Vòng đàm phán mới về biến đổi khí hậu rơi vào bế tắc

Vòng đàm phán thứ hai về biến đổi khí hậu do Liên hợp quốc tổ chức trong năm nay đã kết thúc ngày 15/6 nhưng chưa khai thông được bế tắc xoay quanh Cơ chế phát triển sạch (CDM), yếu tố chính trong thỏa thuận mới phải được thông qua vào năm 2015 để có hiệu lực vào năm 2020, thời điểm Nghị định thư Kyoto hết hiệu lực gia hạn.

Các nước giàu, trong đó có Mỹ, Nhật Bản và một số nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) ủng hộ thiết lập CDM dựa trên cơ sở thị trường để giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính càng rẻ càng tốt.

Các nước nghèo hơn tỏ ra thận trọng với vấn đề này, đặc biệt trong bối cảnh phần lớn đầu tư cho CDM đã rơi vào tay các nền kinh tế mới nổi như Brazil và Trung Quốc.

Các nước đang phát triển yêu cầu phân tích toàn diện và cân bằng những khái niệm trong thỏa thuận mới như “giảm thiểu (nói cách khác là cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính), thích nghi, tài trợ, chuyển giao công nghệ, xây dựng khả năng” và sự minh bạch về các nguồn hỗ trợ, cũng như khái niệm “đóng góp”.

170613_bdkh-500x333

Ảnh minh họa: greenprophet.com

Trong khi đó, các nước phát triển tập trung quá nhiều vào vấn đề giảm thiểu, đồng thời phớt lờ cam kết hỗ trợ tài chính và công nghệ cho các nước đang phát triển. Tiến bộ duy nhất đạt được là nhiều nước đã nhất trí thỏa thuận mới phải bao gồm tất cả yếu tố chính.

Về vấn đề tăng cường nỗ lực chống biến đổi khí hậu trước năm 2020, các nước đang phát triển cho rằng các mục tiêu cắt giảm khí thải do các nước phát triển đề ra là quá thấp so với khả năng của những nước này, vì thế cần được tăng lên mức cao hơn.

Các nước phát triển cũng nên đưa ra lộ trình chi tiết đối với những cam kết hỗ trợ tài chính. Lập trường này đã không nhận được phản ứng tích cực từ phía các nước phát triển.

Một số nước giàu đòi gắn mục tiêu cắt giảm khí thải của họ với hành động tương tự của những nước khác, thậm chí cả những nước đang phát triển.

Khai mạc ngày 4/6 ở thành phố Bonn của Đức, vòng đàm phán mới về biến đổi khí hậu thu hút sự tham gia của 1.900 đại biểu đến từ 182 nước trên thế giới, tập trung vào nhiều vấn đề, bao gồm các yếu tố chính trong thỏa thuận mới.

Theo kế hoạch, vòng đàm phán tiếp theo sẽ được tổ chức vào tháng Mười tới, cũng ở Bonn, sau Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu do Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon triệu tập, dự kiến vào tháng 9/2014.
Theo TTXVN, 16/06/2014

Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

Ngày 09/6/2014, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 879/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và Quyết định số 880/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

KCN-khi-dien-dam-Ca-Mau-(2)

Với Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, Chính phủ đã xác định 3 nhóm ngành công nghiệp lựa chọn ưu tiên phát triển, gồm: Công nghiệp chế biến chế tạo, Ngành Điện tử và viễn thông, Năng lượng mới và năng lượng tái tạo. Đồng thời Chiến lược cũng định hướng quy hoạch không gian theo các cùng lãnh thổ sẽ bao gồm vùng công nghiệp lõi và vùng công nghiệp đệm, trong đó các địa phương thuộc vùng lõi  gồm 4 vùng kinh tế trọng điểm và 5 khu kinh tế biển được ưu tiên phát triển.

Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 là bước tiếp theo để thực hiện Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. Quy hoạch quan điểm phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 gồm: Phát triển công nghiệp tập trung vào một số ngành công nghiệp đáp ứng nhu cầu trong nước và tăng nhanh xuất khẩu; Tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới; phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ để tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu; Khuyến khích phát triển dân doanh, đầu tư nước ngoài; thúc đẩy phát triển bền vững khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa; Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp là điều kiện quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Phát triển công nghiệp theo các chuẩn mực về môi trường, tiến tới công nghệ xanh sau giai đoạn 2020.

