Sản phẩm xanh và những lợi ích môi trường

Sản phẩm xanh được hiểu là những sản phẩm được tạo ra từ các vật liệu thân thiện với môi trường. Còn lợi ích của sản phẩm xanh là sản phẩm ít chất độc hại có thể giảm thiểu tác động đến công nhân, cải thiện chất lượng không khí trong nhà và giảm ô nhiễm nước.

Các tiêu chí của sản phẩm xanh

1. Sản phẩm được tạo ra từ các vật liệu thân thiện với môi trường. Nếu sản phẩm chứa các vật liệu tái chế thay vì sử dụng vật liệu mới, thô, nó có thể được xem là một sản phẩm xanh. Ví dụ, một sản phẩm tái chế nhanh như tre hay bần (sử dụng để lót nền) là những sản phẩm thân thiện với môi trường vì là sản phẩm đựơc tạo ra từ vật liệu phế phẩm nông nghiệp như rơm hoặc dầu nông nghiệp.

2. Sản phẩm đem đến những giải pháp an toàn đến môi trường và sức khoẻ thay cho các sản phẩm phẩm độc hại truyền thống. Ví dụ các vật liệu thay thế chất bảo quản gỗ như creosote, được biết là một hợp chất gây ung thư.

3. Sản phẩm giảm tác động đến môi trường trong quá trình sử dụng (ít chất thải, sử dụng năng lượng tái sinh, ít chi phí bảo trì). Người tiêu dùng châu Âu nhiều năm qua đã quay lại sử dụng chai sữa thủy tinh và giảm tỉ lệ sử dụng loại sữa đựng trong chai nhựa sử dụng 1 lần rồi bỏ. Chai thủy tinh có thể sử dụng nhiều lần, dễ dàng tái chế.

4. Sản phẩm tạo ra một môi trường thân thiện và an toàn đối với sức khoẻ. Vật liệu xây dựng thân thiện môi trường là những sản phẩm tạo ra một môi trường an toàn trong nhà, không gian sống bằng cách không phóng thích những chất ô nhiễm quan trọng như sơn có dung môi hữu cơ bay hơi thấp, bám chắc, loại bỏ hoặc ngăn ngừa sự lan truyền chất ô nhiễm như sản phẩm từ sự thông gió hoặc bộ lọc không khí trong máy lạnh (bụi, nấm mốc, vi khuẩn..) và cải thiện chất lượng chiếu sáng.

Với vật liệu thân thiện môi trường, sự chọn lựa sản phẩm được đặt mục tiêu là giảm thiểu ô nhiễm, giảm tiêu thụ tài nguyên và giảm lượng chất thải sinh ra trong quá trình sử dụng sản phẩm. Một phương pháp mua sản phẩm thân thiện môi trường là mua sản phẩm địa phương khi có thể. Sản phẩm được mua từ nguồn địa phương hoặc khu vực sẽ giảm chi phí vận chuyển và thúc đẩy kinh tế địa phương.

An toàn và giảm ô nhiễm

Một khái niệm khác là thiết kế xanh. Ở đây, sự chọn lựa sản phẩm đặt ra mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm, giảm tiêu thụ tài nguyên và giảm lượng chất thải sinh ra trong quá trình sử dụng sản phẩm.

Tại các nước đã có rất nhiều sản phẩm thân thiện với môi trường nhằm đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng xanh.

Theo các nhà chuyên môn, một trong những cách mua sản phẩm xanh là chọn sản phẩm địa phương bởi vì khi mua từ nguồn địa phương hoặc gần nhà sẽ giảm chi phí vận chuyển (nghĩa là giảm tiêu thụ năng lượng và giảm tác động đến môi trường trong quá trình vận chuyển), đồng thời thúc đẩy kinh tế địa phương.

Hiện nay, tại các nước đã có rất nhiều sản phẩm thân thiện với môi trường nhằm đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng xanh. Các sản phẩm này được đóng gói và có logo riêng giúp người tiêu dùng có thể phân biệt và chọn lựa.

Lợi ích khi mua sản phẩm xanh

Chọn những sản phẩm ít chất độc hại có thể giảm thiểu tác động đến công nhân, cải thiện chất lượng không khí trong nhà và giảm ô nhiễm nước. Mua sản phẩm tẩy rửa xanh với các nồng độ và bao bì có thể trả lại nhà sản xuất giúp giảm thiểu rác thải bao bì. Mua các chất tẩy rửa ít chất độc hại làm giảm chi phí chất thải khi chúng không được dùng hết và quăng vào thùng rác.

