Công nghệ mới tạo ra nấm men chạy bằng năng lượng mặt trời

Các nhà khoa học đã tạo ra công nghệ mới có thể tạo ra nấm men bằng cách thu năng lượng từ mặt trời. Nhóm nghiên cứu cho biết, kỹ thuật này cực kỳ dễ thực hiện, không chỉ giúp hiểu thêm về sự tiến hóa mà còn tạo ra bia và nhiên liệu sinh học tốt hơn.

Bất kỳ nhà sản xuất bia hoặc làm bánh nào cũng biết rằng men rất nhạy cảm với ánh sáng. Việc tiếp xúc với ánh sáng khiến men dễ bị hỏng và sản phẩm như bánh mì hoặc bia không tạo được độ phồng. Chất men phát triển, hoạt động tốt nhất trong bóng tối hoàn toàn và được kiểm soát nhiệt độ cẩn thận. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu mới, các nhà khoa học tại Georgia Tech đã chế tạo men không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh trong ánh sáng.

Các nhà nghiên cứu đã chỉnh sửa gen của nấm men để biến nó thành sinh vật quang dưỡng – một sinh vật thu ánh sáng và sử dụng nó để tạo ra năng lượng. Hầu hết khả năng này xuất hiện thông qua bộ máy phân tử phức tạp, sẽ quá cồng kềnh để đưa vào một sinh vật không có bối cảnh di truyền thích hợp.

Đối với nghiên cứu mới, nhóm nghiên cứu đã cung cấp cho nấm men công cụ đơn giản hơn nhiều – protein gọi là rhodopsin, có khả năng tự chuyển đổi ánh sáng thành năng lượng. Chúng không chỉ khép kín mà các gen của chúng còn được truyền đi một cách tự nhiên giữa các sinh vật, thông qua quá trình gọi là chuyển gen ngang. Cơ chế này là yếu tố chính trong các quá trình như kháng kháng sinh.


Nấm men được thiết kế để có thể tạo ra năng lượng từ ánh sáng.

Autumn Peterson, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Rhodopsin được tìm thấy trên khắp cây sự sống và dường như được sinh vật lấy gen từ nhau trong quá trình tiến hóa”.

Nhóm nghiên cứu đã tổng hợp gen rhodopsin từ loại nấm ký sinh và đưa nó vào một cơ quan gọi là không bào trong tế bào nấm men. Ngay cả khi không có bất kỳ sự tối ưu hóa nào, nấm men vẫn có thể tạo ra năng lượng từ ánh sáng để hỗ trợ năng lượng thông thường từ oxy. Khi được thắp sáng, men đã qua chỉnh sửa phát triển nhanh hơn men tự nhiên khoảng 2% và hoạt động tốt hơn men đã qua chỉnh sửa để trong bóng tối.

Anthony Burnetti, đồng tác giả của nghiên cứu cho hay: “Ở đây, chúng tôi có một gen duy nhất và chúng tôi chỉ đưa nó qua bối cảnh thành một dòng chưa bao giờ là sinh vật quang dưỡng trước đây và nó vẫn hoạt động. Điều này nói lên rằng hệ thống này thực sự dễ dàng thực hiện công việc trong một sinh vật mới”.

Nhóm nghiên cứu cho biết, nghiên cứu này có thể giúp các nhà khoa học thiết kế chủng nấm men năng suất cao hơn cho mọi thứ từ bia đến nhiên liệu sinh học. Nhưng mục tiêu cụ thể của họ là sử dụng nó để nghiên cứu quá trình tiến hóa, cụ thể là sự sống có thể đã tạo ra bước nhảy vọt từ dạng đơn bào sang dạng đa bào như thế nào. Năm ngoái, nhóm nghiên cứu đã thực hiện một chút chọn lọc tự nhiên nhân tạo và qua hàng nghìn thế hệ đã phát triển nấm men lớn hơn 20.000 lần và cứng hơn 10.000 lần, hình thành các cụm khuẩn lạc bắt đầu thể hiện một số đặc tính của đa bào.