Quy hoạch tập trung vào 10 ngành gồm có: ngành cơ khí – luyện kim; ngành hóa chất; ngành điện tử, công nghệ thông tin; ngành dệt may-da giầy; ngành chế biến nông lâm thủy sản, thực phẩm, đồ uống; ngành sản xuất vật liệu xây dựng; ngành khai thác và chế biến khoáng sản; ngành điện; ngành than; ngành dầu khí. Điểm mới là Quy hoạch định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ tập trung vào 3 ngành gồm cơ khí – luyện kim; điện tử – tin học, dệt may – da giầy. Đồng thời quy hoạch xây dựng các khu, cụm công nghiệp hỗ trợ tại Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Phòng, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh và Đà Nẵng.

Quy hoạch phân bố theo không gian vùng lãnh thổ chia theo 5 vùng, trong đó xác định Vùng đồng bằng sông Hồng phát triển công nghiệp cơ khí, luyện kim, hóa chất, nhiệt điện, công nghiệp công nghệ cao; Phát triển có chọn lọc công nghiệp hỗ trợ sản xuất linh kiện cơ khí, ô tô, xe máy, linh kiện điện tử xung quanh thành phố Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh.

Dự kiến 70 – 75% nguồn vốn đầu tư thực hiện quy hoạch từ các doanh nghiệp, trong đó thu hút đầu tư từ FDI khoảng 33 – 34%. Nguồn vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ khoảng 3 – 4% tập trung chủ yếu vào xây dựng hạ tầng (các công trình giao thông, cấp điện, cấp nước), một phần vốn dành cho phát triển nguồn nhân lực và nghiên cứu đổi mới khoa học công nghệ.

Quy hoạch cũng đưa nhiều giải pháp để thực hiện, các giải pháp được chia thành giải pháp ngắn hạn và giải pháp dài hạn. Các nhóm giải pháp về thể chế, cơ chế chính sách phát triển ngành công nghiệp; tăng cường điều phối theo vùng lãnh thổ, phân cấp hợp lý trong quản lý nhà nước về công nghiệp; tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế được đưa lên hàng đầu trong các nhóm giải pháp ngắn hạn. Về dài hạn, quy hoạch đưa ra 7 nhóm giải pháp về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường và sản phẩm, phát triển công nghiệp hỗ trợ, hợp tác liên vùng và phối hợp phát triển, đẩy mạnh công tác khuyến công, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp nông thôn.

Để triển khai thực hiện Quy hoạch, Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương phải rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp; Đưa các nội dung triển khai quy hoạch vào kế hoạch hàng năm, kế hoạch 5 năm về phát triển công nghiệp trên địa bàn.

Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và  Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 có hiệu lực kể từ ngày ký./.

Theo skhdt.haiduong.gov.vn

Chương trình Hỗ trợ Doanh nghiệp xã hội 2014

Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng (Centre for Social Initiatives Promotion – CSIP) mời các Doanh nghiệp xã hội tham gia “Chương trình Hỗ trợ Doanh nghiệp xã hội 2014″.

sesp2-01-1-500x388

Chương trình Hỗ trợ Doanh nghiệp xã hội 2014 (SESP 2014) tìm kiếm và đầu tư trực tiếp về tài chính, nâng cao năng lực, tư vấn kinh doanh và kết nối mạng lưới, kết nối cơ hội đầu tư cho Doanh nghiệp xã hội trong các giai đoạn phát triển quan trọng nhằm tăng khả năng và tác động xã hội tích cực của các DNXH tới cộng đồng.

Chương trình tập trung tìm kiếm các Doanh Nghiệp Xã Hội đặt mục tiêu trọng tâm là giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường thông qua triển khai các hoạt động kinh doanh bền vững, nguồn thu chủ yếu đến từ hoạt động kinh doanh của Doanh Nghiệp Xã Hội.

Hạn cuối nhận hồ sơ đăng ký: 30/06/2014.

Thông tin chi tiết xem thêm tại đây.