Chuyển từ việc sử dụng các sản phẩm tẩy rửa truyền thống sang các sản phẩm phân hủy sinh học (phân hủy bằng cơ chế vi sinh vật), ít độc tính hoặc các sản phẩm ít độc hại khác có thể giảm đáng kể thông lệ của hoạt động làm vệ sinh mà không làm ảnh hưởng đến hiệu quả làm sạch.

Một số nghiên cứu cho thấy cải thiện chất lượng không khí trong nhà trong môi trường làm việc có thể cải thiện năng suất chung hơn 8%.

Theo moitruong.com.vn

Ô nhiễm không khí còn nguy hiểm hơn cả bệnh di truyền

Mọi người thường sợ hãi trước nguy cơ gia tăng các chứng di truyền thừa kế từ các bậc cha mẹ, tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng ô nhiễm không khí nguy hiểm hơn nhiều so với nguy cơ mắc các chứng bệnh do di truyền.

Ô nhiễm không khí làm thay đổi biểu hiện của các gen chứ không phải làm biến đổi các gen. Gây hậu quả tai hại nhất là chất sulfur dioxide. Nó ảnh hưởng đến 170 gen liên quan đến bệnh hen suyễn và các bệnh về tim mạch – theo Motthegioi.

Các nhà khoa học ở Viện Nghiên cứu ung thư tại Ontario (Canada) đã đi đến kết luận trên sau khi phân tích mức độ ô nhiễm ở TP.Montreal và các khu vực kém đô thị hóa hơn ở Canada, cũng như hồ sơ di truyền của hơn 1.000 cư dân địa phương. Các nhà nghiên cứu cũng tính đến sự hiện diện của ni tơ dioxite, sulfur dioxide và ô zôn trong không khí cũng như các hạt rắn có thể xâm nhập sâu vào phổi.

Ô nhiễm không khí làm thay đổi biểu hiện của các gen chứ không phải làm biến đổi các gen.

Kết quả là ở các thành phố lớn tỷ lệ mắc bệnh cao hơn đáng kể so với ở vùng nông thôn. Và sự biểu hiện của các gen, đặc biệt là các gen liên quan đến chức năng của phổi, đã thay đổi nhiều hơn ở nhóm cư dân của các thành phố lớn nơi có tình trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng.

Hơn 5,5 triệu người chết mỗi năm liên quan đến ô nhiễm không khí

Theo thống kê của Viện Max Planck trên tạp chí Nature, hơn 5,5 triệu người chết mỗi năm do bệnh tật liên quan đến ô nhiễm không khí. Bắc Kinh cũng đã 2 lần phát đi báo động đỏ vì những vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng.

Theo thống kê của Viện Max Planck trên tạp chí Nature, hơn 5,5 triệu người chết mỗi năm do bệnh tật liên quan đến ô nhiễm không khí.

Thông tin trên Trang Suckhoevadoisong cho rằng ở Việt Nam, với ngưỡng ô nhiễm không khí nghiêm trọng, người dân đang phải đối mặt với những nguy hại trực tiếp đến sức khỏe, đặc biệt tại những khu vực đông dân cư như Hà Nội, TP.HCM. Vậy ô nhiễm không khí đang tiềm tàng gây ra những căn bệnh hiểm nghèo nào?

Tăng huyết áp: Nghiên cứu của các nhà khoa học Đức tìm hiểu ảnh hưởng của không khí ô nhiễm lên huyết áp người dân năm 2000 – 2003 cho thấy loại ô nhiễm này đang là kẻ thù giấu mặt của bệnh tim – căn bệnh đang có xu hướng gia tăng ở cư dân đô thị. Khi tiếp xúc với ô nhiễm không khí trong một thời gian dài, huyết áp tăng lên rõ rệt. Ở nữ giới, bệnh tăng huyết áp do ô nhiễm không khí cao hơn ở nam giới. Thống kê cho thấy có khoảng 10 triệu người Việt Nam mắc bệnh tăng huyết áp trong năm 2014 và con số này không ngừng tăng lên theo từng năm. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh sẽ gây ra những biến chứng như xuất huyết não, suy thận, xuất huyết võng mạc…