Một trong những thách thức chính của dự án đó là cung cấp đủ năng lượng cho nấm men đang phát triển. Oxy là nguồn chính của nó, nhưng khi các cấu trúc ngày càng lớn hơn thì việc khuếch tán đủ oxy khắp nơi càng khó khăn hơn. Bước tiếp theo là cần cố gắng thực hiện thí nghiệm tiến hóa đa bào với nấm men quang hướng để xem liệu việc có nhiều lựa chọn hơn để sản xuất năng lượng có giúp tăng cường vi khuẩn hay không.

Hà My
https://vietq.vn/cong-nghe-moi-tao-ra-nam-men-chay-bang-nang-luong-mat-troi-s17-d218104.html

Công nghệ pin hạt nhân có thể sử dụng 50 năm không cần sạc

Một công ty khởi nghiệp Trung Quốc công bố đang trong quá trình nghiêm cứu thử nghiệm thí điểm loại pin hạt nhân siêu nhỏ có thể tạo ra điện trong 50 năm mà không cần sạc hoặc bảo trì.

Thực tế, các nhà khoa học ở Liên Xô và Hoa Kỳ đã có thể phát triển công nghệ này để sử dụng trong tàu vũ trụ, hệ thống tưới nước và các trạm khoa học từ xa, tuy nhiên pin nhiệt hạch vừa tốn kém vừa cồng kềnh.

Do đó với công nghệ mới này, công ty Betavolt có trụ sở tại Bắc Kinh trở thành công ty đầu tiên trên thế giới thực hiện thành công việc thu nhỏ năng lượng nguyên tử, đặt 63 đồng vị hạt nhân vào một mô-đun nhỏ hơn một đồng xu. Pin hoạt động bằng cách chuyển đổi năng lượng được giải phóng khi phân hủy các đồng vị thành điện năng, thông qua một quá trình được khám phá lần đầu tiên vào thế kỷ 20.


Pin hạt nhân siêu nhỏ có thể sử dụng 50 năm không cần sạc (Ảnh: Independent)

Theo đó pin hạt nhân đầu tiên của Betavolt có thể cung cấp 100 microwatt điện và điện áp 3V, đồng thời có kích thước 15x15x5 milimet khối, tuy nhiên công ty có kế hoạch sản xuất pin có công suất 1 watt vào năm 2025.

Về khả năng ứng dụng, với kích thước nhỏ, pin hạt nhân có thể được sử dụng hàng loạt để tạo ra nhiều năng lượng hơn, do đó có thể tạo ra những chiếc điện thoại di động không bao giờ cần sạc và máy bay không người lái có thể bay mãi mãi. Thiết kế nhiều lớp của nó cũng có nghĩa là nó sẽ không bắt lửa hoặc phát nổ trước lực đột ngột, đồng thời có khả năng hoạt động ở nhiệt độ từ -60C đến 120C.


Mô phỏng cấu trúc của pin hạt nhân cỡ nhỏ do Betavolt đang phát triển.

“Pin năng lượng nguyên tử Betavolt có thể đáp ứng nhu cầu cung cấp năng lượng lâu dài trong nhiều tình huống, chẳng hạn như hàng không vũ trụ, thiết bị AI, thiết bị y tế, bộ vi xử lý, cảm biến tiên tiến, máy bay không người lái nhỏ và robot siêu nhỏ”, công ty Betavolt tuyên bố.

Trước lo ngại về pin hạt nhân có thể ảnh hưởng tới sức khỏe, Betavolt khẳng định: “Pin năng lượng nguyên tử do Betavolt phát triển tuyệt đối an toàn, không có bức xạ bên ngoài và phù hợp để sử dụng trong các thiết bị y tế như máy điều hòa nhịp tim, tim nhân tạo và ốc tai trong cơ thể con người”.

“Pin năng lượng nguyên tử thân thiện với môi trường. Sau thời gian phân rã, 63 đồng vị biến thành đồng vị ổn định của đồng, không có tính phóng xạ và không gây ra bất kỳ mối đe dọa hay ô nhiễm nào cho môi trường”, đại diện Betavolt nói.

Công ty Betavolt hiện đang tiến hành thử nghiệm thí điểm và có kế hoạch bắt đầu sản xuất pin hàng loạt để phục vụ thị trường đại chúng trong tương lai gần.

