang phát triển.

Đặc biệt, Mỹ là quốc gia công nghiệp chiếm đến 25% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên thế giới nhưng lại không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto vì cho rằng điều này sẽ gây thiệt hại đối với kinh tế Mỹ. Thay vào đó, chính phủ Mỹ năm 2001 đã cam kết sẽ thực thi kế hoạch của Tổng thống George W. Bush về tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng trong 10 năm (2002-2012), đưa nồng độ carbon trong các ngành công nghiệp Mỹ giảm 18%.

Biến đổi khí hậu hiện nay được xếp vào hàng “an ninh phi truyền thống”, được dự báo là có thể trở thành thách thức lớn nhất với hòa bình và an ninh thế giới, hơn cả chủ nghĩa khủng bố. Hậu quả của biến đổi khí hậu (các thảm họa thiên nhiên, các vấn đề môi trường…) có thể làm thay đổi nguồn phân bổ tài nguyên, dẫn đến tình trạng mất an ninh lương thực, an ninh năng lượng và làm bùng nổ các làn sóng di cư, gây xung đột và làm bất ổn chính trị xã hội.

Từ năm 2009, Liên Hiệp Quốc cùng các nhà lãnh đạo thế giới đã gia tăng hợp tác và bàn thảo một thỏa thuận môi trường thay thế Nghị định thư Kyoto (sẽ hết hiệu lực vào năm 2012). Tuy nhiên, trải qua không ít các vòng đàm phán liên tiếp, các nước vẫn chưa đi đến một sự đồng thuận nào về vấn đề này, do còn nhiều khác biệt về lợi ích (đặc biệt là xung đột lơi ích giữa môi trường và kinh tế) giữa các quốc gia.

VNCPC

Sợi các bon có thể trữ năng lượng bên trong thân xe hơi

Một nghiên cứu mới đây cho thấy, các sợi các bon có thể hoạt động như các điện cực pin, lưu trữ năng lượng một cách trực tiếp bên trong chúng.

Phát hiện này mở ra những cơ hội chế tạo nên các loại pin với cấu trúc mới, trong đó, sợi các bon sẽ trở thành một phần quan trọng trong hệ thống năng lượng. Loại vật liệu đa chức năng này có thể đóng góp đáng kể vào việc giảm khối lượng của máy bay và các phương tiện giao thông trong tương lai – một thách thức lớn đối với quá trình điện hóa các phương tiện đi lại này.

Máy bay chở khách cần phải nhẹ hơn rất nhiều so với hiện nay để có thể chuyển từ sử dụng xăng, dầu sang pin điện. Đối với các loại xe hơi, giảm được khối lượng đồng nghĩa với quãng đường di chuyển sau mỗi lần sạc sẽ được kéo dài hơn nữa.

Leif Asp, Giáo sư vật liệu và Cơ khí Máy tính tại Đại học Công nghệ Chalmers, đã tiến hành nghiên cứu khả năng của sợi các bon để xem liệu nó có thể thực hiện nhiều tác vụ khác thay vì chỉ đơn giản đóng vai trò là một loại vật liệu gia cố hay không. Và thật ngạc nhiên, sợi các bon có thể lưu trữ năng lượng!


Mật độ năng lượng thấp hơn của pin cấu trúc sẽ làm chúng an toàn hơn pin tiêu chuẩn.

Giáo sư Leif Asp đã tập hợp một nhóm các nhà nghiên cứu đa ngành – những người vừa xuất bản một nghiên cứu về phương thức các vi cấu trúc sợi các bon ảnh hưởng đến thuộc tính điện hóa của chúng, tức khả năng hoạt động như các điện cực trong pin lithium-ion của sợi các bon. Cho đến thời điểm này, đây vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu chưa được khai phá.

Các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về nhiều loại vi cấu trúc khác nhau của các loại sợi các bon thương mại trên thị trường. Họ khám phá ra rằng, sợi các bon với các tinh thể nhỏ kém định hướng có thuộc tính điện hóa tốt nhưng độ cứng thấp hơn thông thường. Ngược lại, sợi các bon có các tinh thể lớn, định hướng cao, sẽ có các thuộc tính điện hóa quá thấp để có thể sử dụng trong các viên pin có cấu trúc mới.

“Chúng tôi đã biết sợi các bon đa chức năng nên được sản xuất ra sao để đạt được khả năng lưu trữ năng lượng cao, trong khi vẫn đảm bảo độ cứng chấp nhận được” – Asp nói – “Độ cứng có giảm đi một chút cũng không phải là vấn đề với nhiều ứng dụng của sợi các bon như xe hơi chẳng hạn. Thị trường hiện bị thống trị bởi các vật liệu tổng hợp sợi các bon đắt tiền vốn có độ cứng dành cho máy bay. Do đó, các hãng sản xuất sợi các bon có tiềm năng mở rộng tính ứng dụng của nó”.

Trong nghiên cứu này, các loại sợi các bon với thuộc tính điện hóa tốt có độ cứng cao hơn một chút so với thép, trong khi cac loại sợi các bon với thuộc tính điện hóa kém lại cứng gấp đôi thép.

Các nhà nghiên cứu đang cộng tác với cả ngành công nghiệp xe hơi và hàng không. Leif Asp giải thích rằng đối với ngành công nghiệp hàng không, việc tăng độ dày của vật liệu tổng hợp sợi các bon là cần thiết để bù đắp cho việc giảm độ cứng của nó nhằm làm pin cấu trúc mới. Đồng thời, điều này còn giúp tăng khả năng lưu trữ năng lượng của chúng nữa.

“Mấu chốt là tối ưu các phương tiện ở cấp độ hệ thống – dựa trên các thuộc tính khối lượng, độ chắc, độ cứng và điện hóa. Đó là cách suy nghĩ mới đối với ngành công nghiệp xe hơi, vốn đã quen với việc tối ưu các thành phần riêng biệt. Pin cấu trúc có lẽ sẽ không hiệu quả như pin thông thường, nhưng bởi chúng có khả năng chuyên chở, chúng có thể mang lại những thay đổi lớn ở cấp độ hệ thống. Bên cạnh đó, mật độ năng lượng thấp hơn của pin cấu trúc sẽ làm chúng an toàn hơn pin tiêu chuẩn, đặc biệt là chúng không có chứa bất kỳ vật chất dễ bay hơi nào” – Asp cho biết.

Theo khoahoc.tv

SHARE

Facebook
Twit