Tập huấn “Du lịch xanh hướng tới tương lai”

Trung tâm Trung tâm Phát triển Sáng kiến Cộng đồng và Môi trường (C&E) tổ chức chương trình tập huấn “Du lịch xanh hướng tới tương lai”, nằm trong chuỗi sự kiện “Du lịch xanh hướng tới tương lai” do Trung tâm C&E tổ chức với sự hỗ trợ của dự án “Tăng cường năng lực để lồng ghép phát triển bền vững và biến đổi khí hậu vào công tác lập kế hoạch ở Việt Nam” (hợp tác giữa Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường – DSENRE thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc – UNDP tại Việt Nam).

DLXHTTL-Poster-Tập-huấn-353x500

  1. Đối tượng: Các bạn từ 18 đến 30 tuổi, hiện đang sinh sống và học tập tại Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam
  2. Thời gian diễn ra khóa tập huấn: 14/07 – 17/07/2014.
  3. Địa điểm: Thành phố Đà Nẵng và thôn Đ’rồng, xã Tà Lu, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
  4. Đơn đăng ký online: http://bit.ly/dk_dulichxanhhuongtoituonglai
  5. Thời hạn đăng ký tham gia chương trình: 06/06/2014 – 23h59, 20/06/2014

Kết quả vòng hồ sơ sẽ được thông báo trước ngày 26/06/2014.

Thời gian phỏng vấn: 27 – 29/06/2014.

Thông tin chi tiết xem thêm tại đây.

Theo thiennhien.net

Các thành phố lớn chuẩn bị thích ứng với BĐKH như thế nào

Một quan điểm đã được thừa nhận: con người phải thích nghi với thời tiết khắc nghiệt như gió nóng, hạn hán, lũ lụt. Một số dự án thí điểm đã được thực hiện để chứng minh điều này.

Cơn bão Sandy là cơn bão tồi tệ nhất trong lịch sử New York. Cách đây hai năm, cơn bão khủng khiếp đã đổ bộ vào thành phố này, đường phố bị ngập nước, dây cáp điện bị đứt làm cho nhiều vùng của New York phải sống trong cảnh tăm tối. Chứng kiến mức độ tàn phá ghê gớm của thiên tai, thị trưởng thành phố lúc bấy giờ là ông Michael Bloomberg đã nhận thức được rằng New York phải làm gì đó để thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trái đất nóng lên không phải là nguyên nhân gây ra cơn bão Sandy, nhưng nó đã làm cho sức tàn phá của cơn bão trở nên vô cùng tai hại – đây là điều mà các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng đi đến đồng thuận. Bloomberg rút ra kết luận: “Các thành phố trên thế giới đang tiếp tục phát triển nhanh chóng, vì vậy phải khẩn trương thích nghi với biến đổi khí hậu ngay tại địa bàn sinh sống của mình.”

Trong khi công tác thu dọn sau bão còn đang tiếp diễn thì thị trưởng Bloomberg đã đưa ra kế hoạch của mình: trong tương lai, Big Apple sẽ được giao trách nhiệm xây những con đê và cửa cống mới cũng như phải thiết lập mạng lưới điện chịu được bão và lũ lụt. Đối với New York, thành phố có tới 850 km bờ biển, đây là một nhiệm vụ cực kỳ to lớn. Chi phí cho dự án lên tới 20 tỷ đôla.

160514_biendoikhihau-500x264

Phối cảnh các tòa nhà ở Masdar (Ảnh: ecotraveller.tv)

Thích nghi và tăng trưởng kinh tế để hạn chế hậu quả của biến đổi khí hậu

Không chỉ mình New York phải chuẩn bị ứng phó với thời tiết tồi tệ trong tương lai. Ngay cả chuyên gia của 48 quốc gia nghèo nhất thế giới cũng đang soạn thảo những “chiến lược thích nghi với biến đổi khí hậu”.

Những dự án này đánh dấu một bước ngoặt trong việc ứng xử với tình trạng trái đất nóng lên. Nó được thúc đẩy bởi nhận thức mà nhà kinh tế Richard Tol thuộc Đại học Sussex của Anh và từng là chuyên viên của Hội đồng Khí hậu thế giới của Liên hiệp quốc (IPCC) đã phát biểu: “Không chỉ có việc giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính mà cả việc thích nghi và tăng trưởng kinh tế cũng có thể hạn chế hậu quả của biến đổi khí hậu.”