Duy Trinh (theo Independent)
https://vietq.vn/dot-pha-cong-nghe-pin-su-dung-nang-luong-hat-nhan-co-the-su-dung-50-nam-khong-can-sac-d218037.html

 Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon là gì?

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) là một công cụ chính sách được thiết kế để giải quyết nguy cơ rò rỉ carbon liên quan đến hàng nhập khẩu vào Liên minh châu Âu (EU).

CBAM thực hiện thí điểm trong bao lâu?

Cơ chế này là một chính sách thuộc Thỏa thuận xanh châu Âu và là chiến lược tăng trưởng mới của EU nhằm xây dựng một xã hội công bằng, thịnh vượng, thúc đẩy các ngành công nghiệp phát triển trên cơ sở một nền kinh tế sạch và bền vững. CBAM kỳ vọng sẽ giúp EU giảm phát thải carbon ít nhất 55% vào năm 2030 so với mức năm 1990. CBAM xây dựng dựa trên sự minh bạch về thông tin và ảnh hưởng lớn không chỉ về phát thải khí nhà kính, biến đổi khí hậu, mà còn tác động trực tiếp tới chuỗi cung ứng hàng hóa của các doanh nghiệp.

CBAM được thiết kế để tương thích với các quy định của WTO. Ban đầu, CBAM sẽ được áp dụng trước tiên đối với việc nhập khẩu một số hàng hóa và tiền chất được chọn, mà quá trình sản xuất có sử dụng nhiều carbon và có nguy cơ rò rỉ carbon đáng kể nhất bao gồm: xi măng, sắt và thép, nhôm, phân bón, điện và hydro.

CBAM được áp dụng thí điểm cho giai đoạn chuyển tiếp từ ngày 01/10/2023 đến 31/12/2025 và dự kiến sẽ thực hiện đầy đủ từ năm 2026.

Trong giai đoạn này, các nhà nhập khẩu tại EU có nghĩa vụ báo cáo theo quy định tại Điều 33, 34 và 35 của Quy định (EU) 2023/956, cũng như phải báo cáo vào cuối mỗi quý phát thải được ghi trong hàng hóa CBAM mà không phải thanh toán mức chi phí điều chỉnh.

Giai đoạn chuyển tiếp của CBAM kết thúc, nhà nhập khẩu phải làm gì?

Từ 01/01/2026 khi giai đoạn chuyển tiếp đã kết thúc, các nhà nhập khẩu hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh của CBAM tại EU có nghĩa vụ báo cáo lượng khí thải carbon của mình và phải nộp số chứng chỉ CBAM tương ứng. Giá của các chứng chỉ sẽ được tính tùy thuộc vào giá đấu giá trung bình hàng tuần của các khoản trợ cấp ETS của EU được biểu thị bằng €/tấn CO2 thải ra. Một cơ quan CBAM trung ương duy nhất tại EU, sẽ chịu trách nhiệm thực hiện CBAM thay cho cơ quan địa phương ở mỗi quốc gia thành viên.

Nếu các nhà nhập khẩu EU có thể chứng minh, dựa trên thông tin đã được xác minh từ các nhà sản xuất ở nước thứ ba rằng giá carbon đã được thanh toán trong quá trình sản xuất hàng hóa nhập khẩu, số tiền tương ứng có thể được khấu trừ vào hóa đơn cuối cùng của họ.

CBAM ảnh hướng thế nào đến xuất khẩu của Việt Nam?

Theo Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại – VIOIT, CBAM hiện có tác động trực tiếp đến 4 ngành công nghiệp chính của Việt Nam đó là sắt thép, xi măng, phân bón và nhôm. Tuy nhiên, đây đều không phải những ngành có sản lượng xuất khẩu lớn của nước ta sang EU. Do đó, trong ngắn hạn, xuất khẩu tổng thể của Việt Nam sang EU không bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, về cơ bản việc áp dụng CBAM sẽ làm tăng giá hàng hóa xuất khẩu nên cũng ảnh hưởng tới nhu cầu tại thị trường EU và khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam.

Theo đó, các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU phải theo dõi chặt chẽ tiến độ của CBAM và chủ động chuẩn bị kế hoạch ứng phó nhằm giảm thiểu tác động đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu.