Tự kỷ và bệnh tâm thần phân liệt: Theo một nghiên cứu mới đây thì việc tiếp xúc sớm với ô nhiễm không khí gây ra các biến đổi có hại ở não, tương tự như những gì chúng ta quan sát được ở bệnh tự kỷ hay tâm thần phân liệt. Một nhóm nghiên cứu đến từ ĐH Rochester, Mỹ đã thí nghiệm trên 40 con chuột trong 270 ngày khi đặt chúng giữa môi trường ô nhiễm mức độ trung bình như mức độ ô nhiễm ở một thành phố. Kết quả cho thấy não chuột lớn dần lên, khiến tế bào não bị tổn thương, mà nguyên nhân có thể xuất phát từ ô nhiễm không khí, hậu quả dẫn đến căn bệnh tự kỷ và rối loạn tâm thần. Đối với con người, tâm thần phân liệt khiến người bệnh rối loạn khả năng tư duy, mất ý thức muốn làm việc, dần dần trở nên cách ly với xã hội.

Béo phì: Các nhà khoa học Trung Quốc mới đây kết luận rằng hít thở thường xuyên không khí ô nhiễm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình chuyển hóa gây ra các bệnh tiểu đường, béo phì. Một nghiên cứu được thực hiện trước đó tại miền Nam bang California cũng cho thấy nơi có mật độ dân số cao và không khí ô nhiễm nặng nề, chỉ số cân nặng của người dân thường cao hơn so với các khu vực khác. Một nghiên cứu khác được thực hiện tại New York cũng chỉ ra ô nhiễm không khí ảnh hưởng xấu đến việc mang thai cũng như chứng béo phì ở trẻ em. Tại Việt Nam khoảng 25% người trưởng thành mắc bệnh béo phì. Và tình trạng thừa cân, béo phì ở người trưởng thành đang có xu hướng ngày càng phổ biến. Nguyên nhân có thể có nhiều nhưng không thể loại trừ nguyên nhân do ô nhiễm không khí.

Viêm tai giữa: Không khí ô nhiễm, bụi bẩn, sống trong môi trường khói thuốc là những yếu tố làm tăng nguy cơ viêm tai giữa, đặc biệt là ở trẻ em. Tại bệnh viện Nhi Đồng 1, số bệnh nhân đến khám và điều trị bệnh viêm tai giữa tăng lên từng năm, từ 441 trường hợp năm 1996 vào lên 1.999 trường hợp vào năm 2005.

Viêm tai giữa nếu không được điều trị có thể gây thủng màng nhĩ, nhiễm trùng, dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như viêm màng não, viêm tắc tĩnh mạch, gây tê liệt dây thần kinh số 7.

Làm gì để giảm ô nhiễm không khí?

Trước tình trạng “mở mắt đã ngửi thấy mùi ô nhiễm” tại các thành phố lớn, chúng ta cần làm gì để ô nhiễm không khí không còn là nguyên nhân gây bệnh hàng đầu?

Hãy thực hiện những việc hết sức đơn giản như đeo khẩu trang khi ra ngoài, sử dụng nước muối sinh lý để nhỏ mắt, vệ sinh mũi sau khi đi ra ngoài.

Trước hết, hãy thực hiện những việc hết sức đơn giản như đeo khẩu trang khi ra ngoài, sử dụng nước muối sinh lý để nhỏ mắt, vệ sinh mũi sau khi đi ra ngoài. Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đại tiểu tiện, thay quần áo và tắm gội ngay khi về nhà.

Đóng cửa kính khi đi xe ô tô, đóng kín cửa tại các khu tập trung đông dân. Hạn chế ở ngoài trời vào giờ cao điểm, tránh tập thể dục ngoài trời khi mức độ ô nhiễm cao. Tận dụng không gian quanh nhà để trồng thêm cây xanh nếu có điều kiện. Trồng cây xanh ở nơi có mật độ dân cư đông sẽ giúp cải thiện chất lượng không khí khi nó hấp thu khí độc như NO2, CO2, CO.

Ai cũng biết ô nhiễm môi trường ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng con người. Nhưng dường như việc tự cá nhân đi khám chữa bệnh do ô nhiễm thì dễ dàng hơn toàn thể nhân loại chung tay bảo vệ môi trường. Con người chúng ta mới chỉ dừng ở mức nhận thức, đến lúc bắt đầu hành động thì có lẽ đã quá muộn rồi!