Cho đến nay những nhà bảo vệ môi trường và các chính khách chủ yếu quan niệm, cơ hội duy nhất trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu là giảm mạnh mẽ lượng khí thải carbondioxide (CO2). Giờ đây người ta nhất trí với quan niệm: hầu như không thể chặn đứng việc trái đất nóng lên, cũng nghĩa là con người phải thích nghi với nó – điều này đã được thể hiện trong bản báo cáo lần thứ ba của IPCC mới đây.

Còn có một vấn đề về nhận thức cần bổ sung, cũng được thể hiện trong báo cáo của IPCC hồi cuối tháng Ba vừa qua về việc ứng xử với việc trái đất nóng lên: “Hậu quả của biến đổi khí hậu không phải là một vấn đề riêng biệt, phải chống lại hậu quả này cùng với cuộc đấu tranh chống đói nghèo, tình trạng kém phát triển và chính sách tồi tệ.” Bởi tình trạng đói nghèo càng trầm trọng và sự kém cỏi của các chính trị gia càng lớn bao nhiêu thì tác động của trái đất nóng lên càng bộc lộ rõ rệt hơn bấy nhiêu.

Chống nóng cho thành phố

Chiến lược thích nghi thành công như thế nào giờ đây thể hiện qua nhiều dự án được triển khai trên khắp thế giới. Chúng ta hãy cùng nhau dạo một vòng đến những điểm nóng của biến đổi khí hậu để xem những gì người ta đang làm.

London bắt đầu tìm cách thích nghi với biến đổi khí hậu ngay từ khi trong IPCC hầu như chưa ai đề cập đến vấn đề này: Năm 2004 cơ quan quản lý công viên đã cho trồng thêm nhiều cây xanh, mở rộng diện tích bãi cỏ và để cho các con suối trở lại với dòng chảy vốn có của chúng. Thành phố đã đầu tư 24 triệu Euro cho dự án “East London Green Grid”. Giờ đây chủ trương này được mở rộng cho thành phố London kể cả vùng ngoại vi. Đến năm 2025, London sẽ có một mạng lưới diện tích xanh che phủ rộng khắp trong đó diện tích trồng cây chiếm 25% diện tích thành phố, hiện tại tỷ lệ này là 20%.

Kết quả, thảm thực vật sẽ giúp hạn chế hiệu ứng hòn đảo nhiệt. Tại trung tâm London, nhiệt độ có thể cao hơn 7 độ so với vùng lân cận nhưng việc bổ sung sự xanh hoá nhằm cho thành phố này không bị nóng lên trong những năm tới.

Các thành phố còn có một loạt giải pháp khác để phản ứng trước việc nhiệt độ tăng lên. Thành phố Doha (Qatar) đang áp dụng một biện pháp xử dụng năng lượng rất hiệu quả. Tại đây có hai khu vực các công trình xây dựng không được làm mát bằng máy điều hoà nhiệt độ thông thường, mà dùng bơm nước lạnh 5,5 độ C dẫn vào các toà nhà. So với sử dụng điều hoà nhiệt độ thông thường, phương án này giảm tới 40% nhu cầu về năng lượng.

Các thành phố của Các Tiểu Vương quốc Ả Rập thực sự là một tấm gương tốt. Tại dự án khu dân cư Masdar với khoảng 40 nghìn người và chừng 50 nghìn khách vãng lai, các toà nhà được bố trí thích hợp để luôn hút gió và không khí luôn thông thoáng – không khí thoáng đãng mát mẻ làm cho nhiệt độ mùa hè ở Masdar giảm khoảng 20 độ C so với vùng sa mạc cát ở xung quanh.

Tại những thành phố đã hình thành, nhiều khi có thể cải thiện tình hình qua việc cải thiện công tác tổ chức. Thí dụ sau mùa hè khắc nghiệt năm 2003 làm nhiều người chết, chính quyền thành phố Paris đã phát triển một kế hoạch khẩn cấp. Trong tương lai, khi xẩy ra các đợt nắng nóng gay gắt, những người cần sự hỗ trợ có thể đăng ký với cơ quan chính quyền để được bố trí chỗ ở thích hợp.