Song song với đó cần nghiên cứu kỹ các yêu cầu về báo cáo phát thải khí nhà kính, phát triển các quy trình nội bộ, hệ thống tính toán lượng phát thải phục vụ báo cáo CBAM. Đánh giá tác động tài chính tiềm ẩn của CBAM đối với hoạt động xuất khẩu bao gồm cả tác động lên chiến lược quảng cáo, tiếp thị sản phẩm và các cơ hội thương mại nếu sản phẩm ít phát thải carbon hơn và “xanh hơn” so với mức trung bình của ngành và đối thủ cạnh tranh hiện tại. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng nên cân nhắc áp dụng các chính sách khử carbon, các quy trình, phương pháp sản xuất xanh hơn để giảm lượng khí thải trong suốt quá trình sản xuất.

VNCPC

Phát triển vật liệu gỗ trong suốt bền hơn gấp 10 lần so với thủy tinh

Các nhà nghiên cứu đang phát triển 1 loại vật liệu mới, có tên là gỗ trong suốt, mục đích thay thế cho mặt kính hoặc mica có độ bền gấp 10 lần thủy tinh. Nếu thành công, công nghệ này sẽ là 1 bước ngoặt cho ngành công nghiệp màn hình.

Hơn 30 năm trước, nhà thực vật học người Đức, Siegfried Fink đã thành công trong việc tạo ra gỗ trong suốt và ông đã công bố kỹ thuật của mình trong một tạp chí chuyên ngành về công nghệ gỗ. Bài báo năm 1992 này đã là nghiên cứu cuối cùng về gỗ trong suốt trong, cho đến khi một nhà nghiên cứu tên là Lars Berglund tình cờ phát hiện nó.


Mảnh kính được tạo ra từ gỗ trong suốt (Ảnh: USDA Forest Service)

Berglund đã được truyền cảm hứng từ phát hiện của Fink, nhưng không phải vì lý do thực vật học. Nhà khoa học vật liệu này, làm việc tại Viện Công nghệ Hoàng gia (Kungliga Tekniska Högskolan- KTH) ở Thụy Điển, chuyên về composite polymer và quan tâm đến việc tạo ra một lựa chọn mạnh mẽ hơn cho nhựa trong suốt.

Sau nhiều năm thực nghiệm, nghiên cứu của những nhóm này đang bắt đầu đạt được thành công. Gỗ trong suốt có thể sớm được sử dụng trong màn hình siêu cường cho điện thoại thông minh; trong đèn trang trí mềm, sáng bóng; và thậm chí cả như các tính năng cấu trúc, chẳng hạn như cửa sổ có thể thay đổi màu sắc.

“Tôi thực sự tin rằng vật liệu này có tương lai hứa hẹn,” Qiliang Fu, một chuyên gia vật liệu nanotechnolog tại Đại học Lâm nghiệp Nanking ở Trung Quốc, người đã làm việc trong phòng thí nghiệm của Berglund khi là sinh viên nghiên cứu.

Gỗ được tạo ra từ vô số các kênh nhỏ dọc, giống như một bó ống rắn được liên kết với nhau bằng keo. Những tế bào hình ống này truyền chất nước và dưỡng chất qua cây, và khi cây được thu hoạch và độ ẩm bay hơi, các khe hở không khí được tạo ra. Để tạo ra gỗ trong suốt, các nhà khoa học cần phải sửa đổi hoặc loại bỏ keo, gọi là lignin, giữ các bó túi tế bào lại với nhau và cung cấp cho thân cây và những cành cây nhiều tông màu nâu đất. Sau khi tẩy màu lignin đi hoặc loại bỏ nó bằng cách nào đó, một kết cấu xương màu trắng sữa của các tế bào rỗng vẫn còn lại.

Kết cấu này vẫn mờ, vì tường tế bào làm bẻ đè ánh sáng theo một mức độ khác nhau so với không khí trong các túi tế bào – giá trị gọi là chỉ số khúc xạ. Việc điền khe hở không khí bằng chất như nhựa epoxy làm bẻ đè ánh sáng theo một mức độ tương tự với tường tế bào khiến gỗ trở nên trong suốt.