Theo moitruong.com.vn

Thử nghiệm thành công tàu không xả khí thải, thân thiện với môi trường

Đoàn tàu chở khách mang tên Coradia iLint, không xả khí thải của Đức đã đưa vào chạy thử nghiệm thành công và được kỳ vọng là một bước ngoặt thay đổi toàn bộ ngành đường sắt trên toàn thế giới.

Cụ thể, đầu tháng 3/2017, tàu hỏa Coradia iLint được hoàn thiện và bắt đầu các thử nghiệm ban đầu ngay tại nhà máy của công ty Alstom ở miền Bắc nước Đức, trên đường ray thử nghiệm Salzgitter với vận tốc khoảng 80 km/h. Sau đó, các kỹ sư của Alstom tiếp tục cải tiến và hoàn thiện để nó đạt vận tốc lên tới 140 km/h vào đầu năm 2018, trên tuyến đường sắt Buxtehude – Bremerhaven – Cuxhaaven.

Các nhà sản xuất cho biết, với bồn chứa đầy hiđrô, Coradia iLint có thể chạy được từ 600 – 800 km/ngày.

Trong suốt quá trình thử nghiệm ban đầu, Coradia iLint đã được kiểm tra an toàn đối với tất cả các hệ thống để xác định sự ổn định và kết hợp hoàn thiện giữa các hệ thống với nhau, giữa pin lithium ion và nhiên liệu, giữa hệ thống phanh bằng khí nén và điện.

Theo đó, Coradia iLint di chuyển được là nhờ những khối pin lithium ion rất lớn, nhận năng lượng từ thùng nhiên liệu hydro đặt trên nóc con tàu. Khi khí hiđrô được đốt cùng ôxi sẽ tạo ra một nguồn năng lượng lớn và sản phẩm cuối cùng của phản ứng cháy này là nước. Hydro là một sản phẩm phụ từ ngành công nghiệp, rất thích hợp để tái sử dụng. Trong tương lai, Alstom dự kiến sẽ thay thế khí hydro từ sản phẩm phụ công nghiệp bằng khí hydro được tạo ra bằng năng lượng tái tạo, từ gió tự nhiên.

Các nhà sản xuất cho biết, với bồn chứa đầy hiđrô, Coradia iLint có thể chạy được từ 600 – 800 km/ngày, tùy thuộc vào việc vận chuyển hành khách, hàng hóa, hay như có nhiều điểm dừng, độ dốc cao hoặc đặc điểm địa hình khiến mức tiêu thụ năng lượng nhiều hơn.

Ưu điểm nổi bật nhất của Coradia iLint là không xả khí thải mà chỉ có hơi nước và nước ngưng tụ, nên nó sẽ góp phần giảm tối đa các chất thải công nghiệp, góp phần BVMT. Ngoài ra, khi hoạt động, Coradia cũng không gây ra tiếng ồn, hiệu suất hoạt động rất cao và an toàn.

Theo tapchimoitruong.vn

Biến dầu ăn thành vật liệu cứng hơn thép

Các nhà khoa học Úc vừa tạo ra vật liệu Graphene từ dầu ăn có rất nhiều đặc tính ưu việt, nó cứng hơn thép 200 lần, cứng hơn cả kim cương nhưng lại vô cùng linh hoạt.

Tạp chí Science Alert dẫn một báo cáo của các nhà khoa học Úc cho biết, họ đã tìm ra cách biến dầu ăn mà con người vẫn dùng hàng ngày thành Graphene, một siêu vật liệu có cực kỳ nhiều ứng dụng. Dưới những điều kiện nhất định, graphene còn có thể biến thành một chất siêu dẫn điện với điện trở bằng không.

Những đặc tính đó của graphene khiến nó có thể được dùng để tạo ra những thiết bị điện tử tốt hơn, các tấm năng lượng mặt trời có hiệu suất cao hơn và thậm chí còn có thể được sử dụng trong y học.

Công nghệ mới của các nhà khoa học Úc cho phép tổng hợp ra được vật liệu Graphene trong điều kiện nhiệt độ phòng thông thường và với nguyên vật liệu chỉ là dầu ăn mà thôi.