Mùa hè 2011, một nhà báo của hãng Thông tấn Ả rập Al Jazeera đã có một phát hiện gây chấn động dư luận: Tại vùng Lakonia, vùng ven biển ở phía nam Hy Lạp, nhiều công nhân làm việc trong các trang trại trồng cam, chanh đã bị bệnh sốt rét, trong khi đó căn bệnh này được coi là đã bị tuyệt diệt ở châu Âu từ năm 1970. Trong bài phát biểu trên đài truyền hình, bác sĩ Apostolos Veiziz làm việc cho tổ chức thiện nguyện Bác sĩ không biên giới đã nêu những lý do về việc trở lại của căn bệnh nhiệt đới này: “Do khủng hoảng tài chính, chính phủ không có tiền để tiến hành phun thuốc trừ muỗi”. Đồng thời nhiệt độ tăng làm cho muỗi phát triển một cách bột phát.

Nhà chức trách Hy Lạp đã điều xe của cơ quan phòng dịch tiến hành thử máu cho công nhân nông nghiệp đồng thời phát thuốc cho họ. Ngoài ra, họ cũng tiến hành phun thuốc trừ muỗi. Việc làm này thu được kết quả, hai năm sau, người ta chỉ ghi nhận được ba ca sốt rét ở Hy Lạp.

Biến đổi khi hậu không chỉ làm cho bệnh sốt rét mà nhiều bệnh truyền nhiễm khác trở nên trầm trọng hơn, trong đó có bệnh sốt xuất huyết và bệnh gây sốt hồi quy do bọ chét truyền, bệnh viêm màng não, bệnh sốt ở thung lũng Rif (châu Phi) và bệnh tả. Vì thế các chuyên gia y tế ở Senegal, Malawi và Ghana được sự hỗ trợ của các nhà nghiên cứu khí hậu ở châu Âu đang xây dựng một hệ thống dự báo dịch bệnh.

Trong dự án mang tên Qweci, các bệnh viện thông báo qua vô tuyến một số loại bệnh, trong đó có các trường hợp bị bệnh sốt rét, tới Trung tâm thu nhận thông tin. Đồng thời các vệ tinh cung cấp dữ liệu về thời tiết đối với tất cả các vùng. Khi số ca bệnh tăng lên và thời tiết thuận lợi cho sự phát triển của côn trùng thì các thầy thuốc ở các khu vực sẽ được báo động. Điều này giúp cho việc cung ứng thuốc kịp thời và cảnh báo người dân tại khu vực có nguy cơ phát bệnh. Các nhà nghiên cứu đang hoàn thiện hệ thống này để có thể dự báo phát sinh dịch bệnh trước sáu tháng.

Thay đổi phương pháp canh tác

Cách đây ít lâu, nếu nói đến “Pink Lady”, có lẽ nhiều người Đức không biết đây là tên một loại táo. Ngày nay người trồng táo ở Đức cũng trồng loại táo này do trái đất nóng lên. Pink Lady chịu được các đợt nắng nóng tốt hơn so với nhiều giống táo khác, vì vậy trước đây giống táo này chủ yếu chỉ được trồng ở nam Châu Âu như Pháp và Italia.

Do biến đổi khí hậu và do ảnh hưởng của các đợt nắng nóng gay gắt, các chuyên gia dự báo từ năm 2050 năng suất nhiều loại cây trồng sẽ bị giảm tới 25%, đặc biệt là với ngô và lúa mì. Vì vậy cần có những giải pháp thích ứng nếu không trong tương lai sẽ bị thiếu hụt lương thực, thực phẩm vì dân số thế giới vẫn tiếp tục tăng lên.

Tuy nhiên ngay cả ở Đức, người nông dân cũng có cơ hội để thích nghi – thí dụ họ có thể thay đổi phương pháp canh tác, cải thiện công tác thuỷ lợi hoặc trồng các loại cây khác. Điều hết sức quan trọng là việc chọn những giống cây trồng chịu được sự thay đổi khí hậu.

Các nhà nghiên cứu về giống cây trồng cho rằng cây kê có tính chịu hạn cao, có thể thay thế ngô, điều này có tầm quan trọng đặc biệt. Những loại cây trồng có bộ rễ sâu có sức chịu hạn tốt hơn. Những giống cây trồng có khả năng chịu hạn hán cao có thể có năng suất cao hơn so với các giống bình thường tới 15% – nhờ đó bù đắp được cho việc giảm sản lượng do biến đổi khí hậu gây ra.