Theo nhà khoa học vật liệu Liangbing Hu, người dẫn đầu nhóm nghiên cứu về gỗ trong suốt tại Đại học Maryland ở College Park, vật liệu mà các nhà nghiên cứu làm việc thường mỏng – thường ít hơn một milimét đến khoảng một centimet nhưng các tế bào tạo ra một cấu trúc chắc chắn như một cái ổ ong, và những sợi gỗ nhỏ này mạnh mẽ hơn cả sợi cacbon tốt nhất. Và với nhựa thêm vào, gỗ trong suốt vượt trội so với nhựa và kính: trong các thử nghiệm đo lường cách vật liệu dễ vỡ hoặc gãy dưới áp suất, gỗ trong suốt cho khả năng cứng cáp gấp ba lần so với nhựa trong suốt như Plexiglass và khoảng 10 lần so với thủy tinh.

Với những tiến bộ đáng kể này, gỗ trong suốt hứa hẹn sẽ mở ra nhiều cơ hội mới trong ngành công nghiệp và đời sống hàng ngày, từ công nghệ màn hình điện thoại thông minh đến trang trí nội thất và cửa sổ thông minh. Nhìn chung, đây là một bước tiến quan trọng trong việc sáng tạo vật liệu và ứng dụng chúng trong thế giới hiện đại.

Duy Trinh (Theo Scientific American)
https://vietq.vn/phat-trien-vat-lieu-go-trong-suot-ben-hon-gap-10-lan-so-voi-thuy-tinh-d217958.html

Sản xuất thành công than sinh học từ vỏ sắn phế phẩm

Nhóm giảng viên Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM đã nghiên cứu chế tạo thành công than sinh học từ vỏ sắn phế phẩm ứng dụng làm chất hấp phụ màu xanh methylene trong nước thải.

TS. Đỗ Quý Diễm, thành viên nhóm cho biết, than sinh học (biochar) là khoáng chất dạng rắn giàu carbon, có thể thu được khi nhiệt phân yếm khí sinh khối (biomass) các phụ phẩm nông nghiệp. Tùy thuộc vào nhiệt độ nhiệt phân và loại sinh khối mà sản phẩm biochar thu được có thành phần, tính chất khác nhau.

Phế phẩm cây trồng như rơm rạ, vỏ trấu, sắn, dừa, cà phê, phế thải gỗ… là một trong những nguồn sinh khối tiềm năng để phục vụ nhu cầu sản xuất biochar. Trong đó, vỏ sắn (khoai mì) có hai dạng cấu trúc là vỏ gỗ và vỏ cùi. Vỏ gỗ chiếm 0,5 – 3% khối lượng củ, gồm các tế bào có cấu tạo từ cellulose và hemicellulose, hầu như không có tinh bột.

Vỏ cùi dày hơn vỏ gỗ, chiếm khoảng 8 – 20% khối lượng củ, gồm các tế bào được cấu tạo bởi cellulose và tinh bột. Với loại này, tại các nhà máy sản xuất tinh bột sắn phải thải bỏ một lượng lớn, lượng vỏ sắn trực tiếp thải bỏ gây lãng phí, độc hại và ô nhiễm cho môi trường.


Nhóm giảng viên Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM đã nghiên cứu chế tạo thành công than sinh học từ vỏ sắn phế phẩm.

Một trong những loại nước thải gây ô nhiễm môi trường nặng nhất là nước thải dệt nhuộm, sản xuất da, gỗ, mực in… Màu hữu cơ xanh methylene (MB) là hóa chất được sử dụng rộng rãi trong các ngành nhuộm vải, nilon, da, gỗ; sản xuất mực in,… MB có thể gây ra các bệnh về mắt, da, đường hô hấp, tiêu hóa, thậm chí là ung thư.

Do tính tan cao, MB nói riêng và các thuốc nhuộm nói chung là tác nhân gây ô nhiễm các nguồn nước, độc hại đến con người và các sinh vật sống. Hơn nữa, thuốc nhuộm trong nước thải rất khó loại bỏ vì chúng ổn định với ánh sáng, nhiệt và các tác nhân gây oxy hóa.

Thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu phương pháp để xử lý thuốc nhuộm trong nước thải như phương pháp hấp phụ, trao đổi ion, keo tụ…, trong đó phương pháp hấp phụ tỏ ra có nhiều ưu việt bởi tính kinh tế, hiệu quả, thao tác đơn giản và dễ thực hiện. Nhóm nghiên cứu lựa chọn vỏ sắn để tạo than sinh học sử dụng như một chất hấp phụ methylene trong nước thải.

Mẫu vỏ sắn sau khi thu gom được rửa sạch, cắt nhỏ và đem sấy khô ở nhiệt độ 105 độ C trong 3 giờ. Tiếp theo, mẫu được nung yếm khí ở nhiệt độ 600 độ C trong 1 giờ, thu được sản phẩm mẫu than BC-S, có màu đen, không mùi. Kết quả phân tích cho thấy hình thái bề mặt của BC-S ở dạng các hạt phẳng xếp chồng lên nhau, chứa nhiều hóc được biết như là các tâm hấp phụ, kích thước hạt trung bình 10µm.

Xen giữa các hạt phẳng là các rãnh mao quản, hạt phẳng tương đối đều nhau, các lỗ trống xen kẽ nhiều và sâu làm tăng diện tích bề mặt riêng, vì vậy sẽ làm tăng khả năng hấp phụ. Cấu trúc BC-S tồn tại dạng tinh thể carbon graphite chứa các nhóm đặc trưng của than sinh học có diện tích bề mặt riêng là 2,66 m2/g. Các kết quả phân tích cho thấy trong cấu trúc của sản phẩm là một dạng khoáng chứa nhiều nhóm chức hữu cơ và carbon, làm cho than sinh học có khả năng hấp phụ hóa học.

Nghiên cứu khả năng ứng dụng BC-S làm chất hấp phụ MB, tại nồng độ 15ppm, thời gian hấp phụ là 25 phút, cho thấy khả năng hấp phụ cực đại là 5,10 mg MB/g BC-S. Các kết quả cho thấy có thể sử dụng BC-S làm chất hấp phụ xử lý nước thải mang màu rộng rãi ở quy mô công nghiệp.

Bảo Lâm
https://vietq.vn/san-xuat-thanh-cong-than-sinh-hoc-tu-vo-san-phe-pham-d217942.html

Chứng nhận ISO 14064: Doanh nghiệp nào nên áp dụng?

ISO 14064 là một phần bổ sung thuộc bộ tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000. Tiêu chuẩn ISO 14064 được sử dụng để giảm phát thải khí nhà kính, quản lý dấu chân các-bon và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán khí thải. Vậy doanh nghiệp nào nên áp dụng chứng nhận ISO 14064?

Chứng nhận ISO 14064 là gì?

Chứng nhận ISO 14064 (ISO 14064 certification) là hoạt động kiểm tra, đánh giá và cấp chứng chỉ do tổ chức chứng nhận ISO 14064 có thẩm quyền thực hiện nhằm đánh giá sự phù hợp của Hệ thống quản lý xác minh và tính toán khí nhà kính của doanh nghiệp.

Chứng chỉ ISO 14064 hay Giấy chứng nhận ISO 14064 được cấp sau khi doanh nghiệp chứng minh được sự tuân thủ với các yêu cầu ISO 14064.

Tiêu chuẩn ISO 14064 gồm ba phần:

Tiêu chuẩn ISO 14064-1: Đặt ra các nguyên tắc và yêu cầu ở cấp độ tổ chức để định lượng, báo cáo phát thải và loại bỏ khí nhà kính. Nó bao gồm các yêu cầu về thiết kế, phát triển, quản lý, báo cáo và xác minh kiểm kê khí nhà kính của một tổ chức.

Tiêu chuẩn ISO 14064-2: Đặt ra các nguyên tắc, yêu cầu và cung cấp hướng dẫn ở cấp dự án để định lượng, giám sát và báo cáo các hoạt động nhằm giảm phát thải hoặc tăng cường loại bỏ khí nhà kính. Nó bao gồm các yêu cầu về lập kế hoạch dự án khí nhà kính, xác định và lựa chọn các nguồn, bể chứa và bể chứa khí nhà kính liên quan đến dự án và kịch bản cơ sở, giám sát, định lượng, lập hồ sơ và báo cáo việc thực hiện dự án khí nhà kính và quản lý chất lượng dữ liệu.