Một mảnh graphene được tạo ra từ dầu ăn.

Điều này giúp tiết kiệm rất nhiều chi phí để sản xuất Graphene so với cách thông thường trước kia. Chi phí để tạo ra loại vật liệu Graphene theo phương pháp cũ tương đối lớn vì chúng phải được tổng hợp trong các loại máy móc thiết bị đặc biệt, có khả năng tạo ra nhiệt độ cực lớn.

Chưa kể tới việc nguyên liệu tạo ra chúng cũng phải có độ tinh khiết rất lớn khiến cho giá thành của những loại vật liệu Graphene trở nên vô cùng đắt đỏ và khó có thể được ứng dụng rộng rãi trong tương lai gần.

Nói về công nghệ sản xuất Graphene bằng dầu ăn, nhà nghiên cứu Zhao Jun Han, đến từ CSIRO (Commonwealth Scientific and Industrial Research Organisation), tổ chức nghiên cứu độc lập của Chính quyền liên bang tại Australia đã cho biết: “Quy trình chế tạo ra loại vật liệu Graphene này rất nhanh chóng, đơn giản, an toàn và có tiềm năng mở rộng trên quy mô lớn. Chúng tôi hi vọng công nghệ duy nhất hiện nay mà chúng tôi đang nghiên cứu này sẽ giúp giảm giá thành sản xuất vật liệu Graphene, tăng tính ứng dụng thực tiễn của loại vật liệu này trong tương lai.”

Vật liệu Graphene với cấu trúc cacbon hình lục giác trải dải vô cùng bền chắc.

Hiện tại, nhóm nghiên cứu đã đặt tên cho công nghệ mới này là GraphAir và theo các nhà nghiên cứu mô tả một cách khái quát thì dầu ăn sẽ được nung nóng trong một ống thủy tinh chịu nhiệt trong khoảng 30 phút để chúng tự phân rã và hình thành các khối cacbon mới.

Những khối cacbon này sau đó sẽ được làm nguội và dàn đều trên những tấm kim loại nickel và tạo thành những tấm nguyên liệu Graphene với độ dày chỉ khoảng 1 nanometre mà thôi (nhỏ hơn 80,000 lần so với sợi tóc của con người).

Nhà nghiên cứu Dong Han Seo, một thành viên trong nhóm sáng chế, cho biết, công nghệ này không chỉ giúp đẩy nhanh quá trình tạo ra vật liệu Graphene mà nó còn giúp tiết kiệm chi phí sản xuất rất nhiều: “Chúng ta nay đã có thể tái chế dầu thải và sử dụng chúng để tạo nên những loại vật liệu vô cùng hữu dụng.”

Theo moitruong.com.vn

Giải pháp nào cho Việt Nam khi không sử dụng túi nilon?

Trong khi nhiều nước trên thế giới đang có xu hướng từ bỏ túi nilon thì, ở nước ta, việc sử dụng tràn lan các loại túi nilon trong các hoạt động sinh hoạt xã hội, chủ yếu và đặc biệt là loại túi siêu mỏng, thể hiện sự dễ dãi của cả người cung cấp cũng như người sử dụng. Vậy có giải pháp nào để hạn chế việc sử dụng túi nilon?

Túi nilon cần bao nhiêu năm để phân hủy

Theo các nhà khoa học, túi nilon được làm từ những chất khó phân hủy, khi thải ra môi trường phải mất từ hàng chục năm cho tới một vài thế kỷ mới được phân hủy hoàn toàn trong tự nhiên.

Sự tồn tại của nó trong môi trường sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất và nước bởi túi nilon lẫn vào đất sẽ ngăn cản ôxy đi qua đất, gây xói mòn đất, làm cho đất không giữ được nước, dinh dưỡng, từ đó làm cho cây trồng chậm tăng trưởng.

Nghiêm trọng hơn, môi trường đất và nước bị ô nhiễm bởi túi nilon sẽ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới sức khỏe con người. Trong thực tế, nhiều loại túi nilon được làm từ dầu mỏ nguyên chất khi ngấm vào nguồn nước sẽ xâm nhập vào cơ thể người gây rối loạn chức năng và dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ.