Theo IPCC, đến năm 2100, mực nước biển có thể tăng từ 30 đến 100 cm. Hiện tại quá trình này còn diễn ra chậm chạp. Vì vậy London dự định sẽ tôn cao hệ thống chống lũ lụt – Thames Barrier – sớm nhất vào năm 2070. Ở Vịnh Đức (Deutsche Bucht), đến giữa thế kỷ này, con đê ở đây vẫn còn chắc chắn. Nhưng theo Ngân hàng Thế giới, giá trị tài sản ở các thành phố ven biển bị đe doạ đến năm 2050 tăng lên gấp mười lần.

Với những vùng đồng bằng dân cư đông đúc bị lún do khai thác nước quá nhiều, mực nước biển dâng lên 1 cm cũng trở thành vấn đề – do đó việc thích nghi là hết sức cần thiết.

Ngay cả quần thể sinh vật biển cũng có phản ứng với việc biến đổi khí hậu. Các đàn cá cũng tiến ra vùng nước mát hơn. Theo Viện Alfred-Wegener ở Bremerhaven thì tại vùng Biển Bắc trong mấy thập niên qua đã có khoảng 40 loài cá mới di cư đến đây, trong đó có loài cá sác đin và cá rô, trong khi loài cá dorsch lại tiến dần lên phía bắc. Những người đánh cá cũng cảm nhận được tình hình này: Ở vùng vĩ độ cao sản lượng đánh bắt cá tăng; nhưng ở vùng biển nhiệt đới sản lượng đánh bắt đến năm 2050 có nguy cơ giảm một nửa, đây là cảnh báo của IPCC. Để thích ứng, người ta buộc phải đánh bắt những loài cá khác.

Việc nuôi trồng thuỷ sản cũng có thể góp phần bảo đảm cung cấp chất đạm cho con người. Trước đây việc nuôi trồng hải sản thường tập trung ở miền duyên hải – và đẩy lùi rừng ngập mặn có tác dụng bảo vệ, chống xâm lấn. Hiện nay có những cách tiếp cận ít gây tổn hại hơn – nuôi cá ở nội địa: thí dụ một số doanh nghiệp ở Đức như Neomar nuôi cá biển như loài cá doraden. Hàn Quốc hiện cũng tiến hành các dự án nuôi trồng hải sản tương tự.

Biết đâu người kế tục ông Bloomberg, ông Bill de Blasio, sẽ phát hiện ra việc câu cá đại dương ngay trong vùng nội địa của New York – và coi đây cũng là một cách để thành phố của ông chuẩn bị ứng phó với biến đổi khí hậu.

 Theo Xuân Hoài/Tạp chí Tia Sáng

 

Nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng Hệ thống quản lý năng lượng

Hệ thống quản lý năng lượng (HTQLNL) là công cụ tối ưu giúp các doanh nghiệp kiểm soát việc sử dụng năng lượng. Áp dụng hệ thống này, doanh nghiệp thu được nhiều lợi ích như giảm nguồn năng lượng sử dụng, giảm chi phí sản xuất, hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường góp phần nâng cao uy tín, tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

ISO 50001

 ISO 50001: 2011 là công cụ đắc lực hỗ trợ doanh nghiệp thiết lập, áp dụng và duy trì HTQLNL

Doanh nghiệp lợi đơn lợi kép
Tại Việt Nam, Luật sử dụng và tiết kiệm năng lượng hiệu quả đã được Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 1-1-2011. Luật quy định các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm phải xây dựng, thực hiện kế hoạch sử dụng và tiết kiệm năng lượng hiệu quả hàng năm. Cũng trong năm 2011, Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) đã công bố tiêu chuẩn ISO 50001: 2011. Đây được đánh giá là công cụ đắc lực giúp các tổ chức, doanh nghiệp thiết lập, áp dụng và duy trì HTQLNL.
Tại buổi Hội thảo “Mô hình quản lý năng lượng tiêu biểu trong công nghiệp và tòa nhà theo tiêu chuẩn TCVN 50001: 2011” được tổ chức trong khuôn khổ Triển lãm Entech Hanoi 2014, các chuyên gia năng lượng nhận định, xây dựng HTQLNL là hoạt động cấp bách và cần thiết với các doanh nghiệp.Theo đó, muốn xây dựng HTQLN, trước tiên các doanh nghiệp cần đánh giá thực trạng sử dụng năng lượng thông qua kiểm toán năng lượng. Sau đó, doanh nghiệp sẽ lựa chọn các biện pháp tiết kiệm năng lượng để áp dụng, cũng như xây dựng các ban, nhóm và bổ nhiệm cán bộ chuyên trách về quản lý năng lượng. Cuối cùng, doanh nghiệp cần đưa các hoạt động tiết kiệm năng lượng vào trong quy trình sản xuất và đánh giá kết quả thu được.Nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp

Nhằm giúp DN xây dựng và áp dụng HTQLNL, Bộ Công Thương thông qua các chương trình, dự án đã xây dựng nhiều chính sách hỗ trợ DN. Trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia về Sử dụng năng lượng và tiết kiệm hiệu quả giai đoạn 2012-2015, Bộ Công Thương  sẽ tiếp tục hỗ trợ 30% chi phí đầu tư tiết kiệm năng lượng cho các doanh nghiệp (không quá 5 tỷ đồng/dự án). Nguồn vốn này trong thời gian qua cũng đã được bổ sung từ Chính phủ Đan Mạch với tổng giá trị gần 30 triệu USD. Song song với đó, Chương trình cũng dành ngân sách hỗ trợ các DN thực hiện kiểm toán năng lượng. Cụ thể, DN sẽ được hỗ trợ 50% chi phí kiểm toán năng lượng nhưng tối đa không quá 50 triệu đồng/ doanh nghiệp.Bộ Công Thương đã chỉ đạo các Trung tâm tiết kiệm năng lượng của các tỉnh, thành phố hỗ trợ tư vấn, nhằm tháo gỡ vướng mắc trong quá trình xây dựng HTQLNL cho các doanh nghiệp. Trong đó, hai đơn vị hàng đầu là Trung tâm tiết kiệm năng lượng Hà Nội và TP. HCM có thể giúp doanh nghiệp xây dựng HTQLNL.Bộ Công Thương cũng tiếp tục hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý năng lượng cho các doanh nghiệp bằng việc tổ chức các khóa đào tạo cán bộ quản lý năng lượng tại nhiều địa phương trên cả nước. Kết thúc khóa học, học viên được kiểm tra kiến thức và cấp giấy chứng nhận Người quản lý năng lượng. Các doanh nghiệp có thể đăng ký với các Sở Công Thương, các trung tâm TKNL, Trung tâm Khuyến công để được tham gia đào tạo.

Đồng hành với Chương trình mục tiêu quốc gia, Bộ Công Thương đã phát động Chiến dịch Hiệu quả năng lượng với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Đan Mạch và Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC). Chiến dịch nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao nhận thức về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh Các doanh nghiệp tham gia Chiến dịch sẽ nhận được sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính từ Bộ Công Thương, Đại sứ quán Đan Mạch và IFC.

Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có cơ hội nhận được sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính từ các gói cho vay của các ngân hàng và tổ chức nước ngoài như: Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) với khoản vay 100 triệu USD cho các nhà máy xi măng, thép; Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) với khoản vay 50 triệu USD; Ngân hàng Thế giới (WB) cho vay từ 70-100 triệu USD cho các dự án tiết kiệm năng lượng.

Riêng với dự án hỗ trợ của WB, tổ chức này dự kiến xây dựng một chương trình cam kết tự nguyện. Theo đó, khi các doanh nghiệp cam kết thực hiện các giải pháp tiết kiệm năng lượng một cách tự nguyện, không bắt buộc theo luật thì Chương trình sẽ hỗ trợ tư vấn, kiểm toán năng lượng, xây dựng báo cáo đầu tư xin hỗ trợ, vay vốn từ các tổ chức quốc tế để doanh nghiệp thực hiện các cam kết đó.

Mức sử dụng năng lượng trong công nghiệp có thể lên tới 50% tổng năng lượng sử dụng và có thể tạo ra những vấn đề về nguồn cung trong thời gian tới. Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, trong đó bao gồm xây dựng HTQLNL hoàn thiện không chỉ giúp DN tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh mà còn thể thiện trách nhiệm của DN đối với an ninh năng lượng, phát triển bền vững.

Theo tietkiemnangluong.com.vn