Tiêu chuẩn ISO 14064-3: Đặt ra các nguyên tắc, yêu cầu và cung cấp hướng dẫn cho những người tiến hành hoặc quản lý việc xác nhận và/hoặc xác minh các khẳng định về khí nhà kính. Nó có thể được áp dụng để định lượng tổ chức hoặc dự án khí nhà kính, bao gồm định lượng, giám sát và báo cáo khí nhà kính được thực hiện theo ISO 14064-1:2018 hoặc ISO 14064-2:2018.

Doanh nghiệp nào cần có chứng nhận ISO 14064:2018?

Phiên bản mới nhất của Tiêu chuẩn ISO 14064 về Hệ thống quản lý xác minh và tính toán khí nhà kính là ISO 14064:2018.

Về bản chất, tiêu chuẩn Quốc tế ISO 14064 mang tính tự nguyện. Không có bất cứ điều khoản nào trong tiêu chuẩn bắt buộc các tổ chức phải áp dụng hay xây dựng Hệ thống quản lý xác minh và tính toán khí nhà kính. Tuy nhiên, trên thực tế, một số doanh nghiệp có thể cân nhắc áp dụng tiêu chuẩn này.

Tại Việt Nam, vào ngày 18/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định Số: 01/2022/QĐ-TTg về Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Theo đó có hơn 1000 doanh nghiệp thuộc phạm vi của Quyết định này phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Đó là các doanh nghiệp thuộc 6 lĩnh vực: Năng lượng; Giao thông vận tải; Xây dựng; Các quá trình công nghiệp; Nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất; Chất thải.

Bên cạnh các đối tượng thuộc phạm vi phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính nêu trên, một số doanh nghiệp cũng có thể phải thực hiện ISO 14064:2018 do yêu cầu từ phía khách hàng/đối tác.

Ngoài ra, các tổ chức có thể tự nguyện áp dụng tiêu chuẩn ISO 14064 vì họ nhận thấy rằng việc kiểm kê khí nhà kính là quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của mình.

Lợi ích khi sở hữu chứng nhận ISO 14064?

Việc sở hữu giấy chứng nhận ISO 14064 giúp các doanh nghiệp:

  • Xây dựng được Hệ thống quản lý xác minh và tính toán khí nhà kính đạt chuẩn Quốc tế
  • Giúp tuân thủ các yêu cầu pháp lý về quản lý môi trường
  • Là cam kết và bằng chứng về việc tuân thủ các quy định môi trường
  • Xác định các rủi ro và cơ hội liên quan đến khí nhà kính
  • Xác định và quản lý các khoản nợ, tài sản và rủi ro liên quan đến khí nhà kính
  • Tạo điều kiện cho việc giao dịch các khoản phụ cấp hoặc tín dụng khí nhà kính
  • Hỗ trợ thiết kế, phát triển và thực hiện các chương trình hoặc kế hoạch khí nhà kính tương đương và nhất quán
  • Xây dựng cơ sở để định lượng, quản lý và báo cáo phát thải khí nhà kính
  • Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và thực hiện các chiến lược và kế hoạch quản lý KNK
  • Theo dõi hiệu suất và tiến bộ trong việc giảm lượng khí thải khí nhà kính và/hoặc sự gia tăng trong việc loại bỏ khí nhà kính hiệu quả
  • Nâng cao hình ảnh thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp
  • Tăng cường năng lực cạnh tranh, dễ dàng vào thầu

Đối với người tiêu dùng, việc sử dụng dịch vụ và lựa chọn sản phẩm của những doanh nghiệp có chứng nhận ISO 14064 tức là khách hàng đang:

  • Thúc đẩy tính nhất quán, minh bạch và uy tín trong định lượng khí nhà kính
  • Khuyến khích các hoạt động giảm thiểu khí nhà kính
  • Ủng hộ các doanh nghiệp có ý thức tuân thủ Trách nhiệm xã hội
  • Đóng góp vào việc bảo vệ môi trường
  • Góp phần vào sự phát triển chung của nhân loại

VNCPC