Túi nilon làm tắc nghẽn cống, rãnh, kênh, rạch, gây ứ đọng nước thải và ngập úng dẫn đến sản sinh ra nhiều vi khuẩn gây bệnh. Ngoài ra, túi nilon còn gây mất mỹ quan và cảnh quan. Ô nhiễm môi trường do chất thải túi nilon hiện được các nhà môi trường gọi là “ô nhiễm trắng”.

Nhiều quốc gia đang có xu hướng từ bỏ túi nilon.

Xu hướng từ bỏ túi nilon

Cùng với Việt Nam, nhiều quốc gia trên thế giới đã hưởng ứng chiến dịch Giờ Trái đất trong những năm qua và ngày càng nhiều quốc gia có xu hướng từ bỏ túi nilon trong cuộc sống hàng ngày – theo VTV.

Ngày càng nhiều quốc gia có xu hướng từ bỏ túi nilon trong cuộc sống hàng ngày, tiến tới một tương lai hoàn toàn không có túi nilon.

Theo những đề xuất đầu năm mới 2018, Thủ tướng Anh Theresa May đang thúc đẩy xóa bỏ hoàn toàn sử dụng nhựa “có thể tránh” vào năm 2042. Thay thế tất cả những thứ có thể thay thế với các vật liệu khác không phải nhựa. Các siêu thị được động viên mở những dãy hàng “không nhựa” riêng. Kế hoạch mới của Chính phủ Anh được đưa ra với mục đích xây dựng một nước Anh xanh và sạch hơn.

Trên khắp châu Âu nói chung, thói quen sử dụng túi nilon cũng đang được thay đổi. Chính phủ nhiều quốc gia bao gồm Luxembourg, Đan Mạch đã áp thuế vào những loại túi sử dụng 1 lần, trong khi đó các siêu thị ở Đức đang tích cực loại bỏ túi nilon, nhựa và thay thế bằng những chất liệu tái sử dụng bền hơn.

Năm 2017, Kenya đã chính thức quy việc sản xuất, sử dụng túi nilon là bất hợp pháp. Điều luật được ban hành khi cả quốc gia Kenya đang sử dụng 24 triệu chiếc túi nilon 1 tháng. Bất cứ ai vi phạm sẽ phải đối mặt với mức án 4 năm tù và phạt 38.000 USD. Hành khách đáp máy bay xuống Kenya nếu có dùng túi miễn thuế mua ở sân bay cũng phải bỏ túi mới được nhập cảnh.

Trong khi đó Zimbabwe cũng có những thay đổi trong chính sách của mình khi cấm hoàn toàn các hộp xốp đựng thức ăn mua về, thay thế bằng những hộp giấy hoặc hộp làm từ bột ngô.

Còn Chính phủ Scotland cấm mua bán và sản xuất những que bông tai nhựa và những sản phẩm nhựa tương tự, vốn thường bị xả ra biển. Giải pháp thay thế là những vật liệu có thể phân hủy được.

Giải pháp nào cho Việt Nam?

Về giải pháp chính sách, xin trở lại với loại giải pháp hành chính là cấm lưu hành và sử dụng túi nilon như Trung Quốc hiện được áp dụng từ ngày 1/6/2008. Điều kiện để áp dụng giải pháp cấm đoán thường được nêu là có chế tài, bộ máy giám sát thực thi tốt, có vật dụng thay thế. Xin bổ sung thêm điều kiện nữa về kinh tế, điều kiện này là quan trọng, mang tính chất quyết định vì một khi thu nhập dân cư còn thấp thì hành vi của người tiêu dùng (cả người sản xuất, phân phối) tất yếu hướng nhiều vào loại hàng hóa, dịch vụ giá rẻ. Trong trường hợp túi nilon giá thì rẻ còn được khuyếch đại lên nhiều bởi tính tiện dụng, kết quả là người tiêu dùng thu nhập thấp lựa chọn túi nilon mặc dù nhận thức được tác hại tới môi trường và sức khỏe, sự cấm đoán sẽ ít tác dụng.

Như vậy, theo Tổng cục Môi trường, đối với chất thải túi nilon nên hướng chủ yếu vào các giải pháp kinh tế. Các loại giải pháp khác (kể cả hành chính) là bổ sung, hỗ trợ. Cần cả 2 loại giải pháp kinh tế là công cụ thị trường và trợ giá.

Về công cụ thị trường, đó là quan hệ cung – cầu và giá cả. Cần tăng cường cung cấp cho thị trường loại túi nilon thân thiện môi trường đồng thời hạn chế sản xuất và cung ứng loại túi nilon khó phân hủy. Năng lực sản xuất loại túi nilon thân thiện môi trường ở nước ta được đánh giá là có khả năng với công nghệ trong nước, đã đưa ra thăm dò thị trường một số năm gần đây nhưng kết quả chưa nhiều vì lý do chưa cạnh tranh được với loại túi nilon khó phân hủy đang thông dụng hiện nay về giá cả. Mặc dù đã có những cố gắng giảm chi phí sản xuất nhưng vẫn còn cao hơn vài chục phần trăm so với sản xuất loại túi nilon khó phân hủy. Công ty ALTA ở TP Hồ Chí Minh đã sản xuất loại bao bì nhựa có thể tự phân hủy (từ 3 tháng đến lâu hơn tùy theo yêu cầu) từ năm 2003, đã đưa ra thăm dò thị trường và đang xuất khẩu mặt hàng này ra nước ngoài. Tuy nhiên, theo người phụ trách kinh doanh Công ty, do giá thành của bao bì nhựa tự hủy cao hơn bao bì nhựa thường từ 15 – 20% nên chưa được các khách hàng trong nước lựa chọn.

Sự trợ giúp này về BVMT phù hợp với chức năng quản lý nhà nước và đã được luật định (Khoản 6, Điều 5; Mục c, khoản 2, Điều 111, Luật Bảo vệ môi trường 2005 và được cụ thể hóa tại Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/1/2009 về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động BVMT). Nhiều nước trên thế giới cũng đang trợ giá cho các bao bì thân thiện môi trường (một số siêu thị ở Thái Lan áp dụng giảm 15 -30% cho những khách hàng dùng túi xách của mình để đựng đồ). Sự trợ giúp này đối với trường hợp loại túi nilon khó phân hủy với giả định giá bán hiện nay ở nước ta khoảng 200 đ/túi thì trợ giúp của Nhà nước (trợ giá) khoảng 15% sẽ là 30 đ/túi. Với mức tiêu dùng hiện nay (khoảng 30 tỷ chiếc/năm) và giả định lộ trình thay thế trong một số năm trước mắt là 10% số lượng mỗi năm thì ước tính mức trợ giá của Nhà nước cho loại túi nilon thân thiện môi trường khoảng gần 100 tỷ đồng mỗi năm.

Cũng có thể đưa vào cân nhắc con số ngân sách sự nghiệp môi trường hàng năm dành cho kiểm soát, bao gồm cả xử lý ô nhiễm môi trường do chất thải và các khoản thu khác từ môi trường (thuế, phí, phạt…) cũng như các nguồn quốc tế (hỗ trợ chính thức và phi chính thức) cho môi trường cùng khả năng trích ra hỗ trợ sản xuất túi nilon thân thiện môi trường để có thêm cơ sở về kinh tế – tài chính cho việc lựa chọn giữa trợ giá với chấp nhận xử lý “theo cuối đường ống” như hiện nay. Cũng lưu ý thêm rằng, sự trợ giá này chỉ diễn ra trong một số năm nhất định để mang tính chất tạo đà vì theo quy luật thị trường, khi thị phần của sản phẩm mới đạt tới tỷ lệ nhất định (thường là điểm “hòa vốn”) thì doanh nghiệp tự cân đối mà không cần tới sự trợ giúp từ bên ngoài.

Theo quy định tại Khoản 3, Nghị định số 04/2009/NĐ-CP thì nguồn kinh phí hỗ trợ giá được lấy từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam còn hạn chế về nguồn vốn huy động thì cần thêm nguồn hỗ trợ khác có thể huy động theo quy định của pháp luật. Theo tính toán sơ bộ, bên cạnh khả năng hỗ trợ của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam thì với khoản ngân sách sự nghiệp môi trường hàng năm (1% tổng chi ngân sách – khoảng 5.000 tỷ đồng) và các khoản thu khác từ môi trường cùng các khả năng khác như khoản ngân sách sự nghiệp kinh tế của các Bộ, ngành, địa phương có thể chi cho BVMT, các nguồn quốc tế cho môi trường ước hàng nghìn tỷ đồng nữa thì việc cân nhắc khoản trợ giá khoảng một vài trăm tỷ đồng mỗi năm (trong vài năm) hỗ trợ sản xuất túi nilon thân thiện môi trường chắc không phải là khó khăn.

Các giải pháp khác được tiến hành đồng thời cũng sẽ góp phần hỗ trợ người phân phối và người tiêu dùng lựa chọn sử dụng túi nilon thân thiện môi trường và qua đó tăng nhanh tỷ phần thị trường của loại túi này, giúp giảm dần sự trợ giá cho sản xuất.

Theo moitruong.com.vn

Khởi động chiến dịch Giờ trái đất 2018: “Go more green”

Lễ khởi động chiến dịch Giờ Trái đất 2018 được tổ chức vào hồi 8h00, Thứ Bảy, ngày 3/3 tại Vườn hoa Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Chương trình Phát động nghi thức Tắt đèn Giờ Trái đất 2018 sẽ diễn ra từ 20h30 – 21h30 ngày Thứ Bảy ngày 24 tháng 3 năm 2018 tại Quảng trường Cách mạng Tháng Tám, Hà Nội, với sự tham gia của 2.000-3.000 người.

Theo đó, khẩu hiệu cho Chiến dịch Giờ Trái đất tại Việt Nam năm 2018 là “Hôm nay tôi sống xanh hơn” (“Go more green”).

Chương trình Phát động nghi thức Tắt đèn Giờ Trái đất 2018 sẽ diễn ra từ 20h30 – 21h30 ngày Thứ Bảy ngày 24 tháng 3 năm 2018 tại Quảng trường Cách mạng Tháng Tám, Hà Nội và truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1 – Đài Truyền hình Việt Nam.

Đây là Sự kiện quan trọng nhất để kết nối, thông tin, báo cáo xuyên suốt hoạt động về Giờ Trái đất 2018, tuyên truyền sâu rộng chi tiết đến hơn 90 triệu dân về hoạt động ý nghĩa này.

Giờ trái đất 2017 với thông điệp: Tắt đèn – Bật tương lai đã giúp hệ thống điện quốc gia tiết kiệm được 471.000 kWh, tương đương với giá trị khoảng 764 triệu đồng.

Bên cạnh đó, một loạt các hoạt động hưởng ứng tiếp theo cũng sẽ được thực hiện cho đến ngày diễn ra sự kiện chính vào ngày 24/3 như: Tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, trang thông tin điện tử, phát tờ rơi, video clip cổ động trên truyền hình, đài phát thanh, các trang mạng xã hội, fanpage để thu hút sự tham gia hưởng ứng của toàn xã hội.

Tuyên truyền về chiến dịch tại các trường Đại học và các trường Trung học phổ thông bao gồm: giao lưu với đại sứ chiến dịch; truyền tải thông điệp của chiến dịch năm 2018; giới thiệu, khuyến khích tham gia các hoạt động bên lề của chiến dịch; giáo dục các biện pháp tiết kiệm môi trường thực tế trong đời sống. Dự kiến tổ chức vào ngày 5/3 tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội và ngày 12/3 tại trường THPT Chu Văn An, Hà Nội.

Tổ chức chuỗi hoạt động Greener Garden tại các hộ gia đình tại Hà Nội nhằm mục đích tuyên truyền, thúc đẩy các hoạt động làm xanh hóa khu vực sinh sống trong các gia đình thành thị, giảm thiểu sử dụng túi nilon.

Tổ chức hoạt động đi bộ Vì Trái đất 2018 hưởng ứng Chiến dịch Giờ Trái đất 2018 tại các tuyến phố đi bộ hoặc phố cổ với sự tham dự của các đại sứ chiến dịch, dự kiến vào ngày 11/3.

Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Xanh dành cho đối tượng sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng về sáng tạo video, phim ngắn về đề tài môi trường, dự kiến vào ngày 18/3.

Việt Nam tham gia Giờ trái đất từ năm 2009. Đây là một trong những hành động của Chính phủ và người dân Việt Nam thể hiện cam kết giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính đến năm 2030, chung tay cùng thế giới trong cuộc chiến ứng phó biến đổi khí hậu.

Giờ trái đất 2017 với thông điệp: Tắt đèn – Bật tương lai đã giúp hệ thống điện quốc gia tiết kiệm được 471.000 kWh, tương đương với giá trị khoảng 764 triệu đồng.

Theo baodautu.vn